Lần đầu tiên đọc “Sắc, Giới” của Trương Ái Linh, em đã cho rằng ông Dịch không hề yêu Vương Giai Chi. Nếu có yêu thì làm sao ông ta có thể thản nhiên, đắc ý đến vậy sau khi giết cô ấy? Chính Trương Ái Linh cũng từng nói mối quan hệ giữa họ chỉ đơn thuần là thợ săn và con mồi, giữa cọp và ma cọp vồ, một mối quan hệ mang tính chiếm hữu tuyệt đối.
Thế nhưng sau khi xem bộ phim điện ảnh chuyển thể, em lại kinh ngạc khi bản thân có thể tìm thấy bóng dáng tình yêu trong mối quan hệ ấy. Đạo diễn Lý An đã quá mềm lòng khi quay cảnh cuối cùng, ông Dịch lặng lẽ bước vào căn phòng Vương Giai Chi từng ở, ngón tay chậm rãi lướt qua lớp ga giường đầy quyến luyến nhung nhớ, trong ánh mắt thấp thoáng vẻ bi thương. Khoảnh khắc ấy khiến lòng em chấn động, hệt như khi Vương Giai Chi đứng trong cửa hàng trang sức. Lúc ấy, em nghĩ có lẽ ông ta thực sự đã yêu cô ấy.
Em không biết tình yêu ấy trong phim là do đạo diễn Lý An khéo léo dàn dựng nên? Hay chính em đã bỏ lỡ điều gì khi đọc tiểu thuyết? Vậy nên, em quyết định đọc lại “Sắc, Giới” trong tuyển tập của Trương Ái Linh một lần nữa.
Trong cuốn tiểu thuyết không quá dài này, tất cả đều xoay quanh chữ “kịch” như một sợi dây dẫn. Nữ chính Vương Giai Chi là một kẻ si mê sân khấu. Trên đài diễn cô là một Hoa Đán rạng rỡ chói sáng dưới ánh đèn. Nhưng khi màn nhung khép lại, mọi người đã rời đi, chỉ còn mình cô cố chấp nán lại, như thể cả thế gian tỉnh táo chỉ riêng cô vẫn mụ mị trong cơn mê. Cô trở thành đặc vụ cũng chỉ bởi quá yêu nghiệp diễn, thậm chí khi đứng dưới ánh đèn sân khấu vàng vọt, cô còn thấy Lương Nhuận Sinh chẳng đến nỗi đáng ghét. Để diễn trọn vẹn vở kịch này mà cô sẵn sàng hi sinh thân thể mình, rồi cuối cùng lại nhập vai đến mức si dại điên cuồng như một giấc mộng Trang Chu, chẳng thể phân biệt đâu là thật, đâu là giả.
Dùng cuộc đời để dàn dựng thành một vở kịch là lối kể chuyện quen thuộc dưới ngòi bút của Trương Ái Linh. Như trong tiểu thuyết “Bá Vương Biệt Cơ”, Vu Cơ đâm dao vào ngực rồi thốt lên: “Tôi thích cái kết như thế này.” Một cái kết rực rỡ huy hoàng là phần sâu sắc nhất, để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong một vở kịch. Sắc, Giới cũng vậy, nhưng người đẩy câu chuyện lên cao trào trong cuốn tiểu thuyết này không phải Vương Giai Chi mà chính là ông Dịch.
Xung quanh ông Dịch không bao giờ thiếu những bóng hồng giai nhân. Là kẻ lão luyện trong chuyện đưa đón phụ nữ và làm vui lòng họ, nhưng tất cả những điều đó trong mắt ông đều nhờ vào địa vị và quyền lực. Vương Giai Chi cũng chẳng phải ngoại lệ, từ Hồng Kông cho đến Thượng Hải, dù cuộc gặp gỡ giữa họ đầy đẹp đẽ lưu luyến nhưng cô cũng chỉ là một người đẹp thoáng qua trong đời. Cho đến khi bước ngoặt xảy ra: cô ám chỉ để ông chạy trốn khỏi cửa hàng trang sức. Trở về nhà, ông vẫn chưa nguôi hoảng hốt, nhưng xen lẫn trong đó là sự kinh ngạc. Ông ta nghĩ hẳn Vương Giai Chi đã yêu mình say đắm, nếu không cô sẽ chẳng thể từ bỏ kế hoạch ám sát được thiết kế tỉ mỉ kín kẽ suốt hai năm ròng để cứu mình. Một niềm vui sướng hân hoan trào dâng trong lòng ông, không thể nào ngờ đến tuổi trung niên rồi còn gặp được một người thấu hiểu và hòa hợp với mình đến vậy. Và thế là ông cũng trượt chân rơi vào vở kịch này, chẳng thể thoát thân.
Từ giây phút đó, mọi thứ đều trở nên hợp lý. Cô yêu ông nên ông muốn giết cô. Với một kẻ mang tâm lý yêu thương bản thân đến mức cực đoan như ông Dịch thì giết cô mới là cách duy nhất để chiếm đoạt cô vĩnh viễn. Ông ta không hề sợ hãi việc Vương Giai Chi sẽ hận mình, vì ông tin rằng không độc ác thì không phải đàn ông. Nếu ông ta không phải người như vậy thì cô đã chẳng đem lòng yêu.
Cô chết rồi, chết trong khoảnh khắc cô yêu ông nhất. Vậy là tình yêu bị giết chết trong phút chốc ấy trở thành điều vĩnh hằng. Sau cùng cô trở thành ma cọp vồ của ông, cả cô và tình yêu của cô dành trọn cho ông, mãi mãi quẩn quanh chẳng thể nào thoát ra được nữa.
Tình yêu dừng lại ở thời khắc huy hoàng nhất, chính là cái kết viên mãn nhất cho vở kịch này.
Lý Quỳ Nhất buông bút, xoa đầu lông mày. Trên bàn chỉ có một chiếc đèn học tỏa ánh leo lắt. Phương Tri Hiểu đang say giấc nồng trên cái giường nhỏ cạnh bàn học, lồng ngực phập phồng theo từng nhịp thở đều đặn.
Không biết có phải vì khóc quá nhiều trong lúc xem phim hay không mà đôi mắt Lý Quỳ Nhất nhức nhối. Song cô lại không buồn ngủ, cô muốn viết tiếp nhưng nhưng không tài nào viết được, đành vội ghi lại ngày tháng năm, tờ nhật ký tuần còn dang dở bỗng kết thúc đột ngột.
Cô dựa lưng vào ghế, thần người như đang chìm trong suy tư.
Một lúc lâu sau cô lại cầm bút viết tiếp:
Những điều trên chỉ là cách lý giải tiểu thuyết Sắc, Giới.
Trong bộ phim điện ảnh, có lẽ vì được khắc họa rõ nét hơn nên tình yêu của ông Dịch khiến lòng người rung động, bớt đi vài phần biến thái u ám. Đặc biệt là Vương Giai Chi có một thân phận rõ ràng hơn: một cô gái bị cha bỏ rơi, lưu lạc giữa thời chiến loạn, phải ăn nhờ ở đậu trong một ngôi trường tại Hồng Kông… Một nữ sinh cô độc bơ vơ không nơi nương tựa, chỉ khi đứng trên sân khấu với vai nữ chính mới có thể nhận được sự tán thưởng, sự kính trọng và tình yêu. Đó là thứ cảm giác mà cô chưa một lần có trong đời. Cô tham lam khao khát muốn giữ chặt nó, muốn nó mãi mãi ở lại bên cô. Có lẽ cũng bởi thế mà trong vở kịch “cạm bẫy sắc đẹp” sau này, tình yêu của ông Dịch lại trở thành một chi tiết sáng chói rực rỡ nhất.
Tình yêu là thứ khiến lòng người rung động xao xuyến và người được yêu thì luôn trong cảm giác được hơi ấm bao bọc vỗ về. Bất kể trong tiểu thuyết hay trên phim, mỗi khi thoáng thấy dấu vết của tình yêu em đều thở phào nhẹ nhõm cho Vương Giai Chi. Bởi lẽ, dù cô đã chết nhưng dường như không còn gì phải nuối tiếc. Song chính suy nghĩ ấy không khỏi khiến em rùng mình. Gấp lại trang sách trở về thực tại làm em thấy bản thân thật nông cạn hời hợt như thể con người dành cả một đời chỉ để hoàn thành bài học mang tên “được yêu”?
Em tự nhắc bản thân rằng phải duy trì khoảng cách với tác phẩm văn học. Thứ tình yêu có thể dễ dàng rung chuyển cả thành quách, khiến con người ta bất chấp tất cả, thậm chí trả một cái giá rất đắt chỉ là những mộng ảo không thật như hoa trong gương, trăng trong nước. Quay trở về với thực tại, tình yêu chỉ là một trong những nhu cầu sinh lý và tâm lý cơ bản nhất của con người. Nhưng nào có dễ dàng đến thế? Trăm hoa đua nở làm người lạc bước, mỗi khi em mường tượng về tình yêu, nó vẫn cháy bỏng mãnh liệt như ánh dương rực rỡ, từng lời nói từng cử chỉ đều thành một dấu ấn không thể xóa nhòa, khắc sâu vào tâm khảm.
Lý Quỳ Nhất đặt bút xuống. Bây giờ đã là năm giờ sáng, bầu trời đen thăm thẳm hiện ra qua khe hở của tấm rèm. Cô cứ thẫn thờ nhìn chăm chăm trong chốc lát rồi thốt nhiên thấy lòng bình thản đến lạ. Hướng mắt về cuốn nhật ký tuần, cô lại ngồi trầm ngâm không biết có nên nộp nó cho cô chủ nhiệm không.
Liệu Lưu Tâm Chiếu có nghĩ rằng một đứa học sinh mới mười lăm tuổi như cô mà không chú tâm học hành, suốt ngày chỉ nghĩ đến chuyện yêu đương không?
Liệu cô chủ nhiệm có nghĩ rằng một đứa học sinh mới mười lăm tuổi như cô tại sao lại xem loại phim như Sắc, Giới? Đúng là một đứa trẻ hư hỏng.
Bản năng mách bảo rằng Lưu Tâm Chiếu sẽ không nghĩ vậy, thay vì tin tưởng cô ấy, thà nói là cô khao khát cô ấy tin mình.
Tạm dừng chuyện ở đây thôi, cô gấp lại nhật ký tuần.
Vì lý do nào đó mà cô vẫn không ngủ được nên đành quay về giường, dựa lưng vào gối chọn ngẫu nhiên một cuốn sách trong đống sách đặt trên đầu giường. Cuốn sách cô rút ra có tên “Trường Hận Ca” của Vương An Ức. Cô đã đọc cuốn này nhưng lúc này buồn chán không biết làm gì bèn giở ra đọc giết thời gian. Ngay trang đầu tiên, ba dòng chữ đập vào mắt cô:
Ngày 15 tháng 3 năm 2010
Mua tại hiệu sách thành phố Bác Nhã
Tô Kiến Lâm
Lúc này Lý Quỳ Nhất mới sực nhớ cuốn sách này đã bị Tô Kiến Lâm bỏ quên ở nhà mình. Khi cô nhắc lại, anh chỉ thản nhiên bảo không cần nữa. Và thế là nó trở thành của cô, đồng thời cũng là cuốn sách đầu tiên của Vương An Ức mà cô đọc.
Sau này cô học theo anh, mỗi khi mua một cuốn sách đều ghi lại thời gian và địa điểm mua vào trang bìa lót của sách.
Trong sách vẫn còn những dòng ghi chú cô đã viết khi đọc. Điều này cũng giống như việc cô ghi chép trên lớp. Cô không thích dùng vở ghi nên thường vẽ vời minh họa trong sách giáo khoa hoặc viết một vài suy nghĩ riêng của bản thân ở bên lề. Giờ lật giở xem lại những ghi chú của mình, cô chỉ thấy chúng thật trẻ con và buồn cười, ngay cả nét chữ cũng không nắn nót ngay ngắn. Lý Quỳ Nhất vừa giở trang sách vừa lật lại ký ức cho đến tận lúc trời sáng hẳn.
Hơn mười giờ Phương Tri Hiểu mới tỉnh dậy. Vì tối qua khóc nên mắt cô nàng sưng húp khiến hai mí thành ba mí, trông vô cùng hài hước nên Lý Quỳ Nhất không khỏi bật cười. Phương Tri Hiểu tưởng cô bạn cười mình vì mắt có ghèn bèn vội vã lau qua quýt rồi hỏi: “Hết chưa? Còn không?”
Rửa mặt xong xuôi, Phương Tri Hiểu lôi từ trong cặp ra một cuốn tạp chí giải trí vừa mua, hai cô chụm đầu lại đọc mấy tin đồn về giới nghệ sĩ. Mới vừa ngồi đọc trong chốc lát thì cửa phòng bị đẩy vào để lộ cái đầu nho nhỏ, ngẩng lên nhìn thì thấy đó là em trai của Lý Quỳ Nhất. Cậu bé đang bám vào khung cửa thập thò ngó vào bên trong.
Em trai Lý Quỳ Nhất được đặt tên là Lý Truất Nhất. Lần đầu tiên Lý Quỳ Nhất nghe tên em trai vào sáu năm trước đã cực kỳ vui sướng bởi cái tên này rõ ràng được đặt theo tên của cô, điều đó mang đến cho cô một cảm giác thân thuộc trong gia đình. Khi ấy cô cũng giống như Vương Giai Chi, thầm nghĩ: Họ thực sự yêu thương mình.
Cô không thân thiết với em trai. Hứa Mạn Hoa luôn muốn tự tay lo liệu mọi chuyện của cậu bé, Lý Quỳ Nhất hiếm khi chủ động bắt chuyện hay chơi cùng em trai. Có lẽ vì cô quá trẻ con hoặc có lẽ cô quá hẹp hòi nhưng khi chứng kiến tình yêu thương của bố mẹ dành hết cho em khiến cô khó tránh khỏi nảy sinh giận hờn oán trách.
Cô không đưa hộp sô-cô-la mà Hạ Du Nguyên tặng mình cho em trai. Cái hộp ấy vẫn đang được cất trong ngăn bàn. May mà giờ tiết trời se lạnh nên sô-cô-la sẽ không bị tan chảy.
Phương Tri Hiểu nhe răng trợn mắt làm dáng vẻ như muốn ăn thịt Lý Truất Nhất. Cô nàng chẳng ưa gì thằng bé này. Trong mắt cô, nó chẳng hề vô tội vì chính sự có mặt của nó là lý do khiến Lý Quỳ Nhất phải chịu bao ấm ức tủi hờn như thế.
Chẳng ngờ Lý Truất Nhất lại tưởng Phương Tri Hiểu làm mặt xấu để trêu đùa mình bèn bật cười khanh khách, để lộ hàm răng sữa đã sún gần hết.
Tiếng cười ấy thu hút sự chú ý của Hứa Mạn Hoa. Bà nhìn con trai đang đứng ở cửa phòng Lý Quỳ Nhất bèn đẩy mạnh cánh cửa làm nó đập sầm vào tường, ngay sau đó là tiếng mắng mỏ: “Đứng đây làm gì, không cẩn thận lại bị kẹp tay bây giờ!”
Tuy nói với con trai nhưng lại có ý ngầm trách Lý Quỳ Nhất để mặc cậu bé đứng đó.
“Ra ăn cơm.” Hứa Mạn Hoa sẵng giọng rồi dắt Lý Truất Nhất sang phòng ăn.
Hôm nay Lý Kiếm Nghiệp ăn trưa ở cửa hàng, thành thử chỉ có bốn người ngồi ăn với nhau. Hứa Mạn Hoa đút cơm cho Lý Truất Nhất nhưng thằng bé cứ lắc đầu quầy quậy, ra điều kiện buổi chiều phải cho cậu đi nhà hơi thì mới ăn. Hứa Mạn Hoa mắng cậu là đồ chỉ biết vòi vĩnh vớ vẩn nhưng vẫn đồng ý với chuyện đó.
Lý Quỳ Nhất và cơm rồi nói: “Tối nay lớp con họp phụ huynh.”
“Tối mò tối mẫm họp cái gì mà họp?” Hứa Mạn Hoa cau mày.
“Cả khối đều họp vào giờ đó.” Lý Quỳ Nhất đáp.
“Thế thì sao mẹ đi được? Không thể để em con ở nhà một mình không ai trông nom được.”
Phương Tri Hiểu tiếp lời: “Thế còn chú ạ? Chú cũng không đi được à cô?”
“Chú còn phải trông cửa hàng.”
Cái cửa hàng kính mắt ấy đâu có mở cửa 24/7, lấy lý do như thế chẳng qua chỉ là cái cớ. Đóng cửa một tối cũng chẳng ảnh hưởng gì nhiều, nói thẳng ra là không muốn đi họp phụ huynh mà thôi. Cả Phương Tri Hiểu và Lý Quỳ Nhất đều hiểu rõ điều đó.
Thực lòng Lý Quỳ Nhất rất mong Hứa Mạn Hoa tham dự buổi họp này. Cô muốn để mẹ mình nhìn thấy tấm ảnh chụp cô trên bảng vàng tuyên dương, muốn bà nghe những lời khen ngợi không ngớt từ các giáo viên. Cứ như thể bằng cách ấy, cô có thể chứng minh rằng mình đã thắng: Dù mẹ có bỏ bê con thế nào đi chăng nữa, con vẫn tỏa sáng rực rỡ đó thôi.
Phương Tri Hiểu nở nụ cười mỉa mai: “Cô bình tĩnh thật đấy. Cô biết Lý Quỳ Nhất thi được hạng mấy không ạ? Hạng nhất đấy ạ, mà còn là nhất thành phố! Nếu cháu mà thi được như thế thì mẹ cháu không chỉ sửa soạn để đi họp phụ huynh mà khéo còn bắc loa rao suốt ba ngày ba đêm trong cả khu ấy chứ. Dù cháu có muốn trăng trên trời thì mẹ cháu cũng hái xuống bằng được. Nói ra thì có vẻ học giỏi cũng chẳng ích gì, học dốt như cháu vẫn thích hơn, chỉ cần thành tích tiến bộ chút xíu là muốn gì được nấy. Hì hì, Lý Quỳ này, cậu học giỏi thế mà sao lại thảm thương như này cơ chứ!”
Những lời nói ấy làm Hứa Mạn Hoa không khỏi phật lòng. Nghe thì như trêu đùa nhưng ý tứ bên trong lại ám chỉ rằng bà chẳng hề quan tâm đến con gái. Sắc mặt bà ta tối sầm ngay tức khắc.
Phương Tri Hiểu vẫn chưa chịu dừng: “Mẹ cháu thích Lý Quỳ lắm. Cháu kể với mẹ lần này Lý Quỳ lại thi được hạng nhất thành phố làm mẹ cháu chỉ muốn quăng cháu ra ngoài để đi họp phụ huynh cho Lý Quỳ. Mẹ cháu ham hư vinh lắm nên cứ ngồi tưởng tượng nếu được đi họp phụ huynh cho Lý Quỳ thì chẳng khác nào minh tinh màn bạc được săn đón, giáo viên thì khen ngợi không ngớt, còn các bậc cha mẹ khác sẽ nhìn với ánh mắt ghen tị hâm mộ. Mẹ cháu ngồi đó hệt như Phật Như Lai tỏa ánh hào quang chói lòa bốn phía! Úi chà, ngay cả cháu cũng thấy xúc động rồi đây này.”
Hứa Mạn Hoa xúc một thìa cơm đưa đến bên miệng con trai. “Để cô xem xét, Quỳ Nhất học hành tốt nên cô chú không cần quá bận tâm. Họp phụ huynh chỉ để trao đổi tình hình học hành của con cái với giáo viên mà thôi. Quỳ Nhất không có vấn đề gì thì cô chú cũng không cần thiết phải đi.”
Phương Tri Hiểu: “…”
Tức quá đi mất, đúng là người lớn lươn lẹo, ăn muối còn nhiều hơn cả cô ăn cơm.
Tính tình Phương Tri Hiểu vốn nóng nảy bộp chộp, lúc này chẳng buồn quanh co lòng vòng nữa mà cao giọng: “Sao lại không cần thiết phải đi? Lý Quỳ Nhất học giỏi nên không cần quan tâm để ý nữa ư? Cô đừng thiên vị quá đáng như thế, cháu đây…”
Lý Quỳ Nhất đập đũa xuống bàn, mặt mày lạnh tanh: “Phương Tri Hiểu!”
Phương Tri Hiểu lập tức sững người, cô ngoảnh sang nhìn Lý Quỳ Nhất, khuôn mặt vốn đã lạnh lùng của cô bạn giờ càng nghiêm nghị đáng sợ hơn, khiến cô không khỏi giật thót trong lòng, không biết mình có nói sai điều gì không. Cô nhìn sang Hứa Mạn Hoa cũng thấy một gương mặt xám ngoét đanh lại. Song nực cười rằng vào khoảnh khắc này, Lý Quỳ Nhất và mẹ mới thật sự trông giống như một cặp mẹ con ruột thịt.
Lý Quỳ Nhất đứng bật dậy đi vào phòng ngủ trong ánh nhìn bối rối lúng túng của Phương Tri Hiểu. Chốc lát sau cô xách theo cặp sách của cả hai, lạnh nhạt nói với Hứa Mạn Hoa: “Mẹ có đi hay không cũng chẳng sao cả. Nhưng nếu không đi thì mẹ nhớ gọi điện xin phép cô chủ nhiệm và nói rõ lý do.”
Dứt lời, cô kéo Phương Tri Hiểu đi thẳng ra ngoài cửa trước ánh mắt kinh ngạc xen lẫn tức giận của Hứa Mạn Hoa.
Hai cô cứ im lặng suốt một quãng đường dài. Phương Tri Hiểu cúi gằm mặt, không dám ngoảnh sang nhìn Lý Quỳ Nhất. Càng nghĩ cô càng thấy ảo não, thầm giận bản thân vì cái tính nóng nảy thiếu kiên nhẫn, cớ gì cứ phải nói toạc mọi chuyện như thế. Dù có thể làm mình hả hê trong phút chốc nhưng Lý Quỳ Nhất biết phải đối mặt sao bây giờ? Liệu Lý Quỳ Nhất có còn muốn về cái nhà đó nữa không?
“Tớ xin lỗi…” Phương Tri Hiểu sụt sùi rơi nước mắt.
“Tớ không trách cậu.” Lý Quỳ Nhất hơi ngừng lại rồi nói tiếp: “Thật đấy. Mấy lời cậu nói cũng là suy nghĩ trong lòng tớ. Nhưng tớ nhát gan không dám nói với bố mẹ, giờ có cậu nói thay cũng tốt.”
Cô nói thế không phải để an ủi cô bạn mà trong thâm tâm đã luôn nghĩ như vậy. Cô có thể mạnh mẽ cứng rắn khi đối mặt với người ngoài, chẳng hạn như không thích Hạ Du Nguyên giật tóc hay vỗ đầu mình, cô sẽ nói thẳng với cậu ta. Nhưng với gia đình, cô lại không làm được điều đó. Trước mặt bố mẹ, cô luôn chùn bước bởi cô mới là người cầu xin sự thương xót từ họ. Cũng may cô không phải là một con chó nhỏ nên chẳng có chiếc đuôi nào để phản bội cảm xúc của mình. Cũng may khuôn mặt cô lúc nào cũng lạnh lùng, nếu không chắc đã chẳng thể che giấu lâu đến thế. Vậy nên Phương Tri Hiểu nói ra những lời ấy cũng tốt.
Phương Tri Hiểu rưng rưng nhìn cô như thể không tin nổi.
Lý Quỳ Nhất mỉm cười, đưa cặp sách cho cô nàng: “Cậu tự đeo đi, nặng thật đấy.” Nói rồi cô nhìn xung quanh và thấy một quán lẩu cay. “Cậu vẫn chưa ăn no đúng không? Tớ mời cậu đi ăn nhé.”
Phương Tri Hiểu lau nước mắt trề môi: “Ừ.”
Ăn xong, hai người bắt xe buýt đến thư viện thành phố. Phương Tri Hiểu vào đây để làm bài tập còn Lý Quỳ Nhất đã làm xong bài nên chỉ ngồi đọc sách. Lý Quỳ Nhất chủ động lấy bài tập văn của mình đưa cho Phương Tri Hiểu: “Này, không muốn nghĩ thì cứ lấy của tớ mà chép.”
Đây quả là cách thức đúng đắn để dỗ dành nên Phương Tri Hiểu đã thôi buồn bã mà nhoẻn miệng cười.
Hầu hết học sinh ở mọi lứa tuổi đều chẳng mấy hứng thú với bài tập về nhà môn Văn bởi phải viết quá nhiều. Vì thế giáo viên Ngữ văn thường không có tiếng nói, thậm chí còn dễ bị học sinh bắt nạt. Nhưng Lý Quỳ Nhất là người luôn nghiêm túc hoàn thành mọi bài viết, thậm chí còn cẩn thận nắn nót từng nét chữ khi viết những bài thơ cổ hệt như chép chính tả.
Phương Tri Hiểu lấy vở bài tập Văn trong cặp ra rồi bắt đầu “copy paste”. Lý Quỳ Nhất hơi nghiêng người, tựa vào bàn, đắm chìm trong quyển sách lịch sử về triều đại nhà Tống. Ánh nắng chiều len qua khung cửa sổ, không quá chói chang mà ấm áp, nhẹ nhàng rọi xuống bàn gỗ. Mùa thu đến mang theo những điều rất riêng, chẳng hạn như tiết trời khô ráo man mát thoải mái của ngày hôm nay.
Chép được hơn nửa bài thì bỗng Phương Tri Hiểu nghe thấy tiếng sụt sịt khe khẽ ở bên cạnh, như có ai đó đang kìm nén cơn nức nở. Cô nhìn sang thấy Lý Quỳ Nhất vẫn đang chăm chú đọc sách, nhưng nước mắt lại lăn dài trên gò má cô, từng giọt nhỏ xuống mặt bàn, thấm thành những vệt nước trong suốt.
Thôi xong rồi, cậu ấy vẫn để tâm chuyện đó, tim Phương Tri Hiểu bất giác hẫng một nhịp. Cô vội vàng rút khăn giấy, hết tờ này đến tờ khác đưa cho bạn nhưng nước mắt của Lý Quỳ Nhất vẫn không ngừng tuôn rơi. Nhìn cảnh ấy, cô cũng muốn khóc theo. Hôm nay, cô đã phạm một sai lầm nghiêm trọng. Cô đành phải kéo Lý Quỳ Nhất rời khỏi khu vực đọc sách sang một chỗ có thể nói chuyện, định an ủi và chân thành xin lỗi cô ấy.
Lý Quỳ Nhất bị kéo đi, khịt mũi hỏi: “Sao thế?”
Giọng Phương Tri Hiểu nghẹn ngào run run: “Cậu đừng khóc được không? Tất cả là lỗi của tớ, tại tớ xúc động không biết kiềm chế, tớ xin lỗi cậu.”
“Tớ đã nói là không trách cậu mà?”
“Nhưng tớ thấy cậu buồn nên tớ cũng buồn theo…”
Lý Quỳ Nhất nín khóc mỉm cười: “Cậu đang nghĩ tớ khóc vì chuyện kia à?”
“Còn chuyện khác chắc?”
“…Tớ đang đọc đến đoạn Vương An Thạch cải cách chính trị, tớ thấy ông ấy đáng thương quá. Ông ấy chỉ là một ông già nhỏ bé tứ cố vô thân. Cậu có biết không, không một ai đứng về phía ông ấy cả.” Dứt lời Lý Quỳ Nhất lại sụt sùi. Phương Tri Hiểu vỡ lẽ, giơ nắm đấm hăm dọa: “Á à, cậu phải bồi thường phí tổn thất tinh thần cho tớ!”
Tiết tự học tối đó, đám học sinh ngồi dưới lớp cặm cụi làm bài còn Lưu Tâm Chiếu sắp xếp bày biện đồ đạc trên bục giảng để chuẩn bị cho buổi họp phụ huynh. Cô cầm phấn viết mấy chữ chào mừng thật to lên bảng và vẽ thêm vài hình minh họa. Các học sinh ngồi dưới thỉnh thoảng lại tò mò ngước lên rồi thì thầm to nhỏ.
Đến tiết tự học thứ hai đã có một vài phụ huynh đứng ngoài lớp học. Bọn họ cứ ngó nghiêng nhìn qua cửa sổ như thể đang tìm xem con mình ngồi ở đâu và chúng có học hành nghiêm túc hay không. Đám học sinh trong lớp bắt đầu nhấp nhổm đứng ngồi không yên.
Rốt cuộc cũng đến lúc tan tiết. Lưu Tâm Chiếu dặn dò: “Cả lớp di chuyển lên phòng học 501 trên tầng năm nhé. Cô sẽ giao cả lớp viết một bài văn, viết xong nộp lại cho lớp phó môn văn rồi…”
Cô tạm ngừng lại khiến cả lớp hồi hộp nín thở chờ đợi.
Lưu Tâm Chiếu nhoẻn miệng cười: “Sau đó các em được phép xuống sân thể dục chơi tự do.”
“Ấu dề!!!” Cả lớp vui sướng hò reo.
Lưu Tâm Chiếu gõ lên bàn giáo viên: “Nhưng không được đi lung tung gây mất trật tự ảnh hưởng đến việc học của lớp khác. Các em chỉ được phép hoạt động trong sân thể dục và phải tập trung lại trước năm phút tan học, cả lớp nghe rõ chưa?”
“Rõ rồi ạ!” Cả lớp sung sướng gào lên, nhanh nhẹn thu dọn sách vở vào cặp.
“Hạ Lạc Di, em dẫn các bạn lên phòng nhé. Lý Quỳ Nhất vào văn phòng với cô một lát.” Lưu Tâm Chiếu nói thêm.
Cửa phòng lớp học vừa được mở thì đám học sinh đã xô nhau chạy ùa ra nhưng bị phụ huynh đang đứng chờ bên ngoài tóm lại, bèn đứng trả lời qua quýt vài câu rồi chuồn đi. Lý Quỳ Nhất vừa vào văn phòng thì Lưu Tâm Chiếu đã đưa cho cô xấp giấy kiểm tra. “Nếu em viết xong sớm thì cứ đi chơi, dặn các bạn để bài lên bàn giáo viên là được, đừng ngốc nghếch chờ các bạn.”
Lý Quỳ Nhất ngờ nghệch cười: “Dạ vâng ạ.”
Ngay khi cô định rời đi với chồng giấy trên tay thì thốt nhiên có một người chen vào phòng ngay trước mặt cô. Đó là Hứa Mạn Hoa!
Lý Quỳ Nhất mở to mắt, chưa kịp ngạc nhiên thì Hứa Mạn Hoa đã tiến thẳng đến trước bàn Lưu Tâm Chiếu cười chào hỏi: “Chào cô Lưu, tôi là mẹ của Lý Quỳ Nhất.”
Lưu Tâm Chiếu thoáng ngạc nhiên nhưng nhanh chóng lấy lại vẻ bình thản, lặng lẽ quan sát Lý Quỳ Nhất rồi chìa tay về phía người phụ nữ đối diện: “Chào chị, mời chị ngồi.”
Hứa Mạn Hoa ngồi xuống một cái ghế trống, cất giọng hỏi han: “Con bé Lý Quỳ Nhất trên lớp có ngoan ngoãn nghe lời không thưa cô?”
Lưu Tâm Chiếu cười đáp: “Em ấy tuy ít nói nhưng mọi mặt đều xuất sắc.”
“Vậy thì tốt, vậy thì tốt.” Hứa Mạn Hoa cũng cười nhưng chợt cau mày phàn nàn: “Ban đầu tôi cũng hơi lo lắng. Cô không biết đấy thôi, con bé này luôn tự làm theo ý mình, bề ngoài trông ngoan ngoãn là thế mà cũng bướng bỉnh cứng đầu lắm, mọi thứ mà không vừa ý nó là không xong đâu.”
“Vậy à?” Lưu Tâm Chiếu thản nhiên đáp lại, đưa mắt nhìn Lý Quỳ Nhất đang nán lại trước cửa văn phòng. Cô đang ôm tập giấy kiểm tra thành thử dù đi hay ở lại đều khó xử lúng túng, bàn tay siết chặt không biết phải làm thế nào.
Hứa Mạn Hoa như thể đang kể một chuyện thú vị, khóe mắt hằn lên vài nếp nhăn khi cười: “Đúng vậy đó. Bướng không ai bì được! Cái hồi nó thi vào cấp ba được trường thưởng cho một trăm nghìn tệ. Ôi chao, vậy mà nó lại cầm tất một trăm nghìn tệ đó, chúng tôi làm cha mẹ còn chẳng được nhìn thấy nổi một tờ. Ai nghe chuyện này chắc cũng khó mà tin nổi.”
Lưu Tâm Chiếu không vội đáp lời, chỉ im lặng nhìn Hứa Mạn Hoa, ý cười trong mắt nhạt dần. Bỗng nhiên cô vẫy tay gọi Lý Quỳ Nhất đi vào: “Đúng như lời mẹ em nói à?”
Lý Quỳ Nhất cụp mắt, tay mân mê mép tờ giấy, một lúc lâu sau mới gật đầu.
Lưu Tâm Chiếu đứng dậy, dịu dàng xoa đầu cô rồi nói: “Em cũng giỏi đấy chứ.”
Cô ngoảnh lại nhìn Hứa Mạn Hoa: “Một đứa trẻ có chính kiến như vậy quả là hiếm thấy. Làm cha mẹ, hẳn phải biết trân trọng và nuôi dạy cho tốt. À, cuộc họp phụ huynh sắp bắt đầu rồi, hay là chúng ta lên lớp nói chuyện tiếp nhé?”