Từng ngày trôi qua nhanh như tiếng “roẹt” khi xé tờ lịch treo tường, mỗi lần xé là một ngày nữa khẽ trôi đi.
Bóng chiều dần tắt, nhường chỗ cho màn đêm buông xuống. Hai hàng cây ngân hạnh ngay lối vào sân thể dục rực rỡ ánh vàng dưới khoảng trời thăm thẳm mây lững lờ trôi. Tờ giấy dán trên bảng thông báo đã cong queo quăn mép phai màu thời gian, đến một ngày nào đó sẽ bị vứt bỏ trong âm thầm.
Kỳ thi tháng đầu tiên của khối 10 sắp đến gần. Điểm thi tháng là căn cứ để phân chia khối Tự nhiên và Xã hội nên tất cả học sinh đều dốc sức ôn luyện. Không khí căng thẳng càng bao trùm lớp A1, lớp chọn của khối, nơi mọi người đều mang trong mình áp lực vô hình: đối với học sinh lớp thường, không cố gắng đồng nghĩa với việc không thể bước vào lớp chọn; còn với học sinh lớp chọn, không cố gắng đồng nghĩa với việc bị loại.
Đặt hai chuyện này lên bàn cân so sánh thì việc bị “loại” luôn tàn khốc hơn rất nhiều.
Trường cấp ba Liễu Nguyên số 1 từ lâu đã chú trọng đến khối Tự nhiên hơn Xã hội. Đã là học sinh lớp chọn thì không được phép chọn khối Xã hội. Tuy nhiên sau khi tiến hành chia khối, lớp chọn Tự nhiên chỉ có sĩ số ba mươi người, đồng nghĩa với việc sẽ có học sinh bị loại ra khỏi danh sách lớp. Mỗi học sinh trong lớp này đều từng là niềm tự hào của ngôi trường cấp hai mà mình theo học, từng xuất sắc lọt vào top 100 toàn thành phố trong kỳ thi tuyển sinh vào lớp 10. Nhưng chính từ đây, một cuộc sàng lọc khắc nghiệt mới thực sự bắt đầu. Khi những cá nhân ưu tú được gom lại cùng một chỗ, cuộc cạnh tranh trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Nếu không thể chứng tỏ bản thân, nếu không đủ nổi bật giữa những người xuất sắc khác thì chỉ có một kết cục bị nhấn chìm, bị vùi sâu dưới đáy. Liệu ai có thể chấp nhận được sự chênh lệch lớn đến thế?
Đây là bài kiểm tra mà bất cứ học sinh nào của lớp A1 cũng phải trải qua. Chu Phương Hoa là một trong số đó. Mặc dù thành tích thi vào cấp ba của cô thuộc top 100, nhưng hồi cấp hai, cô chưa từng cảm thấy áp lực lớn đến vậy. Cô vốn là một người nhút nhát, ít nói, không thuộc kiểu con gái hoạt bát dễ dàng thu hút sự chú ý. Nhưng vì thành tích khá nên cô vẫn được giáo viên và các bạn hay nhắc tên. Vì vậy điểm số trở thành niềm tự hào duy nhất và là nguồn gốc của sự tự tin cùng cảm giác an toàn trong cô.
Nhưng bây giờ, mọi thứ dường như đã vượt ra khỏi tầm kiểm soát. Chẳng hạn, cô rất thích môn Lý, khi nghe thầy giảng bài cô sẽ thấy kiến thức định lý rất rõ ràng, nhưng khi vận dụng nó để làm bài tập thì lại trở nên bối rối hoang mang, và càng bất lực hơn khi gặp những đề bài hóc búa. Lại như cô đã học rất kỹ các kiến thức Chính trị Lịch sử nhưng vẫn mắc lỗi khi làm bài trắc nghiệm, không giành được trọn vẹn điểm trong các câu hỏi tự luận.
Sự đả kích khi không giải được bài tập ngày càng lớn dần dần bào mòn sự tự tin của cô. Cô không dám làm những đề quá hóc búa, chỉ muốn làm đi làm lại các dạng đề quen thuộc. Tuy ngồi cạnh người đứng đầu khối nhưng cô lại chẳng dám hỏi quá nhiều vì sợ làm phiền bạn, và cô sẽ thấy rất xấu hổ khi cứ phải liên tục nhờ cô ấy giảng bài. Cô không hỏi, Lý Quỳ Nhất cũng không chủ động nhắc đến.
Lý Quỳ Nhất hiếm khi quan tâm đến việc học của người khác. Đôi lần, cô vô tình thấy Chu Phương Hoa đang loay hoay với một đề bài khó nhằn, cô cũng không vội vàng giúp đỡ bởi cô có một thói quen xấu: khi cô đang tập trung suy nghĩ một vấn đề mà có người xen vào chỉ dạy, cô sẽ tức đến mức ba ngày ba đêm không ngủ được. Hứ, dám coi thường tôi à!
Suy bụng ta ra bụng người nên cô nghĩ Chu Phương Hoa cũng sẽ có cảm giác tương tự. Nhưng Kỳ Ngọc thì không như vậy. Cậu thường xuyên tìm cô thảo luận bài tập, mang đến những đề bài từ các kỳ thi, đôi khi còn đổi chỗ với Chu Phương Hoa trong giờ tự học để tiện trao đổi. Những cuộc thảo luận giữa hai người hiếm khi cần nhiều lời, chỉ cần vài nét vẽ trên giấy, vài phép tính, vài bước suy luận là đã đủ hiểu nhau.
Cùng với kỳ thi tháng, Kỳ Ngọc còn mang đến một tin tức khác. Nhà trường đang lên kế hoạch tuyển chọn học sinh để tham gia các kỳ thi học sinh giỏi, đồng thời tách riêng họ khỏi các học sinh theo học chương trình phổ thông, lập một lớp chuyên biệt chỉ dành cho thi đấu. Những học sinh này sẽ dành toàn bộ thời gian cho các môn chuyên sâu. Những năm trước, họ vẫn học cùng lớp chính, chỉ đến buổi tự học tối mới tập trung ôn luyện. Nhưng năm nay, nhà trường quyết định thử nghiệm một hình thức hoàn toàn mới.
Điều này đồng nghĩa với việc trở thành một học sinh trong lớp ôn thi là điều tiềm ẩn nhiều nguy cơ rủi ro. Nếu thất bại, học sinh sẽ phải quay lại với chương trình thi đại học, mà khi đó sẽ càng khó khăn hơn bội phần.
Kỳ Ngọc hỏi: “Cậu có tham gia không?”
Lý Quỳ Nhất lắc đầu: “Tớ không chắc, hiện tại chưa có ý định ấy.”
Hồi cô học trường cấp hai số 158 cũng có hình thức lớp học ôn thi như vậy. Giáo viên từng đề nghị cô tham gia, nhưng chi phí học quá đắt đỏ nên cô từ chối ngay từ đầu, thậm chí chưa từng nhắc đến chuyện này với Lý Kiếm Nghiệp và Hứa Mạn Hoa.
Cô hỏi ngược lại Kỳ Ngọc: “Cậu thì sao? Cậu sẽ vào lớp đó à?”
Kỳ Ngọc đáp: “Chắc có, bố mẹ tớ cũng muốn tớ đi theo con đường đó.”
Lý Quỳ Nhất nhớ Hạ Lạc Di từng kể bố mẹ Kỳ Ngọc đều là giáo viên trong trường, quản lý giáo dục cậu cực kỳ nghiêm khắc. Cô chợt rơi vào trầm tư: cô lớn lên trong sự tự do, không ai quản lý, điểm tốt là không bị bó buộc nhưng điểm xấu là rất dễ mất phương hướng, những khi cần quyết định một chuyện nào đó cô chỉ có thể tự dò dẫm từng bước một. Còn Kỳ Ngọc lại trưởng thành theo kế hoạch được vạch sẵn từng bước, điểm tốt là đã có người tận tâm lát từng viên gạch dưới mỗi bước chân của cậu, nhưng điểm xấu là cậu chỉ có thể bước đi trên con đường định sẵn đó, không thể tùy ý rẽ ngang rẽ dọc. Như vậy thì lớn lên theo cách nào sẽ tốt hơn?
Lý Quỳ Nhất cứ ngồi trầm ngâm mãi rồi mới bừng tỉnh nhận ra sao cứ phải tự làm khó mình, sao cứ phải suy nghĩ cực đoan như vậy? Không thể nào có một lựa chọn dung hòa giữa cả hai sao?
Cô bật cười với suy nghĩ vẩn vơ của mình.
Kỳ Ngọc mỉm cười theo cô nhưng vẫn thấp thỏm tò mò, ngại ngần sờ mũi hỏi: “Cậu cười gì đấy?”
Lý Quỳ Nhất không trả lời câu hỏi của cậu mà nói sang chuyện khác: “Cậu cũng muốn theo con đường đấy à?”
Kỳ Ngọc lựa lời đáp: “Tớ thích học toán, mà hiện tại cũng đang dư sức học, vào lớp ôn thi cũng là một lựa chọn không tồi.”
Cậu ngừng lại, đột ngột chuyển chủ đề: “Thật ra tớ thấy cậu cũng hợp thi toán lắm. Đừng để phí hoài trí thông minh trời cho.”
Trí thông minh trời cho ư…
Lý Quỳ Nhất đã nhiều lần nghe thấy người khác dùng từ này với mình, thậm chí từng tự hào về nó. Nhưng cô cũng nhớ rằng năm cô học lớp 8, có một nữ sinh chỉ lớn hơn cô hai tuổi, vừa vào lớp 10 đã trúng tuyển đội tuyển toán quốc gia, chắc suất tuyển thẳng vào đại học Bắc Kinh hoặc đại học Thanh Hoa, sau đó còn đại diện Trung Quốc giành huy chương vàng Olympic Toán quốc tế.
Tin tức này đã gây chấn động xôn xao suốt một thời gian ở thành phố Liễu Nguyên bé nhỏ này. Đó cũng là lần đầu tiên cô thực sự cảm nhận được ý nghĩa của câu nói: “Núi cao còn có núi cao hơn.” Không ghen ghét đố kỵ, cũng chẳng có gì để hậm hực hay cam tâm. Cô chỉ đơn thuần cảm thấy thán phục, ngưỡng mộ người kia vô cùng. Trong suy nghĩ của cô, phải đạt được đến trình độ ấy thì mới dám vỗ ngực tự xưng là “thông minh bẩm sinh.” Còn trình độ của cô hiện tại chỉ có thể coi là hơi hơi thông minh mà thôi.
Thâm tâm cô không muốn thừa nhận điều này bởi cô là người hiếu thắng, có tham vọng mạnh mẽ nhưng buộc phải thừa nhận vì cô hiểu rất rõ giới hạn của mình.
“Có lẽ ông trời có cho tớ chút ít trí thông minh nhưng không nhiều lắm đâu.” Cô nói như bông đùa: “Nếu chọn con đường vào lớp ôn thi, tớ sẽ phải nỗ lực không kém gì việc tập trung thi đại học, thậm chí có khi còn vất vả hơn. Với tớ, nó không phải một lựa chọn khả thi.”
Kỳ Ngọc như thể lần đầu tiên nghe được lời này, cậu ngạc nhiên nhướng mày rồi lại im lặng suy tư. Nếu ngay cả cô cũng tự nhận rằng mình chưa đủ trình, còn cậu thì sao đây? Trình độ của cậu cao nhất cũng chỉ ngang cô mà thôi. Phải chăng cậu cũng nên tự biết lượng sức mình?
Hiếm khi nào Kỳ Ngọc nghi ngờ về độ đúng đắn của con đường mình đang đi. Nhưng sự nghi ngờ ấy khiến cậu đâm hoảng loạn bởi cậu không nên chưa ra trận đã rối loạn đội hình như này. Cậu cần phải tin vào bản thân, vào bố mẹ, vào những kế hoạch đã được vạch ra sẵn. Chẳng phải nên như thế sao?
Vài ngày sau, cậu không còn tìm Lý Quỳ Nhất để thảo luận bài tập nữa.
Thông tin về kỳ thi tháng nhanh chóng được thông báo, kỳ thi sẽ diễn ra ngay sau kỳ nghỉ Quốc khánh, không có thêm thời gian để học sinh chuẩn bị tinh thần.
Đám học sinh đồng loạt kêu trời, than thở rằng nhà trường tàn bạo vô nhân đạo. Nghỉ lễ mà cũng chẳng được yên, vừa mới hết kỳ nghỉ đã phải lao đầu vào thi, khác nào bắt học sinh phải ôn tập suốt những ngày nghỉ trong tình trạng căng thẳng, lo lắng. Chơi không xong, học cũng chẳng vào. Kỳ nghỉ thế này thì còn ý nghĩa gì nữa chứ?
Ngoài tin tức về kỳ thi, Lưu Tâm Chiếu còn thông báo thêm ba việc khác.
Việc thứ nhất, sau khi thi tháng sẽ sắp xếp lại chỗ ngồi dựa theo thành tích, thứ tự ưu tiên từ người có điểm cao nhất. Việc này áp dụng với toàn bộ khối, không có lớp ngoại lệ.
Việc thứ hai, A1 là lớp chọn duy nhất của khối 10 nên sẽ được hưởng chế độ “ưu tiên” đặc biệt, kỳ nghỉ Quốc khánh kéo dài bốn ngày, nhưng ba ngày còn lại phải đi học bù.
Việc thứ ba, nhân dịp Quốc khánh, nhà trường tổ chức cuộc thi vẽ bảng với chủ đề “Quốc khánh của chúng ta”, vậy nên bí thư lớp phải động viên khuyến khích các học sinh trong lớp cùng tham gia cuộc thi.
Mọi người đều bình tĩnh và chấp nhận việc thứ nhất. Nghe đến việc thứ hai thì tiếng phàn nàn ỉ ôi của cả lớp bùng lên như muốn dỡ tung nóc nhà. Lưu Tâm Chiếu bật cười: “Mấy cái đứa này, sướng mà không biết hưởng. Lớp khác muốn học bù mà còn không được đấy.”
“Ôi giồi ôi!!!!!!” Cả lớp nghe mà càng thêm chán chường.
Dưới ảnh hưởng của kỳ thi tháng và lịch học bù, chẳng ai còn hào hứng với cuộc thi vẽ bảng nữa. Bí thư lớp phải động viên khuyên nhủ mãi mới kêu gọi được hai ba bạn uể oải cầm phấn vẽ nguệch ngoạc lên bảng phía cuối lớp.
Trước ngày nghỉ lễ không phải học tiết tự học tối. Chiều đó chuông tan học vừa ngân vang, cả đám học sinh lập tức xách cặp lao ra khỏi lớp như bầy ngựa đứt cương, chỉ còn lại vài người đang vẽ bảng và Lý Quỳ Nhất.
Lý Quỳ Nhất không biết vẽ nên cô ở lại chỉ để chờ Phương Tri Hiểu. Hai cô đã hẹn nhau cùng đi dạo phố sau khi tan học. Con phố các cô ghé thăm là thiên đường dành cho con gái bởi có rất nhiều cửa hàng trang sức, phụ kiện, còn cả một cửa hàng cho thuê truyện gồm cả truyện tranh và tiểu thuyết.
Hồi bé Phương Tri Hiểu từng học vẽ hai năm cũng coi như có nền tảng nên tất nhiên sẽ tham gia cuộc thi vẽ bảng cho lớp A12. Lý Quỳ Nhất yên lặng ngồi tại chỗ, vừa đọc “Sau giờ học” vừa chờ cô bạn.
Di động cô vẫn để trong cặp sách chợt rung lên báo hiệu có tin nhắn. Cô nhìn ngó xung quanh, cẩn thận lấy điện thoại. Tin nhắn của Phương Tri Hiểu: Trân trọng mời cậu đến chiêm ngưỡng tác phẩm nghệ thuật của lớp tớ.
Chẳng cần đoán cũng biết “tác phẩm nghệ thuật” mà cô bạn thổi phồng kia chính là cái bảng đen đang được Phương Tri Hiểu tô vẽ.
Lý Quỳ Nhất: …Nếu không phải tác phẩm nghệ thuật thì biết tay tớ.
Phương Tri Hiểu: Yên tâm, tác phẩm nghệ thuật hàng thật giá thật luôn.
Haizzz, thôi cho cô Phương tự luyến này ít mặt mũi vậy. Lý Quỳ Nhất cười khẽ lắc đầu, cất điện thoại, chào tạm biệt bạn cùng lớp rồi leo lên tầng ba.
Hoàng hôn phủ bóng xuống khu nhà dạy học, ánh chiều tà nhuộm màu lộng lẫy lên bầu trời. Vệt nắng tàn lặng lẽ trải dài một góc hành lang. Những hạt bụi li ti chập chờn bay lượn trong không trung.
Lý Quỳ Nhất thả bước chậm rãi. Qua khung cửa sổ lớp A12, cô nhìn thấy một nửa chiếc bảng đã được bao phủ bởi non sông hùng vĩ, núi xanh như mực, ánh tà rực rỡ như lửa. Một đoàn tàu hỏa màu xanh uốn lượn quanh ngọn núi, băng qua bầu trời đầy lửa đạn, cánh đồng lúa vàng óng ả, những tàn tích mục nát hoang tàn, những tòa nhà cao chót vót san sát nhau…rồi điểm cuối của nó là một biển hoa bừng nở.
Ở phía bên phải tấm bảng là một bóng dáng cao gầy nhưng rắn rỏi cứng cáp. Người ấy cầm bảng pha màu trong một tay, tay kia thoăn thoắt đưa cọ. Dáng vẻ vừa nghiêm túc lại vừa nhàn nhã ung dung, từng tầng cánh hoa dưới đầu cọ dần hiện ra. Ánh hoàng hôn lưu luyến đậu trên mái tóc cậu, vương một màu vàng óng rực rỡ mà dịu dàng đến lạ.