Vũ Khí Bóng Đêm 3: Thành Phố Pha Lê

Chương 3: Amatis




Đến cuối giờ chiều, chú Luke và Clary đã bỏ lại cái hồ xa sau lưng và đang bước trên cánh đồng cỏ mọc cao ngất và dường như trải dài bất tận. Đây đó nổi lên một ngọn đồi cao cao với đỉnh đồi đá đen trơ trụi. Clary đã mệt lử vì phải đi lên rồi đi xuống, hết ngọn đồi này tới ngọn đồi khác, đòi giày trượt trên cỏ ướt như thể đang dẫm lên nền hoa cương bóng dầu. Khi họ bỏ lại những bãi cỏ đằng sau con đường đất hẹp, tay cô dính máu và xanh màu cỏ.

Chú Luke đi trước với những sải bước vững chãi. Thi thoảng chú chỉ trỏ những thứ hay ho bằng giọng trầm trọng, như một người hướng dẫn viên du lịch thê thảm nhất quả đất. “Chúng ta vừa đi qua Cánh Đồng Brocelind,” chú nói khi họ trèo lên ngọn đồi nhỏ và thấy khu rừng xanh ri trải dài về phía tây, nơi mặt trời đang dần đến gặp đường chân trời. “Đây là khu rừng. Rừng từng che phủ hầu hết diện tích vùng lòng chảo của đất nước này. Giờ phần lớn diện tích rừng đã bị chặt bỏ để mở rộng không gian cho thành phố- và để đuổi các đàn người sói và các tổ ma cà rồng từng đóng đô tại đây. Rừng Brocelind luôn là nơi ẩn náu cho những cư dân của Thế Giới Ngầm.”

Họ im lặng đi trên con đường chạy vòng theo rìa rừng vài dặm trước khi ngoặt đột ngột. Những cái cây dường như thưa hẳn khi ngọn đồi nhỏ càng lúc càng gần, và Clary chớp mắt khi họ quặt hướng tại chân một ngọn đồi cao - liệu đôi mắt cô có lừa cô không khi, ở dưới đó có nhà. Những dãy nhà sơn trắng nho nhỏ, xếp theo hàng lối hệt như ngôi làng Munchkin trong Phù thủy xứ Oz. “Chúng ta tới nơi rồi!” cô reo lên và lao về phía trước, chỉ dừng lại khi nhận ra chú Luke không còn đứng bên cô nữa.

Cô quay lại và thấy chú đang đứng giữa con đường đất, lắc đầu quầy quậy. “Không,” chú nói và tiến tới bên cô. “Đây không phải thành phố.”

“Vậy là một thị trấn? Chú nói rằng không có thị trấn nào ở gần...”

“Đây là một nghĩa địa. Đây là Thành phố Xương của Alicante. Cháu nghĩ Thành phố Xương là nơi an nghỉ cuối cùng duy nhất của Thợ Săn Bóng Tối sao?” Chú nói nghe thật buồn. “Đây là nghĩa trang, nơi chúng ta chôn cất những người chết tại Idris. Cháu sẽ thấy. Chúng ta phải đi qua đây để tới Alicante.”

Clary chưa từng tới nghĩa trang kể từ cái đêm Simon chết và ký ức khiến cô lạnh sống lưng khi bước chân trên những con đường hẹp như sợi ruy băng trắng dẫn qua những lăng mộ. Có người chăm nom nơi này: đá cẩm thạch sáng bóng như mới được cọ rửa, cỏ được cất bằng. Đây đó trên những lăng mộ có đặt vài ba bó hoa trắng; lúc đầu cô tưởng chúng là hoa huệ tây, nhưng chúng mang mùi hương hăng hắc kỳ lạ khiến cô tự hỏi liệu có phải chúng chỉ sinh trưởng ở Idris. Mỗi lăng mộ đều giống một ngôi nhà nhỏ; một số thậm chí còn có cổng bằng kim loại hay dây kẽm và trên những cánh cửa có khắc tên những dòng họ Thợ Săn Bóng Tối. CARTWRIGHT. MERRYWEATHER. HIGHTOWER. BLACKWELL. MIDWINTER. Cô dừng chân trước cái tên HERONDALE.

Cô quay sang nhìn chú Luke. “Đây là họ của Điều Tra Viên.”

“Đây là lăng mộ dòng họ bà ấy. Nhìn đi.” Chú chỉ. Bên cạnh cửa có những con chữ được khắc chìm trong đá cẩm thạch xám. Chúng là những cái tên. MARCUS HERONDALE. STEPHEN HERONDALE. Cả hai mất cùng một năm. Dù Clary ghét Điều Tra Viên nhiều thế nào, một cái gì đó trong cô vẫn quặn lại, một cảm giác thương tiếc cô không thể ngăn nổi. Mất đi chồng và con trai trong một khoảng thời gian quá ngắn ngủi..ba từ La-tinh chạy dưới tên Stephen: AVE ATQUE VALE.

“Từ đó có nghĩa gì ạ?” cô quay lại hỏi chú Luke.

“Nghĩa là ‘Xin chào và tạm biệt’ Trích từ bài thơ của Catullus. Từ lâu rồi trong những đám tang hoặc khi một ai đó chết trong chiến trận, những Nephilim thường nói câu đó. Giờ đi thôi- chúng ta không nên nán lại đây, Clary.” Chú Luke nắm lấy vai cô và nhẹ nhàng đẩy cô rời khỏi lăng mộ.

Có lẽ chú đúng, Clary nghĩ. Có lẽ giờ không phải lúc nên nghĩ tới cái chết và hấp hối. Cô hướng ánh mắt đi nơi khác trong lúc rời khỏi. Họ đã sắp đi qua cánh cổng sắt ở cuối nghĩa trang thì cô thấy một lăng mộ nhỏ hơn, tỏa sáng như cây nấm phát sáng bên dưới bóng râm của cây sồi cành lá sum suê. Cái tên trên cửa ngay lập tức đập vào mắt cô như thể nó được viết bằng ánh sáng.

FAIRCHILD.

“Clary…chú Luke vươn tay tới, nhưng cô đã đi mất. Với một tiếng thở dài, chú đi theo cô bước vào bóng cây, nơi cô đứng im tại chỗ, đọc những cái tên của ông bà và tổ tiên mà cô chưa từng nghĩ mình có. ALOYSIUS FAIRCHILD. ADELE FAIRCHILD, B.NIGHTSHADE. GRANVILLE FAIRCHILD. Và dưới tất cả những cái tên đó: JOCELYN MORGENSTERN, B. FAIRCHILD.

Cơn sóng lạnh lẽo ào qua Clary. Nhìn tên mẹ giống cơn ác mộng cô thi thoảng mơ rằng cô đang trong đám tang của mẹ và không ai nói cho cô nghe chuyện gì đã xảy ra hay vì sao mẹ mất lại một lần nữa hiện về. “Nhưng mẹ cháu đâu có chết,” cô nói và ngước nhìn chú Luke. “Mẹ cháu không...”

“Clave không hề biết,” chú ôn tồn nói với cô.

Clary há hốc miệng. Cô không còn nghe thấy giọng chú hay thấy chú đứng trước mặt cô. Phía trước cô xuất hiện một sườn đồi lởm chởm, những bia mộ từ dưới đất trồi lên như những mẩu xương gãy. Một bia mộ đen với những con chữ khắc trên mặt đá sừng sững trước mặt cô: CLARISSA MORGENSTERN, B. 1991 D. 2007. Bên dưới những chữ đó là hình vẽ qua loa về một đứa bé với cái đầu lâu và hốc mắt trống rỗng, Clary hét và loạng choạng lùi lại.

Chú Luke nắm lấy vai cô. “Clary, gì thế? Sao thế cháu?”

Cô chỉ. “Đó...nhìn...”

Nhưng nó đã biến mất. Bãi cỏ trải dài trước mặt cô, xanh và phẳng lặng, những lăng mộ trắng cách nhau đều đặn và xếp thành hàng thẳng tắp.

Cô quay lại nhìn cô. “Cháu thấy ngôi mộ của chính cháu,” cô nói. “Nó nói cháu sắp chết- ngay bây giờ- ngay năm nay.” Cô rùng mình.

Chú Luke có vẻ buồn bã. “Do nước hồ đấy,” chú nói. “Cháu bắt đầu gặp ảo giác. Đi thôi- chúng ta không còn nhiều thời gian đâu.”

Jace dẫn độ Simon lên tầng và đi vào một hành lang ngắn với những cánh cửa ở hai bên; anh dừng lại chỉ để mở một cái cửa. “Trong đây,” anh ta nói, hơi thô bạo xô Simon qua cửa. Simon thấy căn phòng này giống với một thư viện: những hàng giá sách, những băng ghế dài và ghế tựa. “Chúng ta nên có chút riêng tư…”

Anh ta ngừng nói khi một người lo lắng đứng dậy khỏi ghế tựa. Đó là một cậu nhóc tóc nâu đeo kính. Cậu nhóc có khuôn mặt nhỏ thó, già trước tuổi và tay đang cầm theo một cuốn sách. Simon đã quen thói quen đọc sách của Clary nên nhận ra ngay đó là một tập truyện manga dù ở khoảng cách xa. Jace nhíu mày. “Xin lỗi, Max. Bọn anh cần phòng. Chuyện của người lớn.”

“Nhưng chị Izzy và anh Alec đã đá em ra khỏi phòng khách để họ có thể nói chuyện của người lớn,” Max phàn nàn. “Giờ em phải đi đâu đây?”

Jace nhún vai. “Phòng của em chăng?” Anh giơ ngón cái về cửa. “Đã đến lúc thực hiện nghĩa vụ với Tổ quốc đấy, nhóc. Chuồn chuồn ngay.”

Buồn bã, Max lủi thủi đi qua hai người, cuốn sách ôm chặt trước ngực. Simon bỗng thấy thương hại cho thằng bé - khi bạn đã lớn để hiểu chuyện gì đang xảy ra thì đời quá ư tệ hại, nhưng khi bạn còn bé, lúc nào bạn chẳng bị đuổi đi nơi khác. Cậu nhóc khi đi qua cậu liền liếc một cái - một cái liếc mắt ngờ vực, sợ hãi. Đây là ma cà rồng đó, ánh mắt của cậu nhóc nói.

“Đi nào.” Jace lùa Simon vào phòng, đóng rồi khóa cửa lại. Khi cánh cửa đóng lại, căn phòng khá âm u đến Simon còn thấy tối. Căn phòng này có mùi bụi. Jace đi kéo rèm ở cuối phòng, để lộ ra ô cửa sổ kính họa tiết cao cao nhìn ra con kênh bên ngoài. Nước ì oạp vỗ vào thân nhà chỉ dưới họ vài foot, dưới lan can đá khắc những họa tiết hình những con chữ rune và ngôi sao giờ đã nhuốm màu thời gian.

Jace cau có nhìn Simon. “Cậu có vấn đề khỉ gì đấy, ma cà rồng?”

“Vấn đề của tôi? Về cơ bản, chính anh mới là người nắm tóc lôi tôi tới đây.”

“Vì cậu định nói cho mọi người biết Clary chưa bao giờ bỏ kế hoạch tới Idris. Cậu biết sau đó chuyện sẽ thế nào không? Họ sẽ liên lạc và sắp xếp đưa em ấy tới. Và tôi đã nói với cậu rằng chuyện đó không thể xảy ra được.”

Simon lắc đầu. “Tôi không hiểu,” cậu nói. “Đôi lúc anh hành động như thể anh quan tâm tới Clary, và rồi anh hành động như…”

Jace hằm hè nhìn cậu. Trong không khí, bụi bay tán loạn; chúng tạo nên tấm màn gợn sóng giữa hai cậu con trai. “Hành động như sao?”

“Anh đang tán tỉnh Aline,” Simon nói. “Giờ tôi chẳng thấy anh quan tâm gì tới Clary hết.”

“Đó càng không phải việc của cậu,” Jace nói. “Hơn nữa, Clary là em gái tôi. Cậu thừa biết.”

“Tôi cũng có mặt trong triều đình tiên,” Simon đáp. “Tôi nhớ điều Nữ Hoàng Seelie đã nói. Nụ hôn để giải thoát cho cô gái này phải tới từ người cô ta khao khát nhất.”

“Tôi biết cậu nhớ. Đã thành vết sẹo không bao giờ phai mờ trong tâm trí cậu rồi nhỉ, anh chàng ma cà rồng?”

Simon khục khặc trong họng mà cậu không nghĩ mình có thể tạo ra. “Ồ, không đâu. Tôi không tới đây để cãi nhau về việc này. Tôi không tranh giành Clary với anh. Quá lố bịch.”

“Vậy sao cậu lôi chuyện đó ra?”

“Vì,” Simon nói. “Nếu anh muốn tôi nói dối - không phải với Clary, mà với tất cả những người bạn Thợ Săn Bóng Tối của anh - nếu anh muốn tôi giả bộ rằng chính Clary quyết định không tới đây, và nếu anh muốn tôi giả bộ tôi không biết gì về quyền năng của bạn ấy, vậy anh phải làm gì đó cho tôi.”

“Được rồi,” Jace nói. “Cậu muốn gì?”

Simon im lặng một lúc, nhìn lướt qua Jace về phía dãy nhà đá trước con kênh lấp lóa. Cậu có thể thấy, phía trên những mái nhà dốc là những chóp tháp quỷ sáng loáng. “Tôi muốn anh làm mọi chuyện cần thiết để khiến Clary tin rằng anh không còn cảm xúc gì với bạn ấy nữa. Và đừng - đừng nói với tôi rằng anh là anh trai Clary; chuyện đó tôi đã biết. Đừng cố gạt Clary khi anh biết cả hai không có tương lai. Và tôi không nói điều này vì tôi muốn có Clary. Tôi nói vì tôi là bạn Clary và tôi không muốn bạn ấy bị tổn thương.”

Jace nhìn đôi bàn tay một lúc lâu, không đáp. Đôi bàn tay anh gầy, những ngón tay và đốt tay gồ lên những vết chai sần cũ. Mu bàn tay anh lốm đốm những đường chỉ trắng mảnh của những Ấn Ký cũ. Chúng là bàn tay của một người lính, không phải của một cậu thiếu niên. “Tôi đã làm rồi,” anh nói. “Tôi đã nói với Clary rằng tôi chỉ muốn làm một người anh trai.”

“Ồ.” Simon cứ tưởng Jace sẽ tranh cãi nảy lửa với cậu, chứ không chịu từ bỏ. Một Jace biết từ bỏ hoàn toàn mới - và khiến Simon thấy hơi hơi xấu hổ vì đã đưa ra yêu cầu kia. Clary chưa từng nói cho tôi nghe, cậu muốn nói thế, nhưng ngẫm lại, tại sao Clary phải nói cho Simon biết chứ? Cứ nghĩ mà xem, dạo này Clary có vẻ yên lặng và co dúm người khi mỗi khi có ai nhắc tới tên Jace. “À, Thế là được rồi. Còn điều này nữa.”

“Ồ?” Jace nói rõ ràng không hứng khởi gì. “Và cái gì nào?”

“Điều mà Valentine nói lúc Clary vẽ chữ rune đó lên tàu là gì ấy nhỉ? Nghe như ngoại ngữ ấy. Meme gì đó-?”

“Meme mene tekel upharsin,” Jace nói kèm theo nụ cười nhạt. “Cậu không biết câu đó à? Trích từ Kinh Thánh ra đấy, anh chàng ma cà rồng. Cuốn Cựu Ước. Các cậu sử dụng cuốn đó phải không?”

“Chỉ vì tôi là người Do Thái không có nghĩa là tôi nhớ toàn bộ Kinh Cựu Ước.”

“Đó là Dòng chữ trên Tường. ‘Thiên chúa đã đếm và chấm dứt những ngày trị vì của triều đại ngài; ngài đã bị đặt lên bàn cân và thấy không đủ.’ Đó là điềm báo suy tàn - nó có nghĩa là ngày tàn của Vương Quốc.”

“Nhưng thế thì liên quan gì tới Valentine?”

“Không chỉ Valentine,” Jace nói. “Mà là tất cả chúng ta. Clave và Luật - điều Clary làm có thể thay đổi tất cả những thứ họ biết. Không một con người nào có thể tạo ra chữ rune mới, hay vẽ ra dạng chữ rune mà Clary có thể. Chỉ có các thiên thần mới mang sức mạnh đó. Và vì Clary có thể - nó giống như một điềm gở. Mọi thứ đang thay đổi. Luật đang thay đổi. Phương thức cũ có thể không còn đúng đắn nữa. Khi những thiên thần nổi loạn kết thúc thế giới cũ - thế giới chia làm đôi và sinh ra địa ngục - điều này có nghĩa là ngày tàn của Nephilim đang tới gần. Đó là cuộc chiến của chúng ta trên thiên đường, ma cà rồng ạ, và chỉ một bên có thể giành chiến thắng mà thôi. Và bố tôi muốn chiến thắng thuộc về ông ta.”

Dù trời còn lạnh nhưng Clary cảm thấy nóng toát mồ hôi hột trong mớ quần áo ướt rượt. Mồ hôi chảy ròng ròng trên mặt, thấm ướt cổ áo khoác cô trong khi chú Luke nắm lấy tay cô, vội vã kéo cô đi dưới bầu trời đang trở tối nhanh chóng. Họ đã thấy Alicante rồi. Thành phố nằm trong một thung lũng nhỏ, bị chia cắt bởi dòng sông bạc chảy vào từ một đầu thành phố rồi dường như biến mất, sau đó xuất hiện ở phía bên kia. Những căn nhà màu mật ong mái dốc đỏ nằm lộn xộn bên những con đường ngoằn ngoèo dẫn lên phía bên kia ngọn đồi thoai thoái. Ở trên đỉnh đồi là một pháo đài đá đen bề thế, với mỗi góc chính là một ngọn tháp sáng tỏa sáng lấp lánh: bốn ngọn tháp tất cả. Rải rác giữa những tòa nhà khác là những ngọn tháp cao thon, trong suốt như pha lê, tòa ra ánh sáng như đá thạch anh. Chúng giống như những cây kim pha lê đâm thẳng lên bầu trời. Ánh sáng mặt trời sắp tắt tạo nên màu cầu vồng nhàn nhạt trên bề mặt những ngọn tháp trông như diêm đang đánh lửa. Một quang cảnh đẹp và kỳ lạ.

Cháu chưa bao giờ nhìn thấy một thành phố nếu cháu chưa từng thấy Alicante với những tòa pháp pha lê.

“Sao cơ?” Chú Luke nói, nghiêng đầu lắng nghe. “Cháu vừa nói gì thế?”

Clary không nhận ra là mình nói thành lời. Ngượng nghịu, cô nhắc lại cho chú nghe và chú ngạc nhiên nhìn cô. “Cháu nghe cái đó ở đâu?”

“Từ bác Hodge,” Clary nói. “Bác Hodge đã nói với cháu như thế.”

Chú Luke nhìn cô rất gần. “Mặt cháu rất đỏ,” chú nói. “Cháu cảm thấy sao?”

Cổ Clary đang đau, toàn bộ cơ thể nóng như phải bỏng, còn miệng thì khô khốc. “Cháu ổn,” cô nói. “Chúng ta cứ tới đó đi, được không?”

“Được.” Chú Luke chỉ; ở rìa ngoài của thành phố, nơi chẳng còn tòa nhà nào, Clary thấy một cổng vòm, hai bên cong lên tạo thành chóp nhọn. Một Thợ Săn Bóng Tối mặc toàn đồ đen đứng gác trong bóng râm của cổng vòm. “Đấy là cổng Bắc - những cư dân Thế giới Ngầm được phép vào qua lối này, miễn là có giấy thông hành. Những lính canh đứng gác cả ngày lẫn đêm. Giờ, nếu chúng ta có công việc chính đáng, hoặc được cho phép bước vào, chúng ta sẽ đi qua đó.”

“Nhưng quanh thành phố làm gì có tường,” Clary nhận xét. “Nó chẳng giống cổng lắm.”

“Các kết giới vô hình nhưng chúng vẫn ở đó. Những tháp quỷ kiểm soát chúng. Chúng đã tồn tại cả ngàn năm nay rồi. Cháu sẽ cảm thấy khi đi qua.” Chú liếc nhìn gương mặt đỏ lựng của cô một lần nữa, sự lo lắng hằn lên đuôi mắt chú. “Cháu sẵn sàng chưa?”

Cô gật đầu. Họ rời khỏi cổng, đi ven theo rìa phía đông thành phố, nơi nhà cửa mọc san sát hơn. Với một động tác ra hiệu giữ im lặng, chú Luke kéo cô vào khe hẹp giữa hai ngôi nhà. Clary nhắm mắt khi họ tiến tới, có chút mong chờ sẽ đập mặt vào bức tường vô hình ngay khi bước vào những con phố của Alicante. Nhưng không phải. Cô cảm thấy một áp lực đột ngột, như thể ngồi trong một máy bay đang hẫng xuống. Tai cô ong ong - rồi cảm giác đó biến mất, và cô đang đứng trong con hẻm giữa những ngôi nhà.

Giống như những con hẻm của New York - và chắc chắn giống mọi con hẻm trên thế giới - nó bốc mùi nước đái mèo.

Clary nheo mắt nhìn một góc nhà. Con đường lớn hơn thẳng lên đồi, hai bên là những cửa hàng nhỏ và nhà cửa. “Chẳng có ai gần đây,” cô nhận xét, có chút ngạc nhiên.

Dưới ánh chiều chạng vạng, trông mặt chú Luke xám ngoét. “Hẳn tại Gard đang có buổi họp. Chỉ như thế thì đường xá mới vắng bóng người.”

“Nhưng thế không tốt sao? Không ai xung quanh đây nhìn thấy chúng ta.”

“Tốt mà cũng xấu. Những con đường gần như vắng tanh, đó là tốt. Nhưng nếu có ai tình cờ thấy chúng ta thì họ sẽ để ý và nhớ kỹ chúng ta.”

“Cháu nghĩ mọi người đang ở Gard.”

Chú Luke cười nhạt. “Đừng chỉ hiểu theo nghĩa đen vậy chứ, Clary. Chỉ hầu hết thành phố thôi. Trẻ con, thiếu niên, những ai được miễn đến họp, sẽ không ở đó.”

Thiếu niên. Clary nghĩ đến Jace, và dù không muốn, nhịp tim cô tăng vọt như con ngựa lao khỏi vạch xuất phát trong cuộc đua.

Chú Luke nhăn mặt, gần như thể đọc được suy nghĩ của cô. “Và giờ, chú đang phá Luật vì bước vào Alicante khi chưa thông báo với Clave tại cổng. Nếu ai đó nhận ra chú, chúng ta sẽ gặp rắc rối thực sự đấy.” Chú liếc nhìn khoảnh trời hẹp giữa những mái nhà. “Chúng ta phải tránh các con phố.”

“Cháu tưởng chúng ta sẽ tới nhà bạn chú.”

“Đúng. Và đúng ra, cô ấy không phải bạn.”

“Vậy là ai-?”

“Cứ đi theo chú.” Chú Luke chui vào con hẻm giữa hai ngôi nhà, chật hẹp đến mức Clary có thể vươn tay chạm tới tường của cả hai nhà khi họ đi trong đó và bước ra một con phố ngoằn ngoèo rải đá cuội với những cửa hàng chạy dọc hai bên. Lối kiến trúc nơi đây dường như là một sự giao thoa giữa phong cách kiến trúc Gothic và truyện thần tiên của lũ trẻ. Những viên đá lát mặt tiền được chạm khắc với nhình những sinh vật trong thần thoại và truyền thuyết- đầu những con quái vật được vẽ ước lệ, đây đó có hình những con ngựa có cánh, hình gì đó giống ngôi nhà trên chân gà, rồi thì người cá, và tất nhiên, cả các thiên thần nữa. Những máng xối đầu thú có ở mọi góc nhà, gương mặt xấu xí đang gầm ghè dữ tợn. Và ở mọi nơi đều xuất hiện những chữ rune: trên cửa, ẩn dưới những hình điêu khắc, toòng teng trên những sợi xích mảnh như cái chuông gió rung động trong cơn gió nhè nhẹ. Những chữ rune bảo vệ, may mắn, thậm chí để buôn may bán đắt; Clary có chút chóng mặt khi nhìn thấy tất cả cùng một lúc.

Họ bước đi trong im lặng, cố ẩn mình trong bóng tối. Con phố rải đá cuội vắng tanh vắng ngắt, cửa các cửa hiệu đóng kín và khóa trái. Clary trộm liếc qua những ô cửa sổ khi họ bước qua. Nhìn thấy những viên sô cô la được trang trí bắt mắt và hẳn là đắt tiền qua mội ô cửa sổ rồi ô cửa sổ sau lại bày bán những món vũ khí nguy hiểm chết người - những thanh đoản kiếm, giáo mác, dùi cui đóng đinh và hàng dãy những con dao thiên thần đủ kích thước - cho cô một cảm giác kỳ lạ. “Không có súng,” cô nói. Cô nghe mà có cảm giác giọng mình như từ đâu đó xa xôi vọng lại.

Chú Luke chớp mắt. “Sao cháu?”

“Những Thợ Săn Bóng Tối,” cô nói. “Dường như họ chẳng bao giờ dùng súng.”

“Chữ rune ngăn bột súng đánh lửa,” chú nói. “Không ai biết tại sao. Nhưng, Nephilim thi thoảng cũng dùng súng trường để xử lý người sói. Chữ rune không thể giết bọn chú - chỉ có đạn bạc mà thôi.” Giọng chú nghe buồn bã làm sao. Đột nhiên chú ngẩng phắt lên. Trong cảnh tranh tối tranh sáng thật dễ để tưởng tượng ra tai chú dựng đứng như tai sói. “Những giọng nói,” chú nói. “Hẳn cuộc họp ở Gard đã kết thúc.”

Chú nắm lấy tay cô vào lôi cô rời khỏi đường chính. Họ bước vào một quảng trường nhỏ có cái giếng ở trung tâm. Cây cầu bê tông cong cong bắc qua một con kênh hẹp ngay trước mặt họ. Dưới ánh chiều muộn, nước kênh gần như chuyển thành đen. Clary có thể nghe thấy những giọng nói vọng tới từ những con phố gần đó. Những giọng nói lên cao, giận dữ. Càng lúc Clary càng thấy váng vất - cô có cảm giác như mặt đất đang nghiêng ngả dưới chân, sắp sửa cho cô nằm đo ván. Cô dựa người lên bức tường trong hẻm, hít lấy hít để.

“Clary,” chú Luke nói. “Clary, cháu ổn không?”

Giọng chú nghe ngượng nghịu, xa lạ. Cô nhìn chú, và hơi thở chết trong cổ họng. Tai chú dài và nhọn, răng sắc như dao cạo, mắt mang màu vàng dữ tợn-

“Chú Luke,” cô thì thào. “Chuyện gì với chú thế?”

“Clary.” Chú vươn bàn tay dài kỳ dị có những móng tay sắc nhọn và xỉn màu tới cô. “Cháu sao thế?”

Cô hét, quẫy người tránh xa chú. Cô không hiểu vì sao mình sợ nữa - cô đã từng thấy chú Luke Biến Đổi, và chú chưa bao giờ làm hại cô. Nhưng cơn hoảng sợ là một sinh vật sống trong cô, nhưng không thuộc quyền kiểm soát của cô. Chú Luke nắm lấy vai cô và cô giằng ra, tránh xa đôi mắt thú vàng của chú, kể cả khi chú bịt miệng cô, khẩn nài cô giữ im lặng bằng giọng của một con người. “Clary, xin cháu-”

“Thả cháu ra! Thả cháu ra!”

Nhưng chú không làm theo. “Do nước- Cháu bị ảo giác rồi- Clary, cố bình tĩnh lại đi.” Chú gần như lôi cô đi về phía cầu. Cô cảm nhận được nước mắt lăn dài trên má, xoa dịu đôi má bỏng rát của cô. “Không phải thật đâu. Cố tỉnh táo đi cháu,” chú nói, giúp cô bước lên cầu. Cô có thể ngửi thấy mùi nước bên dưới, ngai ngái và nhạt nhão. Có những thứ đang di chuyển bên dưới mặt nước. Khi cô quan sát, một cái xúc tu đen sì trồi lên khỏi mặt nước, cái giác bám rỗ của nó đầy những cái răng nhọn như mũi kim. Cô tránh xa mặt nước, không thể hét nổi, chỉ rên rỉ khe khẽ trong họng.

Chú Luke đỡ lấy cô khi cô khuỵu xuống, ẵm cô trong tay. Chú đã không bế cô kể từ hồi cô lên năm hay sáu. “Clary,” chú nói, nhưng những gì chú nói tiếp theo nhòa đi thành tiếng rống hoang dại khi họ rời khỏi cầu. Họ chạy qua những căn nhà cao cao, thon thả, gợi cho Clary nhớ tới dãy nhà liền kề của Brooklyn - hoặc có lẽ cô đang gặp ảo giác về chính khu nhà cô? Không khí xung quanh họ dường như đang méo mó theo bước họ di chuyển, ánh đèn từ những ngôi nhà sáng lên như ánh đuốc, dòng sông lấp lóa với ánh sáng phốt pho ma mị. Xương cốt Clary có cảm giác như rời thành từng khúc ngay trong cơ thể.

“Đây rồi.” Chú Luke dừng lại trước một căn nhà cao cao bên dòng kênh. Chú đá mạnh vào cửa, hét gọi; cánh cửa được sơn màu sáng, gần giống sắc đỏ, với duy nhất một chữ rune vàng trên đó. Khi Clary nhìn nó, nó tan ra và chạy thành hình cái đầu lâu xấu xí đang nhe răng cười khành khạch. Không có thật đâu, Clary bụng bảo dạ, cố kìm tiếng hét bằng cách nắm chặt tay lại, cắn chặt răng tới khi nếm thấy cả vị máu trong khoang miệng.

Cảm giác đau đớn giúp cô tỉnh táo được một lúc. Cánh cửa bật mở và đứng đó, là một người phụ nữ mặc váy đen, trong trạng thái vừa bực bội vừa ngạc nhiên. Mái tóc cô ta nâu dài, đã điểm sợi bạc, xổ tung khỏi hai bím tóc; đôi mắt xanh da trời nhìn quen thuộc. Viên đá phù thủy sáng lên trong tay người phụ nữ đó. “Ai đây?” cô ta hỏi. “Cậu muốn gì?”

“Amatis.” Chú Luke bước vào vùng sáng của ngọn đèn phù thủy, Clary nằm gọn lỏn trong vòng tay chú. “Anh đây.”

Gương mặt người phụ nữ tái nhợt và cô ta lảo đảo, đặt tay chống lên cửa để đứng vững. “Lucian?” Chú Luke cố tiến thêm bước nữa, nhưng người phụ nữ - Amatis - chắn đường. Cô ta lắc đầu quá mạnh đến nỗi bím tóc đung đưa lên xuống. “Sao anh có thể tới đây, Lucian? Sao anh dám đến đây?”

“Anh chẳng còn lựa chọn nào khác.” Chú Luke ôm Clary chặt hơn. Cô cố không khóc. Toàn bộ cơ thể cô như đang bị nung trong lò lửa, mọi dây thần kinh đều cháy lên vì đau đớn.

“Thế thì phải đi thôi,” Amatis nói. “Nếu anh đi ngay lập tức-”

“Anh không tới vì bản thân em. Anh tới đây vì cô bé này. Con bé đang chết.” Khi người phụ nữ nhìn chú, chú nói. “Amatis, làm ơn đi mà. Con bé là con gái của Jocelyn.”

Một khoảng lặng kéo dài, trong khi cô Amatis đứng im như tượng, không hề nhúc nhích trước ngưỡng cửa. Cô như bị đóng băng, nhưng vì ngạc nhiên hay sợ hãi thì Clary không đoán ra được. Clary nắm chặt tay - lòng bàn tay cô nhơm nhớp máu chảy ra từ nơi móng tay cô bấu vào - nhưng kể cả cảm giác đau đớn cũng không thể giúp nổi cô nữa; thế giới đang nổ bung trong màu sắc nhàn nhạt, giống như những mảnh ghép trôi nổi trên mặt nước. Cô hầu như không nghe thấy giọng Amatis khi người phụ nữ trung niên lùi khỏi ngưỡng cửa và nói, “Được rồi, Lucian. Anh đưa con bé vào đi.”

Khi Simon và Jace trở lại phòng khách, Aline đã bày biện thức ăn lên chiếc bàn thấp đặt giữa những băng ghế. Có bánh mỳ và pho mát, vài miếng bánh ngọt, táo, thậm chí một bình rượu mà Max không được phép đụng tới. Thằng bé đang ngồi trong góc với một đĩa bánh, cuốn sách mở ra trong lòng. Simon thông cảm với nó. Cậu cũng thấy lạc lõng giữa đám người đang cười đùa chuyện trò rôm rả, hệt như Max vậy. Cậu quan sát những ngón tay của Aline vuốt nhẹ qua cổ tay Jace trong khi cô ta vươn tay lấy một miếng táo và cậu thấy căng thẳng. Nhưng đây là điều mày muốn anh ta làm, cậu tự nhủ, nhưng không hiểu sao cậu không thể loại bỏ cảm giác rằng Clary đang bị cho ra rìa.

Jace nhìn vào mắt cậu qua đầu Aline và mỉm cười. Không hiểu sao, dù anh ta không phải ma cà rồng, anh ta vẫn có thể cười khoe toàn răng nhọn. Simon nhìn đi chỗ khác, liếc quanh phòng. Cậu để ý rằng thứ âm nhạc cậu nghe lúc trước không phát ra từ máy sterio mà từ một cỗ máy cơ khí trông có vẻ phức tạp.

Cậu nghĩ tới việc bắt chuyện với Isabelle, nhưng cô nàng đang trò chuyện cùng Sebastian trong khi khuôn mặt lịch lãm của cậu ta đang cúi xuống chăm chú nhìn cô. Jace đã từng cười cợt trước vụ cảm nắng của Simon với Isabelle, nhưng rõ ràng Sebastian có thể xử lý được cô gái này. Những Thợ Săn Bóng Tối được nuôi dạy để có thể xử lý bất cứ chuyện gì, phải vậy không? Dù vẻ mặt Jace khi thừa nhận đã lên kế hoạch chỉ làm anh trai Clary khiến Simon không tin tưởng nhiều.

“Chúng ta hết rượu rồi,” Isabelle lên tiếng, đặt cái bình đánh kịch xuống bàn. “Tớ sẽ đi lấy thêm.” Với một cái nháy mắt với Sebastian, cô nàng biến mất trong bếp.

“Xin lỗi nếu tôi nói câu này, cậu có phần hơi im lặng.” Đó là Sebestian, ngả người trên ghế của Simon kèm theo nụ cười lịch lãm.

Với một người mang mái tóc đen tới nhường đó, Simon nghĩ, da của Sebastian quá trắng, như thể anh ta không ra nắng nhiều. “Mọi chuyện ổn cả chứ?”

Simon nhún vai. “Tôi thấy không có nhiều đề tài cho tôi tham gia cùng. Toàn những chuyện nếu không phải liên quan tới chính sách của Thợ Săn Bóng Tối thì cũng về những người tôi chưa bao giờ nghe tên, hoặc cả hai.”

Nụ cười đã biến mất khỏi đôi môi Sebastian. “Chúng tôi là một cộng đồng sống khá khép kín, chúng tôi là Nephilim. Chứng tôi sống theo cách thức của những người bị cách ly khỏi phần còn lại của thế giới.”

“Cậu không nghĩ rằng chính cậu tự tách mình ra sao? Các cậu khinh rẻ người thường-”

“‘Khinh rẻ’ có phần hơi nặng nề,” Sebastian nói. “Cậu nghĩ rằng thế giới muốn chúng tôi sao? Tất cả chúng tôi đều là những bằng chứng sống cho bất cứ điều gì họ tự an ủi mình rằng không hề có ma cà rồng thật, không hề có quỷ hay quái vật thực sự trốn dưới gầm giường - họ đang dối gạt mà thôi.” Cậu ta quay đầu về phía Jace, người, Simon nhận ra, đã im lặng nghe ngóng cuộc trò chuyện của cả hai trong vài phút. “Anh không đồng ý sao?”

Jace mỉm cười. “De ce crezi c v? ascultam conversatia?”

Sebastian nhìn anh ta với vẻ ngạc nhiên một cách hài lòng. “M-ai urmarit de când ai ajuns aici,” cậu ta trả lời. “Nu-mi dau seama dac? nu m? placi ori dac? e_ti atât de b? nuitor cu toata lumea.” Cậu ta đứng dậy. “Tôi đánh giá cao việc luyện tiếng Ru-ma-ni, nhưng nếu anh không phiền, tôi sẽ đi xem làm sao mà Isabelle ở trong bếp lâu thế.” Nói xong cậu ta biến mất sau khung cửa, để lại Jace đang bối rối nhìn theo.

“Sao nào? Vậy là cậu ta không biết chút tiếng Ru-ma-ni nào sao?” Simon hỏi.

“Không,” Jace nói. Anh ta khẽ nhíu mày. “Không, cậu ta nói đúng.”

Trước khi Simon kịp hỏi anh ta định nói gì, Alec đã bước vào phòng. Anh ta vẫn giữ cái vẻ mặt cau có, y hệt như lúc rời khỏi nhà. Ánh mắt anh ta dừng lại một lúc nơi Simon, trong đôi mắt màu xanh lam đó dường như chứa đựng một vẻ bối rối.

Jace ngước lên. “Về sớm thế?”

“Nhưng không về lâu đâu.” Bàn tay đeo găng của Alec cầm lấy miếng táo. “Mình chỉ về để đón- cậu ta,” anh ta nói, dùng miếng táo chỉ về Simon. “Gard muốn Simon tới.”

Aline có vẻ ngạc nhiên. “Thật sao?” cô ta thốt lên, nhưng Jace đã đứng dậy khỏi băng ghế, rút tay khỏi tay cô gái kia.

“Cần làm gì?” anh hỏi với sự bình tĩnh đáng sợ. “Mình hy vọng cậu phải biết trước khi đưa cậu ta tới đó.”

“Tất nhiên tớ đã hỏi,” Alec quát. “Tớ không ngốc.”

“Ồ thôi nào,” Isabelle nói. Cô nàng đã xuất hiện tại ngưỡng cửa cùng Sebastian, hiện giờ đang cầm cái bình. “Đôi lúc anh cũng hơi ngốc, anh biết đấy. Chỉ hơi thôi,” Isabelle vội nói thêm khi Alec ném cho cô em ánh mắt hình viên đạn.

“Họ định đưa Simon trở lại New York,” anh ta nói. “Qua Cổng Dịch Chuyển.”

“Nhưng cậu ấy vừa mới tới đây,” Isabelle bĩu môi phản đối. “Không vui chút nào.”

“Chuyện không nên vui, Izzy. Simon tới đây vì tai nạn, vì thế Clave nghĩ tốt nhất nên cho cậu ta về nhà.”

“Tuyệt,” Simon nói. “Có lẽ tôi sẽ về nhà trước khi mẹ tôi nhận ra tôi đã biến mất. Thời gian ở đây và Manhattan khác biệt ra sao?”

“Cậu có mẹ?” Aline có vẻ ngạc nhiên.

Simon chọn cách lờ cô ta đi. “Nghiêm túc nhé,” Simon lên tiếng khi Alec và Jace trao đổi bằng ánh mắt. “Được thôi. Tất cả những gì tôi muốn là thoát khỏi chốn này.”

“Cậu sẽ đi cùng cậu ta?” Jace hỏi Alec. “Và đảm bảo mọi chuyện ổn thỏa chứ?” Họ đang nhìn nhau theo cái cách quá quen với Simon. Đó là cái cách Simon và Clary thi thoảng vẫn nhìn, gửi cho nhau những cái nhìn ý nhị khi họ không muốn bố mẹ họ biết họ định làm gì.

“Cái gì?” Simon nói, nhìn khắp lượt hai cậu con trai kia. “Sao thế?”

Họ không nhìn nhau nữa; Alec liếc đi chỗ khác, và Jace quay lại, tặng cho Simon cái vẻ dịu dàng và ánh nhìn thân thiện. “Chẳng có gì cả,” Jace nói. “Mọi chuyện đều ổn. Chúc mừng nha, ma cà rồng - cậu được về nhà.”

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.