Hiện giờ Trần Quốc Minh đang vô cùng bực bội.
Hôm qua ông vừa tham gia một buổi họp chuyên đề cùng các trường khác. Sự chênh lệch giữa trường mình và họ quá rõ ràng khiến ông lo lắng không yên, bèn đến nhà vệ sinh nam định bụng bắt vài học sinh hút trộm thuốc lá để trút giận. Nào ngờ vừa bước vào, ông vô tình nghe được hai cậu học sinh đang rửa tay bàn tán về chuyện học sinh đứng đầu khối lại muốn chọn khối Xã hội.
Ông lập tức dựng tai lên nghe ngóng. Đứng đầu khối nào cơ? Chẳng lẽ là hạng nhất khối 10 của trường?
Mà cả trường ngoài lớp 10 ra, đâu còn lớp nào phải chia khối nữa?
Được lắm, Lý Quỳ Nhất, lại là em.
Thật khó để nói nhà trường bỏ ra một trăm nghìn tệ để đón thủ khoa thành phố, hay thực chất là để rước một bà cô tổ về cung phụng. Bao nhiêu năm làm chủ nhiệm khối, Trần Quốc Minh chưa từng gặp một học sinh nào khiến ông đau đầu như cô học trò này. Đang yên đang lành tự dưng lại muốn học Xã hội là thế nào?
Ông nghĩ mãi vẫn không tài nào hiểu nổi đành túm kẻ đầu sỏ lên nói chuyện. Ông đặt bình giữ nhiệt xuống bàn, day day huyệt thái dương, cố giữ giọng điệu bình tĩnh nhất có thể: “Em giải thích lý do tại sao chọn Xã hội cho tôi nghe xem nào.”
“Em có hứng thú hơn với các môn Xã hội ạ.”
Lý Quỳ Nhất vừa nói vừa chớp mắt, tỏ vẻ ngây thơ vô tội. Điều hòa trong phòng làm việc của Trần Quốc Minh phả hơi nóng liên tục thẳng vào mặt cô khiến mắt cô khô khốc. Mà điều buồn cười là cửa văn phòng lại mở toang để tránh gây nghi ngờ, gió lạnh từ ngoài hành lang lùa vào, thốc thẳng vào lưng khiến cô không khỏi rùng mình. Cô như đứng giữa ranh giới của băng và hỏa, trước mặt nóng hừng hực còn sau lưng lại lạnh cóng.
Cô đã lường trước việc Trần Quốc Minh sẽ gọi mình lên nói chuyện, nhưng cứ ngỡ phải đợi đến sau kỳ nghỉ lễ. Nào ngờ, chẳng biết thầy nghe ngóng được từ đâu rằng cô muốn chọn Xã hội mà túm cô ngay tiết cuối trước khi nghỉ.
Tất cả là tại Phan Quân Manh, tại cậu ta hãi hùng rống lên trong lớp: “Lý Quỳ, cậu muốn chọn Xã hội á?” khiến cả lớp cùng ngoái lại bàn tán xôn xao. Chắc vì thế mà tin đồn lan ra ngoài.
“Có hứng thú hơn với các môn Xã hội?” Trần Quốc Minh nhắc lại lời cô, ánh mắt nửa tin nửa ngờ chĩa vào Lý Quỳ Nhất: “Chẳng lẽ em không có hứng thú với các môn Tự nhiên à?”
Không thể nào như thế được. Nếu không thì sao em lại có thể học tốt những môn Tự nhiên đến vậy?
Lý Quỳ Nhất thành thật đáp: “Không phải em không hề có hứng thú, nhưng sau khi cân nhắc một cách toàn diện về chuyên ngành mình muốn theo học lâu dài và chuyên sâu trong tương lai, em thấy bên Xã hội phù hợp với mình hơn.”
Trần Quốc Minh nheo mắt hỏi: “Em muốn học chuyên ngành gì?”
“Em muốn học chuyên ngành Hán Ngữ. Dù là văn học hay ngôn ngữ, em đều muốn tìm hiểu sâu hơn.”
Trần Quốc Minh hơi ngạc nhiên, bởi rất hiếm khi thấy học sinh lớp 10 đã định hướng sẵn ngành học tương lai của mình. Phần lớn học sinh hiện giờ đều gặp phải tình trạng phổ biến là đến tận khi thi đại học xong vẫn còn mù mờ, điền nguyện vọng một cách hú họa, để rồi khi thực sự vào đại học mới ngỡ ngàng nhận ra thứ mình chọn năm nào hóa ra lại là một thứ kỳ quặc chẳng khác nào yêu ma quỷ quái.
Lẽ ra, ông nên vui mừng khi học sinh có mục tiêu rõ ràng như vậy. Nhưng giờ phút này ông không thể vui nổi, không khỏi hít thật sâu: “Văn học hoặc ngôn ngữ ư…Em nghĩ gì mà lại chọn cái này?”
Lý Quỳ Nhất thấy câu hỏi của thầy giáo thật kỳ cục: “Vì em thích ạ.” Nhưng nhận ra câu trả lời có phần qua loa, cô bổ sung ngay. “Em tin rằng mình có đủ khả năng để theo học chuyên ngành này.”
Trần Quốc Minh nghe cô giải thích liền nở nụ cười thấu hiểu. Ông quá hiểu đám trẻ này, bọn chúng ngây thơ lắm, “đam mê yêu thích” của bọn chúng còn to lớn hơn cả bầu trời. Không phải ông chưa từng thấy những học sinh như vậy bao giờ. Trần Quốc Minh không khỏi thả lỏng hơn, ngả lưng vào ghế rồi nghiêm túc nói: “Tôi có thể hiểu niềm hứng thú này của em. Con gái thích những thứ liên quan đến văn học nghệ thuật cũng là điều bình thường. Nhưng tôi phải nhắc em rằng khoa Hán Ngữ không phải ngày nào cũng đọc sách, luyện chữ, tận hưởng cuộc sống, thong dong tự tại như trong tưởng tượng của em. Nếu cứ giữ suy nghĩ ấy, em sẽ vỡ mộng khi vào đại học. Em nói em có khả năng học hành, tôi không phủ nhận điều này nhưng khoa Hán Ngữ không đòi hỏi học sinh phải quá xuất sắc. Ngưỡng điểm của nó rất thấp, ai cũng đỗ được, nên tôi mới khuyên em đừng lãng phí tài năng của mình.”
Lãng phí ư? Lý Quỳ Nhất hơi nhíu mày. Vậy học cái gì mới không bị xem là lãng phí?
Mọi người luôn có suy nghĩ học Xã hội thì không cần động não, không cần tư duy. Nếu thế thì chẳng lẽ học sinh khối này toàn dùng đầu ngón chân để học?
Nhưng cô không hé răng nói một lời nào bởi cô biết nếu mình tranh cãi với Trần Quốc Minh chỉ khiến câu chuyện này kéo dài vô tận. Cô dằn cảm xúc trong lòng, bình tĩnh đáp: “Thưa thầy, trước hết, em muốn thầy biết rằng quyết định này không phải một phút bốc đồng, càng không phải vì em thích sống ung dung tự tại như thầy nghĩ. Nếu em thích, em sẽ biến nó thành hiện thực chứ không chỉ dừng lại ở mơ mộng hão huyền. Em đã tìm hiểu kỹ và biết khoa Hán Ngữ học những gì. Em cũng đã nghe các bài giảng của những trường đại học hàng đầu đăng tải trên mạng. Dù là lịch sử văn học, lý thuyết văn học, phê bình văn học hay các môn liên quan đến ngôn ngữ như ngữ dụng học, ngữ âm học… tất cả đều khiến em hứng thú. Chính vì vậy, em mới lựa chọn khoa Hán Ngữ. Còn về ngưỡng điểm tuyển sinh, đúng là nó thấp nhưng em không có ý định chỉ dừng lại ở mức đó. Nếu đã học, em muốn đào sâu nắm vững kiến thức. Nếu theo hướng nghiên cứu, e rằng không phải ngành này không xứng với em, mà là nếu em có thể xứng với một phần vạn của ngành ấy đã là may mắn lắm rồi.”
Lại nữa rồi đấy.
Con bé này lúc nào cũng có lý lẽ để phản bác!
Trần Quốc Minh bất lực hết sức. Ngay từ lần tranh cãi nảy lửa trong văn phòng lần trước, ông đã biết cô học sinh này là đứa cứng đầu bướng bỉnh, luôn làm bất cứ điều gì mình cho là đúng mà chẳng thèm bận tâm đến hoàn cảnh thực tế. Trong tình cảnh này ông không muốn vòng vo với cô nữa mà nói thẳng: “Em còn trẻ, thành tích điểm số tốt, mọi thứ trong trường đều suôn sẻ, chưa từng va vấp gặp khó khăn nên cứ ngỡ rằng mọi chuyện vốn dĩ phải như vậy, cảm thấy tương lai nằm gọn trong tay mình. Nhưng đến khi em tốt nghiệp đại học, bước chân vào xã hội thì mới thấm thía rằng cuộc sống không phải lúc nào cũng lý tưởng như vẫn ta nghĩ.”
Lý Quỳ Nhất hiểu ngay ẩn ý trong lời thầy. Cô trầm tư giây lát rồi cất tiếng, gương mặt lẫn giọng nói không để lộ cảm xúc: “Thầy muốn nói em nên chọn Tự nhiên để sau này học một chuyên ngành có tương lai phát triển phải không?”
“Đối với những đứa trẻ xuất thân từ gia đình bình thường thì ít nhất đây là một lựa chọn đúng đắn.” Trần Quốc Minh đáp.
Vừa dứt lời, ông đã thấy vẻ mặt Lý Quỳ Nhất tối sầm lại. Ông biết lời mình quá thực tế, thậm chí có phần khắc nghiệt với một đứa trẻ chỉ mới mười lăm, mười sáu tuổi.
Dẫu sao cũng là học sinh của mình nên ông không muốn làm tổn thương trái tim non nớt của cô học trò, bèn dịu giọng khuyên nhủ: “Thầy không phản đối việc em có lý tưởng riêng, nhưng em không thể nhắm mắt mà bước đi giữa thế giới rộng lớn này. Em từng nghe câu ‘Học giỏi toán lý hóa, đi khắp thế gian chẳng sợ gì’ chưa? Em cho rằng đó chỉ là câu nói vô căn cứ sao? Không, nó phản ánh thực tế xã hội này. Nếu hôm nay thầy đang nói chuyện với một học sinh khác, có lẽ thầy cũng chẳng phí lời như thế này. Vì với em ấy, chọn khối Xã hội đơn giản là vì không thể theo nổi toán lý hóa, vậy thì cứ để em ấy đi con đường phù hợp với bản thân. Nhưng em thì khác. Em có khả năng để học tốt khối Tự nhiên, để chọn cho mình một tương lai rộng mở hơn. Nếu em thật sự yêu thích Văn học, em vẫn có thể tham gia dự thính các lớp học trên đại học, hoặc học văn bằng hai. Đôi khi, không lấy đam mê làm chuyên ngành chính lại giúp ta duy trì niềm yêu thích với nó lâu dài hơn, đúng không?”
Lý Quỳ Nhất lặng thinh, mắt đăm đăm nhìn xuống. Cô nghe được sự chân thành trong lời thầy, chưa bàn đến tính đúng sai của những câu nói đó, nhưng rõ ràng ông đang thật lòng lo lắng cho tương lai cô. Đồng thời, cô cũng nhận ra những định kiến ngấm ngầm ẩn chứa trong đó.
Cô muốn phản bác rằng không có gì là chắc chắn như thầy nói. Trên thế giới này, có người đam mê Văn học, có người say mê Lịch sử, có người miệt mài theo đuổi Triết học… nhưng trong mắt một số người, những đam mê ấy lại trở thành viển vông, không có tương lai, xa rời thực tế. Chẳng phải như vậy là quá bất công sao? Nếu thật sự chỉ vì học kém Vật lý mà buộc phải chọn khối Xã hội thì có gì sai? Học kém Vật lý không phải là một cái tội. Nếu ai cũng giỏi Vật lý, vậy thế giới này còn cần Einstein làm gì nữa?
Thấy cô im lặng quá lâu, Trần Quốc Minh không đoán được suy nghĩ của cô học trò. Ông không biết liệu cô đã bị thuyết phục hay chỉ đang bình tĩnh trước cơn bão, bèn cất tiếng: “Em nghĩ sao?”
Lý Quỳ Nhất ngước mắt, thản nhiên hỏi ngược lại: “Nếu như tất cả mọi người đều học Tự nhiên vì đó là lựa chọn tốt nhất ở hiện tại, vậy chẳng phải sau này sẽ hình thành sự mất cân bằng nghiêm trọng trong xã hội ư? Thế thì phải làm sao đây?”
Giọng nói trong trẻo của cô làm câu hỏi có vẻ ngây thơ non nớt, Trần Quốc Minh tức quá bật cười. “Chuyện này không đến lượt em phải lo lắng.”
“Vậy ai sẽ lo?”
Trần Quốc Minh phẩy tay: “Nước ta rộng lớn như vậy không thiếu nhân tài, tự khắc sẽ có người lo.”
“Nhưng nếu có người lo rồi, tại sao tình trạng này vẫn tiếp diễn? Chẳng phải chứng tỏ rằng số người quan tâm quá ít ỏi sao?”
Trần Quốc Minh giật mình: “Sao? Em muốn lo lắng à?”
“Em không được ạ?” Lý Quỳ Nhất nhìn thẳng vào mắt ông.
Lại nữa rồi.
Cái tính trẻ con can đảm có thừa mà hiểu biết lại chưa tới.
Đầu Trần Quốc Minh đau như búa bổ. May mà cả khối chỉ có một Lý Quỳ Nhất, chứ nếu có thêm vài đứa như này chắc ông phải xin từ chức sớm. Mà thực tế thì chỉ một mình cô thôi cũng đủ khiến ông muốn tan làm ngay lập tức. Dường như ông trời đã thấu hiểu tiếng lòng của ông, bởi đúng lúc này, tiếng chuông tan học du dương êm ái ngân vang khắp khuôn viên trường. Hai giây sau, cả khu nhà dạy học như nồi nước sôi ùng ục, tiếng kéo ghế, xô bàn rin rít, tiếng bước chân rầm rập huỳnh huỵch trên trần nhà ngoài hành lang, thậm chí có vài cậu học sinh còn gào lên bắt chước tiếng sói tru tréo: “À hú…à hú…nghỉ lễ thôi!”
Đám nhãi ranh ếch ngồi đáy giếng này! Trần Quốc Minh đã bực sẵn lại càng tức tối, tại sao học sinh các trường khác ngoan ngoãn bao nhiêu mà học sinh trường ông lại lắm trò thế này?
Một tiếng thở dài khe khẽ bất giác vụt khỏi bờ môi, ông nghiêm nghị nhìn Lý Quỳ Nhất: “Không ai nói rằng em không được. Em có suy nghĩ này cũng là chuyện tốt, với tư cách giáo viên tất nhiên tôi cũng mong các em sau này sẽ góp công sức cống hiến cho xã hội. Nhưng điều mong mỏi nhất của giáo viên là gì? Là mong các em có một cuộc sống tốt đẹp! Tục ngữ có câu Nghèo lo thân mình, giàu lo thiên hạ. Em phải hiểu rõ hoàn cảnh của mình trước khi suy ngẫm những chuyện lớn lao. Thế giới này không phải giang hồ, không phải chỉ cần có nhiệt huyết là có thể phiêu bạt. Có thể bây giờ em thấy tôi thực dụng, toan tính, thô bỉ đến thế nhưng đến khi em lớn lên, em sẽ hiểu đây chính là hiện thực. Mà khi ấy, hối hận thì đã quá muộn rồi.”
“Nếu em không hối hận thì sao?” Lý Quỳ Nhất nhẹ nhàng hỏi lại.
“Làm sao em có thể chắc chắn rằng mình sẽ không hối hận?”
Lý Quỳ Nhất suy tư rồi đáp: “Em không thể chắc chắn, cũng như thầy không thể chắc chắn rằng chọn Tự nhiên sẽ mang lại tương lai tươi sáng. Điều duy nhất em có thể làm là cố gắng hết sức để nếu sau này em không đạt được tiêu chuẩn thành công trong mắt người khác, thì ít nhất em cũng không dùng chính tiêu chuẩn đó làm tổn thương bản thân mình. Đã phải lựa chọn thì không tránh khỏi tiếc nuối. Nhưng tiếc nuối không đáng sợ, cứ ôm lấy những tiếc nuối đó và làm khó bản thân mới là điều phí phạm nhất trong cuộc đời.”
Trần Quốc Minh ngẩn người nghe cô học trò trình bày như thể không ngờ đến việc cô sẽ nói ra những lời ấy.
Ông không phản bác mà chỉ lặng lẽ nhìn cô trong chốc lát rồi mấp máy môi: “…Được rồi, em về đi.”
Lý Quỳ Nhất không hiểu được biểu cảm của thầy, ông đã thỏa hiệp hay đang thất vọng? Cô ngần ngừ một thoáng rồi mới cất lời “Em chào thầy ạ”, sau đó quay người bước ra khỏi văn phòng. Khoảnh khắc cô vừa ngang qua khung cửa chợt nghe thấy tiếng thở thật dài.
Cô chọn sai rồi ư?
Tuy bề ngoài cô luôn thể hiện rất cứng rắn mạnh mẽ nhưng đôi khi vẫn thấy không chắc chắn, thiếu tự tin trong lòng.
Bầu trời bên ngoài khu nhà dạy học đã chuyển màu tối thẫm, những dãy phòng học tắt đèn im lìm. Chỉ còn lác đác vài học sinh ở lại trực nhật. Lý Quỳ Nhất ngơ ngẩn đi qua hành lang dài hun hút, lơ đễnh ngẩng đầu thấy được vầng trăng khuyết cô độc treo trên trời như cái móc câu sắc nhọn, tỏa ánh bạc lạnh lùng. Cô sực nhớ ra hôm nay mình và Hạ Du Nguyên có hẹn kiểm tra vở ghi.
Hai người hẹn gặp tại một hiệu sách có tên “Hữu Gian”. Tầng hai của hiệu sách có khu học tập thảo luận và cả máy in, hoàn toàn thích hợp cho cuộc “đàm phán kinh doanh” giữa cô và cậu.
Không biết Hạ Du Nguyên đã đến đó chưa. Lý Quỳ Nhất bước vội xuống cầu thang về lớp thu dọn sách vở vào cặp, đeo găng tay quấn khăn vào cổ rồi lại rảo bước ra ngoài cổng trường. Trận tuyết dày rơi mấy ngày trước giờ đã bắt đầu tan, để lại cái lạnh tê tái xuyên thấu qua từng lớp vải. Dù đã quấn khăn che nhưng những cơn gió lạnh vẫn len lỏi qua khe hở của chiếc khăn quàng mà lùa vào khoang mũi lúc đi trên đường, khiến cái mũi cứ đau nhức nhối. Mỗi lần hít thở, làn hơi trắng tỏa ra như một làn sương mong manh trong màn đêm mịt mùng. Có lẽ vì được nghỉ lễ nên đám học sinh đã ba chân bốn cẳng nhanh chóng về nhà, khuôn viên trường vắng lặng đìu hiu, chỉ còn vầng trăng khuyết kia song hành cùng cô. Khi thì trăng ẩn hiện sau những tán cây trơ trọi, khi lại len qua làn mây mỏng như sợi tơ trời.
Lý Quỳ Nhất thả chậm bước chân thì vầng trăng ấy cũng đủng đỉnh theo sau. Cô chợt nhớ đến thuở bé. Khi ấy, cô phát hiện mặt trăng dường như luôn theo sát mình, dù cô có chạy nhanh đến đâu, nó vẫn bám riết chẳng rời. Điều đó khiến cô thấy thật kỳ diệu nhưng không có cách nào để hỏi chuyện đó với những người lớn xung quanh. Họ chẳng bao giờ để ý đến câu hỏi nhỏ bé vô ích đó của cô. Mãi đến khi vào tiểu học, cô mới có thể nói ra thắc mắc của mình với giáo viên. Có lẽ vì muốn bảo vệ sự ngây thơ của trẻ con nên giáo viên đó đã nói rằng mặt trăng theo sau em vì nó thích em. Câu trả lời này làm cô vui sướng không thôi, đến mức còn tự tưởng tượng có lẽ mặt trăng là một chú chó con cô nuôi trên trời! Từ đó trở đi, cô không còn sợ đi một mình trong đêm tối nữa vì ánh trăng trong ký ức thời thơ ấu của cô luôn sáng rõ, soi rọi cả rừng cây lẫn khung cửa sổ.
Dẫu cho khi lớn lên, cô đã hiểu rõ sự thật đằng sau những chuyện ngày bé, nhưng mỗi lần ngước nhìn vầng trăng, cô vẫn cảm thấy một niềm an ủi dịu dàng, như thể nhìn thấy chú chó nhỏ thân thương đang vẫy đuôi chạy về phía mình. Từ đó, mặt trăng không còn chỉ là một vì tinh tú cô độc treo trên cao, mà trong mắt cô, nó là sự đồng hành, là chốn nương tựa, là hiện thân của những điều lãng mạn.
Mãi sau này, khi đọc đến câu “Chẳng biết trăng sông đang chờ ai” trong bài “Xuân Giang Hoa Nguyệt Dạ” của Trương Nhược Hư, trái tim cô bất giác đập rộn ràng trong lồng ngực. Trong khoảnh khắc ấy, cô có một niềm tin mãnh liệt rằng người mà ánh trăng chờ đợi chính là mình.
Cô chợt nghĩ, liệu khi Lý Bạch viết “Nâng ly mời trăng sáng/Thêm cả bóng thành ba”, hay khi Tô Thức viết “Ước mong người sống mãi, nghìn dặm chung bóng thuyền quyên”, có phải họ cũng từng nghĩ ánh trăng đang chờ đợi mình chăng?
Mặt trăng vốn chẳng mang tâm tư, chỉ có con người gửi gắm tình ý vào đó. Ánh trăng sáng trong, vượt qua dòng chảy của thời gian, lặng lẽ tỏa xuống những ai mà nó vẫn luôn chờ đợi. Khoảnh khắc ấy, xuyên qua muôn ngàn dáng hình chồng lớp, Lý Quỳ Nhất bỗng nhìn thấy chính mình. Lý Quỳ Nhất bỗng hiểu ra: À, đây chính là ý nghĩa của văn chương.
Hóa ra đó không phải là ảo ảnh xa vời mà là sự phản chiếu của thực tại. Những khoảnh khắc rung động trong tâm hồn tuy không mang lại giá trị thiết thực, nhưng lại khiến cô hạnh phúc khôn nguôi. Cũng bởi thế, đôi khi cô cảm thấy không thể đoán định được vận mệnh mình, cô nghĩ chắc mình sẽ là một kẻ “vô dụng” trong cuộc đời này.
Lý Quỳ Nhất khịt mũi, thắt chặt khăn quàng cổ. Ra khỏi cổng trường, cô ghé vào một cửa hàng nhỏ lấy một hộp kem từ trong tủ lạnh, cô không rõ hiện giờ mình đang vui hay buồn nhưng lại rất muốn ăn kem. Cô hơi ngẫm nghĩ rồi lấy thêm một hộp cho Hạ Du Nguyên. Mong rằng cậu ta sẽ vì hộp kem này mà đồng ý mua vở ghi của cô. Nhìn xem, đây chính là nguồn cơn khiến cô luôn bất an, cô quá mâu thuẫn trong những suy nghĩ của chính bản thân. Khi đối diện với thực tại, cô khát khao tiền bạc, nhưng khi hướng về tương lai, cô lại dửng dưng như thể nó chẳng đáng bận tâm.
Đôi tay run cầm cập cầm hai hộp kem, Lý Quỳ Nhất vừa vào hiệu sách liền lên thẳng tầng hai. Không gian nơi đây vắng vẻ, yên tĩnh hẳn so với tầng dưới. Hạ Du Nguyên đã đến trước, trông khá khoan khoái sau khi cởi áo khoác ngoài. Cậu ngồi làm bài tập trên chiếc bàn gần đó, có vẻ đang tập trung suy nghĩ nên cái bút cứ xoay tròn giữa những ngón tay thon. Người này bình thường trông có vẻ lông bông, hời hợt nhưng khi nghiêm túc nỗ lực lại mang đến một cảm giác vững chãi và đáng tin đến lạ.
Lý Quỳ Nhất bước đến, bóng cô phủ trọn lên người đối diện, buộc Hạ Du Nguyên phải ngước mắt lên nhìn. Đôi mắt ấy quả thật rất đẹp, tròng mắt đen tuyền sáng long lanh nhưng cậu vừa mở miệng đã khiến người ta muốn đấm một cú: “Còn biết đường mà mò đến đây đấy à?”
Quả nhiên mọi sự đẹp đẽ đều là biểu hiện của sự giả dối.
Lý Quỳ Nhất có cảm giác cậu chàng đang cố tình bới bèo ra bọ. Đúng là cô đến muộn, nhưng cũng đâu phải quá đáng lắm? Chậc, mua có mỗi quyển vở mà tỏ ra như thể mình là thượng đế không bằng.
Thôi, vì tiền, một điều nhịn chín điều lành.
Lý Quỳ Nhất ngồi đối diện cậu, đặt hai hộp kem lên bàn hỏi: “Cậu ăn không?”
Có vẻ bất ngờ nên Hạ Du Nguyên chợt sững người trong giây lát. Đôi mắt cậu đảo qua nhìn giữa khuôn mặt cô và hộp kem rồi hơi nhếch môi cầm lấy một hộp: “Cũng được.”
Nói đoạn, cậu vừa như sực nhớ ra gì đó, cúi xuống nhấc chiếc túi để dưới bàn, lấy ra hai cốc nước. Cậu chàng chùi nhẹ đầu mũi như thể ngượng ngùng xấu hổ: “Ờm…tôi mua cacao nóng.”
Đã kem rồi còn ca cao nóng. Cô với cậu đúng là sinh ra để đối lập nhau, vừa ăn đồ lạnh lại uống đồ nóng kiểu gì cũng bị đau bụng. Hẳn nhiên hai người cũng nhận ra vấn đề này nên xấu hổ nhìn nhau.
Hạ Du Nguyên khẽ hắng giọng, mở nắp hộp kem và nắp cốc nước, xúc một thìa đầy kem cho vào cốc cacao nóng. Kem tan chảy ngay lập tức dưới sức nóng của chất lỏng, cậu lấy ống hút khuấy đều rồi cho vào miệng rít một hơi, chép miệng nói: “Cacao ấm cũng ngon phết đấy.”
Cacao ấm á, nghe vừa hợp lý mà cũng kỳ quặc sao ấy. Lý Quỳ Nhất bật cười, chịu thua trước suy nghĩ này của cậu. Song cô cũng bắt chước làm theo tự chế một cốc “cacao ấm” cho mình.
Lý Quỳ Nhất mở cặp sách, lấy tất cả những cuốn vở ghi mình đã biên soạn lại chất thành một chồng dày cộp trước mặt Hạ Du Nguyên. “Cậu xem đi”. Bất chợt nghĩ đến lối suy nghĩ khác thường của cậu bèn hỏi thêm: “Hôm Giáng sinh tôi hỏi cậu có cần vở ghi của tôi không, sao khi ấy lại từ chối?”
“Cậu không hiểu được đâu, cái này gọi là quân tử không nhận đồ ăn xin.” Hạ Du Nguyên lật giở một quyển vở, đáp mà không buồn ngẩng lên.
Cậu mà là quân tử cái quái gì? Lý Quỳ Nhất bĩu môi chê bai.
Đang lật giở cuốn vở, bỗng cậu ngẩng lên, hơi kéo dài âm cuối như nghiền ngẫm: “Thế sao cậu lại hỏi tôi có muốn lấy vở cậu không?”
“Nghe nói cậu đang chú tâm học hành.”
Cậu nhướng mày, giọng lạnh hẳn khi nghe cô trả lời: “Nghe ai nói? Kỳ Ngọc?”
“Phương Tri Hiểu.”
“À.” Cậu gục gặc đầu rồi cúi xuống tiếp tục xem vở ghi song môi lại nở một nụ cười lặng lẽ.
Sau đó không ai lên tiếng nữa. Hạ Du Nguyên nghiêm túc xem nội dung trong vở ghi. Tuy thành tích học tập của cậu chỉ ở mức trung bình nhưng cậu cũng biết rằng phần quan trọng nhất của vở ghi là cách tư duy được phản ánh trong đó. Nếu quyển vở ghi này chỉ đơn giản ghi lại những gì giáo viên đã giảng trên lớp thì nó không có giá trị và cậu không cần thiết phải mua.
Quyển vở ghi này của Lý Quỳ Nhất…thoạt nhìn chẳng có gì đặc biệt. Không màu sắc sặc sỡ, không ký hiệu đánh dấu chằng chịt, điểm ấn tượng nhất chỉ là nét chữ đẹp đẽ nắn nót ngay ngắn của cô. Nhưng càng lật giở, Hạ Du Nguyên càng không khỏi kinh ngạc. Cậu nhận ra Lý Quỳ Nhất thực sự là một bậc thầy trong việc hệ thống hóa kiến thức. Cậu thậm chí không thể hiểu nổi, rõ ràng họ mới chỉ học lớp 10 thôi mà? Có người học suốt nửa năm vẫn chưa biết mình đang học gì. Vậy mà cô đã có thể phân loại toàn bộ kiến thức theo từng chuyên đề, xâu chuỗi và hệ thống hóa một cách chặt chẽ, tạo thành một mạng lưới logic rành mạch. Hơn nữa, trong vở cô còn có bảng tổng hợp những lỗi sai thường gặp, thuật ngữ và kỹ năng làm bài, cùng với những dạng bài tương tự để rèn luyện tư duy suy luận…
Trước đây, Hạ Du Nguyên luôn cho rằng mình thông minh, chẳng cần quá chăm chỉ vẫn có thể dễ dàng duy trì thứ hạng trung bình trong khối. Cậu thậm chí còn không dám tưởng tượng nếu bản thân thật sự nỗ lực, thành tích có thể vươn xa đến mức nào. Nhưng ngay lúc này, khi lật giở từng trang vở ghi của Lý Quỳ Nhất, cậu mới nhận ra mình kém cỏi đến nhường nào. Chuyện này không đơn thuần chỉ là chăm chỉ hay không nữa. Cho dù có thêm một bộ óc giống hệt như hiện tại, chưa chắc cậu có thể tư duy được như cô gái trước mặt.
Cậu khẽ ngước lên. Lý Quỳ Nhất đang ôm lấy cốc cacao ấm, chăm chú vào quyển sách vừa rút từ trên kệ. Chiếc khăn quàng cổ che khuất gần hết khuôn mặt cô, chỉ để lộ hàng chân mày sắc sảo và đôi mắt trong veo. Hạ Du Nguyên lặng lẽ quan sát cô, ánh mắt sâu xa như muốn nhìn thấu xem bộ não ấy được cấu tạo thế nào.
Có lẽ nhận ra điều khác thường, Lý Quỳ Nhất ngơ ngác ngẩng đầu. Bắt gặp ánh mắt ấy, Hạ Du Nguyên giật thót, vội cúi xuống, trống tim đập dồn. Im lặng bình tĩnh lại một lúc rồi cậu giả bộ như không có gì, tiện tay chọn ra năm quyển vở từ chồng sách rồi đẩy sang trước mặt cô: “Tôi mua những quyển này.”
Lý Quỳ Nhất liếc qua một lượt, thầm nghĩ cậu học hành đúng là lộn xộn thật. Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, cô cũng chẳng có tư cách chê bai cậu bởi cô cũng không khác gì. Để biên soạn được đống vở ghi này, cô cũng phải học cả Tự nhiên lẫn Xã hội đấy thôi.
“Được.”
Hạ Du Nguyên hơi ngần ngừ rồi giơ năm ngón tay: “500?”
Úi chà, cũng nhiều tiền phết đấy! Lý Quỳ Nhất thầm ngạc nhiên nhưng vẫn giữ vẻ mặt điềm nhiên, kìm lại nụ cười sắp nở toe toét, thoải mái gật đầu đáp lời: “Được.”
Dứt lời, cô mở cặp, lấy ra một túi đựng bài kiểm tra, lật tìm hai tờ giấy A4 rồi đẩy về phía cậu: “Ký hợp đồng đi.”
Có cả hợp đồng cơ á?
Hạ Du Nguyên cầm lên đọc thử. Trong hợp đồng chỉ ghi vỏn vẹn vài dòng, đại ý là cậu không được sao chép hay bán lại vở ghi của cô. Cậu cười hắt, vẫy vẫy tờ giấy trong tay: “Cái này có hiệu lực về mặt pháp lý không?”
“Không, dựa cả vào lương tâm thôi.” Lý Quỳ Nhất lắc đầu, bình thản đáp: “Nhưng nếu cậu dám vi phạm, tôi sẽ photo hợp đồng này thành hàng chục bản rồi dán khắp phòng học, căng tin, nhà vệ sinh…Dán thêm cả ảnh chụp cậu vào bên cạnh nữa.”
“…”
Hợp đồng được lập thành hai bản, ký tên xong mỗi người giữ một bản. Lý Quỳ Nhất lại mở túi đựng bài kiểm tra cất hợp đồng vào đó.
“Cậu muốn học Xã hội à?” Hạ Du Nguyên đột nhiên buột miệng hỏi, chính cậu cũng không hiểu sao mình lại thốt ra câu này.
Lý Quỳ Nhất còn đang thắc mắc sao cậu biết việc này, nhưng khi nhìn theo ánh mắt cậu, cô lập tức hiểu ra. Tờ đơn đăng ký nguyện vọng chọn khối của cô đang nằm ngay trên chồng bài kiểm tra.
“Ừ.”
Hạ Du Nguyên mừng rơn, mắt nhìn cô chăm chú: “Thật không?”
“Lừa cậu làm gì?” Lý Quỳ Nhất nhìn cậu với ánh mắt kỳ quái. Nhưng khi thấy nụ cười toe toét kia, cô bỗng giật mình, chột dạ hỏi lại: “Chẳng lẽ cậu cũng chọn Xã hội à?”
Hạ Du Nguyên mím môi, thản nhiên đáp: “Đoán xem.”
“Không muốn đoán!”
Lý Quỳ Nhất biết thừa cậu sẽ nói cho cô biết, cái người này mà nhịn được mới là lạ. Quả nhiên cậu chàng đã cúi người kéo chiếc cặp dưới chân lên, lôi ra tờ đơn đăng ký nguyện vọng, chìa về phía cô.
Lý Quỳ Nhất cầm tờ giấy xem kỹ, cậu không chọn Xã hội hay Tự nhiên mà chọn luôn một chuyên ngành là mỹ thuật.
Đúng rồi, cậu ta biết vẽ mà.
Cô cứ nghĩ vẽ tranh chỉ là sở thích của cậu nhưng hóa ra cậu lại muốn theo đuổi con đường chuyên nghiệp. Tuy cô không rõ học sinh theo ngành nghệ thuật phải học hành ra sao, nhưng cũng biết bên cạnh các môn chuyên ngành, họ vẫn phải học đầy đủ các môn văn hóa. Nghĩ đến đây, cô bỗng thấy con đường ấy vừa gian nan vừa khó khăn quá đỗi.
Vậy nên cậu ta thực sự đam mê yêu thích nhỉ?
“Có khi nào Trần Quốc Minh sẽ tìm cậu để nói chuyện không?” Cô hỏi.
Hạ Du Nguyên nhướng mày: “Hả? Xem ra cậu bị thầy ấy tóm rồi.”
“Ừ, vậy nên tôi mới đến muộn.”
Hạ Du Nguyên bỗng thấy tội nghiệp cho Trần Quốc Minh. Làm chủ nhiệm khối cũng không dễ dàng gì khi phải đối mặt với một khối sắt cứng như Lý Quỳ Nhất.
“Thầy không tìm tôi đâu, tôi không giống cậu. Cậu học giỏi nên thầy mới để ý cậu chọn cái gì.”
Lý Quỳ Nhất đáp lại: “Không hẳn là vậy. Thực ra, với thành tích hiện tại của cậu, nếu duy trì được đến năm lớp 12 thì thi đỗ một trường top cũng không phải vấn đề. Và nếu vẫn giữ nguyên ý chí cùng sự cố gắng này, một trường đại học danh tiếng cũng không phải quá xa vời. Có lẽ Trần Quốc Minh sẽ khuyên cậu như vậy.”
“Có khuyên tôi cũng vô ích.” Hạ Du Nguyên kề cốc cacao ấm lên môi, liếc cô. “Hay là cậu bị thuyết phục rồi?”
Lý Quỳ Nhất không trả lời mà chỉ nói: “Vậy à? Thoạt nhìn cậu rất dễ bị thuyết phục đấy.”
Cậu không lên tiếng chỉ nhìn xoáy vào cô bằng ánh mắt sâu thẳm. Một lúc sau cậu mới cất lời với giọng điệu biếng nhác không nghiêm túc, hỏi cô một vấn đề chẳng liên quan đến những gì hai người đang chuyện trò: “Này thánh học, cậu có biết một người có thể nhìn thấy trăng tròn bao nhiêu lần trong đời không?”
Vừa nghe cậu nhắc đến mặt trăng là mắt Lý Quỳ Nhất thoáng lóe sáng nhưng vẻ mặt vẫn điềm nhiên như cũ. Cô biết đây không phải một bài toán nhưng vẫn vô cùng hứng thú làm phép tính: “Một đời người cứ cho trung bình là bảy mươi tuổi đi. Trừ mấy năm đầu đời chưa biết gì và mấy năm cuối đời không minh mẫn…khoảng tầm năm năm, vậy còn sáu mươi lăm năm. Chu kỳ giữa hai lần trăng tròn là hai mươi chín ngày rưỡi, nhưng để dễ tính thì cứ lấy trung bình một lần mỗi tháng. Một năm có mười hai lần trăng tròn, sáu mươi lăm năm sẽ là… bảy trăm tám mươi lần. Nhưng không phải ai cũng ngước nhìn mặt trăng mỗi khi trăng tròn, nên con số này sẽ giảm đi đáng kể. Tôi nghĩ, số lần thực sự nhìn thấy không vượt quá một trăm lần…”
Nói đến đây, giọng cô bất giác dịu xuống, bởi cô vừa chợt nhận ra số lần một người có thể nhìn thấy trăng tròn trong đời ít hơn cô nghĩ rất nhiều. Cô nghĩ mình không cần phải nghe Hạ Du Nguyên giải thích vì sao lại hỏi câu này bởi cô đã hiểu rồi.
Hạ Du Nguyên cũng không tỏ ra quá ngạc nhiên trước đáp án của cô. Cậu chỉ thở dài: “Cậu muốn học Xã hội thật à?”
Lý Quỳ Nhất vẫn không trả lời mà hỏi ngược lại: “Cậu thấy được câu hỏi kia ở đâu thế?”
“Trong một bộ phim điện ảnh, tôi quên mất tên rồi. Hình như phim của đạo diễn Bertolucci. Chắc cậu cũng biết đạo diễn này, phim Hoàng đế cuối cùng cũng là ông ấy đạo diễn đó.”
Lý Quỳ Nhất gật đầu hỏi tiếp: “Bộ phim ấy đã trả lời câu hỏi này như nào?”
“Chúng ta có thể nhìn thấy trăng tròn trên bầu trời bao nhiêu lần nữa? Có lẽ chỉ là hai mươi lần. Nhưng mọi người luôn tin rằng những cơ hội ấy luôn là vô tận.”
Hai mươi lần à, Lý Quỳ Nhất mỉm cười, còn ít hơn cả con số cô đưa ra nhưng có lẽ đó mới chính là hiện thực của cuộc sống.
Cô im lặng hồi lâu rồi mới lên tiếng: “Giống một bài thơ.”
Hạ Du Nguyên cười nhẹ: “Thì vốn dĩ là một bài thơ mà.”
Hiếm khi hai người trò chuyện bình tĩnh như lúc này, không ngờ lại khá thoải mái như có một dòng nước ngầm lặng lẽ tràn vào đêm tối. Nhưng ngay khi Lý Quỳ Nhất vừa mới gỡ bỏ chút ấn tượng không mấy tốt đẹp về cậu chàng này, thì đã thấy cậu ngả người ra ghế, thản nhiên bảo: “Tôi còn biết đọc bài thơ này bằng tiếng Anh đấy, cậu nghe không?”
Lý Quỳ Nhất: “…”
Đúng là không dám dành lời khen ngợi cho cái người này, kể cả khen thầm cũng không được.
“Ai thèm nghe chứ!”
Cô hừ mũi rồi đứng dậy, lấy điện thoại đã để sẵn trong cặp, bước đến quầy lễ tân của hiệu sách hỏi nhân viên về cách sử dụng máy in trong đây. Sau khi được nhân viên giúp đỡ kết nối với máy in, cô bắt đầu in toàn bộ bản scan của năm quyển vở mà Hạ Du Nguyên đã chọn. Khối lượng cần in khá nhiều nên sẽ mất một khoảng thời gian chờ đợi, cô đứng đó buồn chán bèn vào QQ trả lời tin nhắn Phương Tri Hiểu gửi đến. Đang tập trung soạn tin nhắn thì một cái bóng lù lù xuất hiện bên cạnh. Cô ngẩng lên thấy Hạ Du Nguyên đang dựa vào bức tường cạnh máy in, tay khoanh lại nghiêng đầu nhìn cô.
“Làm gì đấy?” Cô thắc mắc.
“Nếu cậu chọn học Xã hội thì chẳng phải sẽ không học cùng lớp với Kỳ Ngọc sao?”
Lý Quỳ Nhất khó hiểu: “Tôi cứ phải học cùng lớp với Kỳ Ngọc à?”
Giọng điệu cậu chàng như thể phải biết bằng được: “Kỳ Ngọc là anh em tốt của tôi, cậu không cần giấu tôi đâu.”
“Tôi giấu cậu cái gì cơ?” Cô càng không hiểu nổi cậu ta đang nói gì.
Cậu lảng mắt đi, thong dong nói: “Cậu thích nó mà.”
Lý Quỳ Nhất chết trân tại chỗ, càng khó hiểu: “Ai bảo với cậu là tôi thích cậu ấy?”
“Chính cậu nói.” Hạ Du Nguyên vẫn ngoảnh mặt chỉ ngoẹo đầu vào tường, đè giọng: “Hôm sinh nhật nó ấy.”
Lý Quỳ Nhất cố lục lọi ký ức hồi lâu rồi mới nhớ ra. Hôm sinh nhật Kỳ Ngọc, khi cả đám chơi Thật hay Thách, cô bị hỏi thích người khác giới nào nhất trong số những người có mặt tại đó, cô đã trả lời tên của Kỳ Ngọc.
Nhưng…
“Lời nói lúc chơi trò chơi làm sao có thể coi là thật được?”
“Cậu chọn nói thật mà.”
“Nếu không thì tôi biết chọn ai? Trong phòng lúc đó chỉ có vài cậu con trai, chẳng lẽ muốn tôi chọn Trương Sấm? Hay Chu Sách? Hay Cao Quang?” Lý Quỳ Nhất càng giải thích càng thấy khó tin, hóa ra thật sự có người nghĩ lời này là thật. Chắc Kỳ Ngọc không nghĩ lời này là thật đâu nhỉ? Chắc cậu ấy không hiểu lầm đâu nhỉ? Trời ơi…
Trong khi cô đang buồn phiền thì lại thấy Hạ Du Nguyên đột nhiên đứng thẳng người, khuôn mặt cậu như bừng sáng: “Vậy là cậu không thích nó?”
“Chứ còn gì nữa!” Cô trợn mắt quát lên.
“Tôi không tin”. Cậu bước lại gần, hơi hếch cằm như muốn xác nhận điều gì đó từ cô. “Nếu tôi cũng ở đó…”
Lời còn chưa dứt, cậu đã im lặng, khẽ nhấp môi rồi quay mặt đi.
“Tin hay không tùy cậu.” Lý Quỳ Nhất gắt gỏng, còn lâu cô mới để tâm chuyện cậu có tin hay không, chỉ cần Kỳ Ngọc đừng hiểu lầm là được.
Chiếc máy in bên cạnh vẫn hoạt động không ngừng, những trang giấy nhả ra từng tờ, từng tờ, theo nhịp điệu đều đặn hệt như tiếng tim đập dồn dập trong lồng ngực ai đó.
Lý Quỳ Nhất sắp xếp chồng giấy từ máy in gọn gàng thành từng quyển, đập phịch vào tay Hạ Du Nguyên. Cô thoáng liếc qua cậu rồi mới thu dọn cặp sách, không thèm chào tạm biệt mà đi thẳng xuống dưới. Hạ Du Nguyên thấy cô về cũng mặc áo khoác, cất vở ghi vào cặp rồi theo cô ra ngoài. Ngoài trời tối om, đường phố vắng lặng không tiếng xe cộ bước chân người qua lại, chỉ có mấy cột đèn đường lẻ loi tỏa ánh sáng vàng nhạt giữa màn đêm. Cậu ngẩng đầu ngắm bầu trời thấy vầng trăng khuyết cong như lưỡi liềm, lấp ló sau làn mây mỏng nên ánh sáng từ nó cũng nhạt bớt phần nào. Hôm nay không phải ngày trăng tròn. Chúng ta có thể nhìn thấy trăng tròn trên bầu trời bao nhiêu lần nữa?
Hạ Du Nguyên cúi đầu, ánh mắt rơi lên bóng dáng người con gái phía trước. Bất chợt cậu xoay người bước vào một cửa hàng nhỏ gần đó. Lý Quỳ Nhất vẫn đang dấn bước mạnh mẽ về phía trước, không để ý động tĩnh phía sau. Mãi đến khi bước đến dưới một cột đèn, cô lại nghe thấy có người gọi mình. Lần này đúng là gọi cô bởi cậu đã gọi tên cô thật rõ ràng.
“Lý Quỳ Nhất!”
Cô ngoảnh lại.
“Bùm”. Có cái gì đó nổ tung trên đầu khiến cô giật thót, không khỏi rụt cổ nhắm tịt mắt lại. Đến khi cô không kìm được hé mắt xem xét tình hình thì chỉ thấy khoảng không phía trên ngập tràn những dải ruy băng giấy đầy màu sắc tung bay trong không trung. Chúng lấp lánh dưới ánh đèn như hằng hà sao băng đáp xuống xung quanh cô. Cách đó không xa, Hạ Du Nguyên đứng cười rạng rỡ dưới nền trời đêm sâu thẳm.