Xương Rồng Đốt Rương

Quyển 4 - Chương 1




Trời tờ mờ sáng, Thần Côn vén cửa lều vải lên nhìn ra ngoài, thấy khắp núi đều mù sương.

Hơi giống trấn Hữu Vụ mà lão ở.

Thần Côn bèn ngồi xếp bằng ở cửa lều, kiên nhẫn đợi sương mù tản đi, cũng kiên nhẫn đợi một kỳ cảnh.

Lão tới Tương Tây đã rất nhiều lần, làm “nghề này” của lão, trèo đèo lội suối khắp lăn lộn đông tây cũng là chuyện bình thường, nhưng chỉ bằng một đôi chân, dẫu có tới nhiều lần thì cũng chẳng thể đi được bao nhiêu núi, những nơi không tới được cũng chỉ có thể dừng bước tiếc nuối, nhưng lần này, đi bằng xe của quỷ non, lão có thể cảm nhận được rõ ràng sức mạnh của tổ chức.

Đầu tiên là có đoàn xe, đi xa vô cùng thuận tiện, chạy thẳng đến nơi không có đường rồi dựng đại bản doanh số một, phụ trách coi giữ xe, liên lạc với bên ngoài.

Sau đó, phần lớn người trong đoàn mang theo trang thiết bị, đi bộ leo núi, rất chuyên nghiệp: có bản đồ địa hình, bản đồ núi, thiết bị định vị GPS, các loại dụng cụ thăm dò không rõ tên, còn thả máy bay không người vù vù, làm Thần Côn nhìn mà trố mắt.

Trên đường lại dựng đại bản doanh số hai, để lại một nửa trang thiết bị ở đây làm hậu bị, suy tính rất chu đáo.

Đoạn cuối phải trèo hơn nửa dặm đường dốc đứng gần 70 độ, nếu chỉ có mình lão thì tuyệt đối không thể, nhưng quỷ non nhà người ta đoàn đội hợp tác, vài người làm quân tiên phong leo dọc như vượn đi lên đóng đinh leo, buộc thừng, trực tiếp làm một chiếc thang dây, lão cứ thế nơm nớp lo sợ mà lại vững vàng ổn định giẫm lên thang trèo lên.

Nếu lần nào cũng có thể có đãi ngộ thế này thì tốt biết bao, những tìm tòi nghiên cứu của lão một lẽ đương nhiên sẽ nâng lên một tầm cao mới.

Lên tới nơi thì đã gần nửa đêm, trong núi tối đen rùng rợn, nhiều đèn pin mắt sói và đèn pin đeo đầu như vậy mà chẳng chiếu được hơn trăm mét, chỉ mơ hồ cảm giác được rằng phía trước có một mảng đen khổng lồ, đen hơn bóng đêm rất nhiều, hơn nữa, cũng chẳng biết có phải là ảo giác hay không mà cứ cảm thấy trong mảng đen còn loáng thoáng quằn quại tiếng gầm rống nghẹn ngào.

Mạnh Kình Tùng cho người chăng một đường dây cảnh giới, nghe ý thì đi lên nữa sẽ gặp nguy hiểm, mọi người cắm trại trong dây, không được vượt dây, nói là bình minh hôm sau là có thể thấy được rõ ràng.

Mà lén thầm thì với hai Thẩm thì cảnh tượng đó khá choáng ngợp rung động, hiếm gặp.

Làm Thần Côn ngủ không ngon cả một đêm, còn nằm mơ, trong mơ, lão vẫn đang tìm cái rương, chỉ là lần này lại lục tìm trong một mảng đen gần như quánh sệt, trong cái quánh sệt còn nổi lên tiếng nghẹn ngào gầm gừ.



Quỷ non cũng lục tục thức dậy, trong sương mù vọng ra tiếng đánh răng loạt xoạt, bắc nồi làm bếp, có người để nhìn được rõ hơn còn bật đèn pin lên – nhưng trong sương trắng thì đèn pin ngoài tốn điện ra thì chẳng được cái tích sự gì, lại tắt đi.

Thần Côn nuốt nước bọt, tiếp tục chờ, còn bất an liếm liếm môi. Sương mù càng nhạt, lão càng khẩn trương, mong ngóng trong lòng cũng càng tăng lên.

Mặt trời như nhoáng cái đã nhảy lên đỉnh núi, dưới hàng vạn tia nắng, sương mù chợt loãng đi, giảm bớt, biến mất, chỉ mấy giây sau, hệt như cởi khẩu trang, tất cả đều rõ ràng in lên mắt.

Tiếng huyên náo bốn phía dần nhỏ lại, chỉ còn lại tiếng muôi nồi lanh canh, lại qua một lúc, đến tiếng lanh canh va chạm này cũng biến mất, Thần Côn đứng bật dậy, chạy vội ra bắt kịp đám hộ núi đang kích động, vượt qua dây cảnh giới thứ nhất, đi tới trước dây cảnh giới thứ hai.

Dây cảnh giới thứ nhất cách vách đá chừng hơn trăm mét, mà dây thứ hai thì chỉ cách chừng mười mét, bên dây cảnh tuyên còn có hai người đứng canh duy trì trật tự, không cho phép tiếp tục đi lên trước nữa, mà ở phía trước xa hơn cũng không phải ai khác, chính là Mạnh Kình Tùng dẫn theo Liễu Quan Quốc đứng ngay gần vách đá chỉ cách chừng ba, bốn mét, đang chỉ trỏ xuống dưới.

Thần Côn vội vẫy tay với Mạnh Kình Tùng: “Trợ lý Mạnh! Ê! Trợ lý Mạnh! Là tôi!”

Mạnh Kình Tùng nghe thấy quay đầu lại, trông thấy gương mặt đáng ghét kia trong đám người, hơi nhíu mày, nhưng thể diện của cô bảy mãi mãi dùng được: Người đã tới tận đây, dẫu không dẫn Thần Côn đi xem túi mật núi thì cũng nên cho lão xem chút kỳ quan.

Mạnh Kình Tùng cười cười, gật đầu với người canh giữ, ý bảo có thể cho người này đi.

Thần Côn cả mừng, cúi người chui qua dây cảnh giới, ba chân bốn cẳng chạy tới trước mặt y, vốn định trò chuyện đôi câu với Mạnh Kình Tùng, song mắt đã bị thu hút, không dời đi được, lát sau, trong họng bật ra một câu như cảm khái…

“Tráng lệ quá đi!”

***

Đêm qua lão còn tưởng rằng đây là một hõm núi.

Dãy núi mà, cao thấp trập trùng, lên đến đỉnh núi cao nhất rồi thì tất nhiên là phải đi xuống, nhưng hoàn toàn không ngờ được đây lại là một hố trời.

Địa lý gọi chung tất cả núi non đồng bằng lên xuống là “địa hình”, thung lũng bồn địa cũng được quy về đó, bởi lấy mặt đất làm ranh giới, núi non đồng bằng và thung lũng chí ít cũng nằm bên trên, là “mặt chính”; hố trời là “địa hình phụ”, bản chất là chỗ sụt hình phễu cỡ lớn, nằm sâu dưới lòng đất, bởi vậy nên là “phụ”.

Hố trời trong nước đa phần phân bố ở khu vực địa hình cac-xtơ phát triển phía Tây Nam, tầng nham thạch trong lòng đất phần lớn là đá macma có hàm lượng cacbonat cao dễ bị nước ăn mòn, hơn trăm triệu năm trước, trong lòng đất dần bị ăn mòn thành trăm ngàn lỗ hổng, một ngày nọ sức chịu đựng tới cực hạn, không chịu nổi trọng lượng bên trên nữa, bèn ầm một tiếng sụt toàn bộ, từ đó mặt đất bên trên biến mất.

Trong định nghĩa học thuật, đường kính và chiều sâu đều vượt trên một trăm mét mới có thể được gọi là hố trời, nhỏ hơn kích cỡ này chỉ có thể gọi là “giếng thẳng”, tính đến nay, hố trời lớn nhất trên giới thế được cho là hố trời Tiểu Trại ở huyện Phụng Tiết, Trùng Khánh, đường kính hơn năm trăm mét, chiều sâu hơn sáu trăm sáu mươi mét, tính sơ sơ, diện tích đáy hố phải đến mấy trăm mẫu.

Hố trời trước mắt này, đường kính miệng hố nhỏ hơn hố trời Tiểu Trại, song ước chừng cũng tới ba, bốn trăm mét, càng không thể tưởng tượng hơn là miệng hố khổng lộ thiên, nếu có máy bay đi qua trên trời, người trên máy bay chắc chắn sẽ không phát hiện ra ở đây có một hố trời, sẽ chỉ nghĩ là một khe núi bình thường – bởi trên miệng hố trời như đậy một cái nắp lớn xanh biếc, che hố trời vĩ đại này lại.

Thần Côn liên tiếp nuốt mấy ngụm nước bọt, da gà da vịt nổi hết cả lên.

Bởi đứng rất gần nên lão có thể nhìn thấy rất rõ ràng: Chiếc nắp kia nhìn từ xa thì là một khoảng xanh biếc chỗ đậm chỗ nhạt, song thực chất lại lưa thưa lỗ chỗ, là vô số những cành cây dây leo ngoằn ngoèo đan xen vào nhau mà thành, nhưng nhưng dây leo sao có thể sinh trưởng mọc ngang, hơn nữa chiều dài đáng kinh ngạc đến mức che được miệng hố trời như vậy?

Vậy phải có bàn tay con người kéo dẫn, nhưng lại có vấn đề khác nảy sinh: Phải mất bao nhiêu sức người mới làm nên công trình tầm cỡ thế này chứ.

Lão ngồi xổm xuống xem kỹ, xem rồi, thực sự là đến chân tóc cũng phải dựng đứng lên.

Vậy nhưng đúng thật là dùng sức người kéo dẫn: Trên rìa miệng hố hình dạng gần tròn, cứ cách một đoạn lại có một giá đỡ dài đóng vào mối nối bên sườn, trên giá loang lổ màu xanh đồng, rất có thể là làm bằng đồng đen – mạnh dạn phỏng đoán rằng thời cổ đại, đã có người đóng vào vách đá một vòng giá đỡ đồng đen để chống đỡ trung tâm, giăng thừng thắt nút, giống như dưới nông thôn người ta dựng khung trồng mướp vậy, căng một tấm lưới lớn ở miệng cái hố này, sau đó dẫn dây leo tự động quấn lấy lưới thừng, một đường leo mọc, cho đến khi đan vào nhau, hình thành nên một cái nắp thiên nhiên màu xanh.

Nhiều năm sau, lưới thừng ban đầu đã mục nát rơi xuống, chỉ còn lại cái giá đồng đen, nhưng dây leo nối liền thành nắp thì vẫn bền chắc như cũ.



Không đúng, cũng không đúng, Thần Côn lắc lắc đầu, phủ quyết suy đoán của mình: vậy phải cần loại dây leo dài tới mức nào chứ, nghe nói loài thực vật dài nhất trên thế giới này là cây mây gồi, miễn là có đủ chiều dài cung cấp cho nó leo, nó có thể dài đến hơn bốn trăm mét, nhưng đó là ở rừng mưa nhiệt đới, Tương Tây không có đầy đủ điều kiện khí hậu như thế, dù có, dựa theo tốc độ sinh trưởng, mọc dài trăm mét cũng đã mất gần nghìn năm, trong khoảng thời gian đó xảy ra vô số thảm họa địa chất thậm chí đủ các loại nạn hạn hán úng nước, sao anh có thể cam đoan nó vừa vặn mọc thành cái “nắp” được chứ?

Bên tai truyền tới tiếng Mạnh Kình Tùng và Liễu Quan Quốc liên miên đối đáp.

Mạnh Kình Tùng: “Máy bay không người không bay được à?”

Liễu Quan Quốc: “Không bay được, từ trường bên này hơi đặc biệt, thiết bị điện tử đều bị nhiễu.”

Mạnh Kình Tùng: “SRT đâu?”

SRT là trang bị thừng đơn lên xuống cố định trên vách đá, còn được gọi là “kỹ thuật thừng đơn”, nói đơn giản thì là thực hiện lên xuống tự nhiên trên một sợi thừng, được ứng dụng rộng rãi trong thám hiểm hang động và vào sâu xuống lòng đất.

Liễu Quan Quốc: “Cái đó cũng chỉ để trang trí thôi, anh biết mà, có cáo bay.”

Mạnh Kình Tùng: “Dù nhảy, trang bị cánh bay đều không được?”

Liễu Quan Quốc: “Tầm nhìn bên dưới quá thấp, địa thế lại phức tạp, độ khó thao tác quá cao, hơn nữa, cũng sợ cáo bay.”

Thần Côn cảm thấy cái tên “cáo bay” này rất quen, hình như đã nghe được ở đâu đó.

Mạnh Kình Tùng thở dài: “Xem xem, đã qua bao nhiêu năm, khoa học kỹ thuật đã phát triển đến mức này rồi mà chúng ta vẫn phải dùng cách của cụ Đoàn.”

Liễu Quan Quốc đứng bên cạnh hùa theo: “Đúng vậy.”

Quá nhiều thắc mắc, Thần Côn nhịn không được: “Trợ lý Mạnh, cái…”

Lão không biết phải hình dung những dây leo chằng chịt đan xen trước mắt này như thế nào: “Đều là do quỷ non làm?”

Mạnh Kình Tùng lắc đầu: “Cái này tôi không rõ lắm, trong ghi chép của quỷ non trước nay chưa từng đề cập tới.”

“… Quỷ non có bảo dưỡng định kỳ không?”

Mạnh Kình Tùng tiếp tục lắc đầu.

Không ai đến bảo dưỡng cả, trong nhận thức của quỷ non, nơi treo túi mật núi gần như là một “cấm địa”, không kém “núi không dò” bao nhiêu, hơn nữa, thế núi hiểm trở, rừng sâu đường hiểm, leo được đến vách núi này thôi cũng đã rất trắc trở rồi, ngay cả hộ núi sống lâu ở Tương Tây cũng rất ít khi tới thăm dò chứ đừng nói là “bảo dưỡng”.

Có lẽ mấy ngàn năm trước, sau khi vị bà cố tổ ban sơ kia cất giấu túi mật núi xong, đã bố trí nên màn chắn tuyệt diệu đáng kinh ngạc này để qua mắt tất thảy chúng sinh?

Mạnh Kình Tùng tiến lên phía trước mấy bước, gần như ngay sát vách đá, lại gọi Thần Côn: “Chú qua đây xem đi.”

Độ cao của ngọn núi này so với mặt biển không đến một nghìn thì cũng phải tám trăm mét, mặc dù trời đang nắng đẹp nhưng cũng khó tránh khỏi có gió, vị trí đó thực sự khiến người ta run sợ hoa mắt, dẫu là người đã trải qua không ít những trận chiến lớn nhỏ như Thần Côn cũng không nhịn được rùng mình.

Lão lừng khừng bước qua.

Mạnh Kfinh Tùng chỉ tay xuống dưới: “Chú nhìn xem, có lẽ hơi tối nhưng thử nhiều góc độ chút thì sẽ thấy được đỉnh núi.”

Đỉnh núi? Trong động còn có núi?

Thần Côn gần như quên cả sợ hãi, dụi mắt hết lần này đến lần khác như thể có thể dụi ra độ nét vậy, lúc lúc còn thay đổi vị trí thân thể, cho đến khi thấy rõ rồi, không khỏi bật thốt: “Rừng đá?”

Mạnh Kình Tùng gật đầu, giơ tay ra hiệu về một vị trí: “Nếu chú từng tới Vũ Lăng Nguyên thì hẳn đã đi thăm thắng cảnh lừng nhanh nhất chỗ ấy, rừng đá ráp. Chỗ này cũng gần như vậy, bên dưới nguyên là một khe núi trũng, cũng có một vùng rừng đá nhỏ, thế như sau đó, không biết là mấy vạn năm trước, mặt đất sụp xuống, ầm một tiếng…”

Bàn tay hắn theo đó cũng hạ mạnh xuống: “Toàn bộ vùng rừng đá sụp theo, chìm xuống.”

Dừng một chút lại thổn thức: “Thật đáng tiếc, bởi tạo hình vùng rừng đá này rất đặc biệt, khi xem ở một số góc độ, nhìn sẽ rất giống đầu mỹ nhân trên chiếc cổ thon cao.”

Thần Côn nghe không rõ mấy, lão vẫn đang đắm chìm trong cơn chấn động của “chìm xuống”: hố trời này, chắc chắn còn sâu hơn hố trời Tiểu Trại, từ trên vách núi xuống căn bản phải hơn một nghìn mét.

Mạnh Kình Tùng lại chỉ vào chiếc nắp khổng lồ màu xanh: “Từ trường ở đây có vấn đề, không thả máy bay không người được, bằng không có thể quay trên cao cho chú có một khái niệm trực quan: nghe nói cái nắp dây leo này không xếp lộn xộn lung tung mà được dẫn thành hình dạng nhất định, có chỗ dày đặc, có chỗ, thưa thớt, nếu chú đứng bên dưới nhìn lên sẽ thấy rất giống một con mắt không lồ lơ lửng trên không.”

Cảnh tượng này quá mức kỳ dị huyễn hoặc, Thần Côn chỉ cảm thấy cả người rét run.

Giọng điệu Mạnh Kình Tùng vẫn ung dung như trước: “Phần dây leo ở con ngươi con mắt này rất thú vị, khác với những chỗ khác, hình như trời sinh đã sợ ánh sáng, lúc mặt trời lên, chúng sẽ co lại rút ra xung quanh, như mở mắt ấy, tách ra một kẽ hở cho ánh mặt trời chiếu xuống dưới. Chú phải biết rằng bên dưới thiếu ánh sáng, mà đến tối sẽ lại duỗi xòe ra, bao phủ con ngươi. Có giống một con người không, ban ngày mở mắt ra, đêm xuống nhắm mắt lại? Mà lúc con mắt này nhắm lại, do chênh lệch nhiệt độ giữa ngày và đêm, sương sẽ hòa vào dây leo, rỉ ra nước nhựa dây leo rơi xuống dưới, rất quánh, chúng tôi có một cách gọi ví von hình tượng, là ‘mắt nhỏ dầu’.”

Thần Côn không biết nên tiếp lời thế nào, ngập ngừng hồi lâu, lại nuốt lời về.

Lão tưởng tượng cảnh tượng dây leo co lại rút ra bốn phía vào ban ngày: ánh nắng được thả vào kia thật giống như một ánh mắt sâu xa đến từ bầu trời.

“Ánh nắng chiếu vào, với góc độ đó chỉ có thể phủ lên một đỉnh núi, đỉnh núi đó vừa hay chính là đỉnh núi cất giấu túi mật núi. Bởi vậy nên, chỉ có hoa trên đỉnh núi đó là có thể nở, những đỉnh núi khác vì quanh năm thiếu sáng nên đừng nói là hoa, thực vật cây xanh đều tàn lụi, chúng tôi có bài kệ có câu, ‘Đầu mỹ nhân, trăm hoa hổ thẹn’, chính là miêu tả cảnh tượng này.”

Mạnh Kình Tùng như đang độc thoại: “Nơi này quá hẻo lánh, hầu như không ai tìm đến được, dù có tìm được cũng không thể đi xuống. Dây thừng người hái thuốc mang theo thường chỉ dài vài chục mét, hơn nữa, bên dưới còn có bầy cáo bay.”

“Khoảng hơn tám mươi năm trước, bà cố Đoàn Văn Hi, một trong những đương gia khi đó của quỷ non, đã leo xuống. Nghe nói cành lá thối rữa bên dưới dày phải hơn hai mét, hơn nữa, vì thiếu ánh sáng mặt trời nên độ ẩm, bề sâu và nhiệt độ hoàn toàn khác hẳn trên mặt đất. Môi trường bên dưới tự hình thành một thể riêng, tạo nên một hệ thống sinh thái khép kín độc nhất vô nhị. Trong nhật ký của cụ Đoàn có kể rằng gặp được chuột bạch nặng hơn mười cân ở dưới đó…”

Thần Côn biết điều này: Vì môi trường khép kín nên sinh vật trong hố trời sinh tồn cạnh tranh tuy đơn giản song cũng rất dữ dội, sẽ ra sức tự tiến hóa để thích ứng với môi trường, giả dụ như loài trúc cọ phổ biến ở phía nam thường chỉ cao chừng hai mét, nhưng ở trong hố trời, để tranh đoạt chút ánh mặt trời ít ỏi xuyên xuống, chỉ có thể liều mạng sinh trưởng, thường có thể cao đến bảy tám mét – bởi nếu anh không liều ăn nhiều thì chỉ có một con đường chết.

Sống thật không dễ dàng, không chỉ người mà thực vật cũng vậy.

Mạnh Kình Tùng chỉ nói tới đây, y ghé sát lại Thần Côn, hạ giọng: “Mổ núi lấy túi mật núi chính là ở đây, chú Thẩm, đây không phải là dựng đài hát hí khúc cho người xem, mỗi một bước đều có thể mất mạng. Nơi tôi chỉ cho chú xem, nếu chú dám xuống thì xuống đi, tôi sẽ khuyên nhủ nhưng tuyệt đối không ngăn cản.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.