The Deed

Chương 10




“Lính giết thuê?” Blake nhíu mày nhìn lại chàng. “Tên quỷ quái nào muốn thuê người giết cậu chứ?”

Amaury nhún vai, nét mặt cáu kỉnh. “Có thể là bất cứ tên nào trong số rất nhiều tên.”

“À, phải. Cậu có một lượng kha khá kẻ thù đấy nhỉ!”

“Đó là bản chất công việc của chúng ta mà. Công việc trước đây của chúng ta,” chàng tự sửa lại. Là một chiến binh đánh thuê có nghĩa là chàng luôn phải chiến đấu trong một cuộc chiến chống lại một người nào đó, vì ai đó. Nhưng chắc chắn không phải là một cuộc chiến vì chính mình, tất nhiên, và điều đó chỉ càng làm tăng và dấy lên sự thù địch và phẫn nộ của bất kỳ ai mà chàng đấu cùng. Trong những năm qua chàng đã tạo ra rất nhiều kẻ thù. Và bất kỳ ai trong họ cũng điều có thể là người đã cử lũ chó chết đó đến tấn công chàng chiều qua.

“May mắn là phu nhân Emma không bị thương.”

“Ừ.” Amaury nhíu mày khi liếc về phía lâu đài, vợ chàng, không nghi ngờ gì, chắc hẳn giờ đang mải mê bào chế mấy cái thứ thảo dược của nàng.

“Tớ sẽ nói George Nhỏ tăng lượng lính canh phòng lên,” Amaury gần như tự nói với chính mình. “Tớ cũng sẽ bảo cậu ấy là không được để cho Emma rời khỏi lâu đài mà không có ít nhất mười người lính đi theo hộ tống.”

“Thế còn cậu thì sao?”

“Cho dù tớ có ở bên cạnh cô ấy hay không. Thì ít nhất cũng phải có mười người lính đi theo để bảo vệ.”

“Không, ý tớ là cậu cũng nên có ít nhất một người lính đi theo để bảo vệ.”

Amaury cau mày, rồi thở dài gật đầu chấp thuận. “Được rồi.”

Blake im lặng trong một thoáng. Chàng đã nghĩ là ông bạn của mình sẽ phản đối. Thực tế chàng không nhận được sự phản đối nào khiến chàng tò mò, cũng như chuyện Amaury đột nhiên rơi vào tâm trạng tăm tối từ khi đưa Emma lên gác. Chàng đang tò mò muốn chết đi được vì không biết chuyện gì đã xảy ra, và trong khi chàng đang mải tìm cách để hỏi thì Amaury đột nhiên bỗng quay sang.

“Cô ấy nghĩ tớ là con ngựa giống! Một con ngựa giống! Chẳng được tích sự gì ngoài việc là công cụ để gây giống!” chàng rống lên.

Mắt Blake mở to kinh ngạc khi nghe thấy điều đó. “Ai cơ?”

“Vợ tớ chứ ai! Thế cậu nghĩ tớ còn có thể nói về ai khác được nữa chứ?!” Chàng liếc sang ông bạn chậm hiểu trước khi tiếp tục. “Tất cả những gì cô ấy cần từ tớ là một đứa con. Tớ chẳng hơn gì một con bò đực cả! Nàng định bắt tớ phục vụ vì cái ý tưởng điên rồ đó. Gieo hạt giống cho đến khi lấp đầy nàng như ly rượu tràn.”

“Cái nhiệm vụ đó nghe thật kinh dị.” Blake nhe răng cười khoái trá.

Amaury cau có với sự thiếu thông cảm của ông bạn. “Cậu thì cười được rồi. Có phải nàng ấy mong cậu phục vụ hết đêm rồi lại đến ngày đâu.”

“Thế thì tớ còn tiếc hơn ấy chứ.”

Khi nhìn thấy dấu hiệu sắp có bão tố nổi lên trên mặt ông bạn, Blake lắc đầu. “Tớ không hiểu cậu còn phải phàn nàn về cái gì nữa, ông bạn già ạ. Vài ngày trước cậu than phiền về việc vợ cậu thích việc đó, mà cậu thì chắc rằng như thế là không đứng đắn. Rồi giờ cậu bảo tớ vợ cậu chỉ coi cậu như một thùng đựng hạt giống, điều mà nhà thờ cho là suy nghĩ đúng đắn cần phải có của một phụ nữ, ấy thế mà cậu cũng lại thất vọng. Ôi, ây dà, ôi, tớ nghĩ tớ hiểu ra rồi.”

Amaury chỉ quắc mắt lừ bạn, Blake gật. “Phải. Thằng đàn ông kiêu hãnh trong cậu bị tổn thương vì nghĩ rằng sự quan tâm của vợ dành cho mình chỉ để kiếm được một đứa con, và cứu đời mình khỏi tay gã Bertrand.” Chàng lại gật gù. “Phải, chính là như vậy. Mà điều đó làm tớ phải suy nghĩ là sự quan tâm của cậu dành cho cô ấy có lẽ đã vượt quá mức chỉ coi cô ấy như một người vợ rồi.”

Amaury sững người như vừa bị thụi cho một cú, rồi tức thì lắc đầu nguầy nguậy.

“Đúng đấy.” Blake gật. “Có khi cậu đã yêu nàng rồi cũng nên.”

“Yêu á?!” Amaury kinh hoàng trước ý tưởng đó. “Nàng là vợ tớ mà?”

“Biết rồi, nhưng-“

“Đàn ông không bao giờ yêu vợ mình cả,” chàng chán nản khẳng định. “Họ dành tình yêu cho người tình của mình. Vợ chỉ là của để dành thôi.”

“Tớ chưa từng thấy cậu có nhân tình bao giờ, Amaury.”

“Chưa, nhưng –“

“Và, có lẽ mốt bây giờ là các quý ông và phu nhân để dành tình yêu cho nhân tình, nhưng Emma thì không phải là một mệnh phụ bình thường. Nàng rất dễ yêu,” chàng thông cảm nói.

Amaury lừ mắt. “Để vợ tớ yên. Nàng sẽ không có tình nhân nào hết.” Rồi chàng quay người, lao thẳng ra sân trong lâu đài, bỏ lại Blake sửng sốt nhìn theo.

Emma ngước nhìn lên từ cái nồi nàng đang khuấy và mỉm cười với Gytha khi bà bước vào. Bà là người làm lớn tuổi nhất của ngài Lascey. Đủ già để có thể làm mẹ của Emma. Bà thậm chí còn khiến nàng nhớ đến Phu nhân Kenwick đã quá cố nữa. Đó là khi bà mỉm cười nhẹ nhàng và lặng lẽ dỗ dành Emma bình tĩnh lúc nàng bị quấn chặt với các cây kim ghim đầy xung quanh hay phải chui vào và thử hết cái váy này đến cái váy khác lên người trong những buổi thử đồ. Emma thích bà, và nàng không phải là người duy nhất, Sebert cũng thích bà, đấy mới là điều đáng kể.

Ngài Lascey và người của ông chỉ vừa mới ở đây có hơn 4 ngày, mà Gytha và ông quản gia của nàng đã không thể rời nhau nửa bước. Họ ngồi cạnh nhau trong các bữa ăn và cùng nhau biến mất sau bữa ăn tối, và Gytha thì luôn tìm ra được đủ mọi cái cớ hợp lý để đi xuống tầng dưới vào ban ngày với hy vọng có thể nhìn thấy hoặc được ở cùng Sebert một lúc. Emma đã vài lần đi ngang qua cặp tình nhân khi họ đang ôm quấn lấy nhau ở vài nơi trong lâu đài. Những người hầu phòng và những người làm trong bếp đã bắt đầu khúc khích cười bất cứ khi nào thấy cặp đôi này đi qua.

Emma cũng không chắc mình phải làm gì trong tình huống này. Nàng cảm thấy có chút ngạc nhiên khi ở vào tuổi này mà họ vẫn có thể tìm thấy sự thích thú, thưởng thức và cảm nhận sự thân mật với niềm đam mê cháy bỏng đến thế. Nàng cũng cảm thấy có chút chạnh lòng pha lẫn chút thú vị. Thêm vào đó, có một thực tế là nàng chưa từng thấy ông Sebert hạnh phúc đến thế trước đây, Emma cảm thấy có chút miễn cưỡng và bất đắc dĩ khi phải khiển trách họ bởi những hành vi quá lố đó, có lẽ vì vậy mà nàng đã chọn cách giả lơ đi, không trách móc gì cho đến giờ. Nhưng chuyện này không thể cứ tiếp tục mãi như thế được. Cần phải làm điều gì đó để dừng nó lại. Nàng chỉ thấy sợ sẽ có chuyện xảy ra. Emma không hy vọng rằng nàng có thể thuyết phục được Gytha ở lại, vì vậy nàng rất lo ngại rằng khi Gytha trở về London cùng với ngài Lascey khi ông rời đi, thì ông quản gia tốt nhất của nàng cũng có thể sẽ chọn đi theo bà ấy. Đó không phải là loại rắc rối mà Emma muốn muốn giải quyết thời điểm này. Dường như đã có quá nhiều rắc rối và náo động xảy ra ở lâu đài Eberhart trong thời gian này rồi.

Thật ra là kể từ sau đám cưới nàng, nàng nghĩ. Rồi nàng tự nhủ. Không, mọi chuyện có lẽ đã bắt đầu từ trước đó rồi. Từ sau cái chết của chồng nàng? Hay có lẽ là từ sau buổi triệu kiến trong triều?

“Công tước khó ở sao, thưa phu nhân?”

Emma ngước lên, đỏ mặt khi Gytha bước đến cạnh nàng, liếc nhìn cái ấm đầy vẻ tò mò. “Kh-không,” Emma trả lời. Giọng nàng bỗng dưng trở nên lắp bắp khó khăn. Hắng giọng, nàng cố nặn ra một nụ cười và lắc mạnh đầu. “Không, anh ấy khỏe mà.”

“Vậy sao tối nào phu nhân cũng phải chế rượu thuốc cho ngài?”

“Ta… Đây là loại nước giải khát mới mà ta đang thử nghiệm,” Emma nói dối, tránh nhìn vào bà.

Gytha khẽ nhíu mày. “Nhưng chẳng phải đây là tóc tiên và-“

“Bà biết nhiều về thảo dược nhỉ,” Emma ngắt lời, tha thiết muốn đổi chủ đề.

“Phải. Mẹ tôi đã dạy tôi.” Gytha quay sang nhìn đống thảo mộc còn đang nằm trên bàn bếp. Lướt tay lật nhẹ các bó lớn trong số chúng, bà sững lại vì ngạc nhiên, và bà ngắt một chiếc lá ra ngắm nghía nó một cách chăm chú, cẩn thận. “Chẳng phải đây chính là damiana sao?”

“Đó là một lại thảo dược phổ biến mà.” Emma nghe thấy sự phòng thủ trong giọng nói chính mình rồi nháy mắt. “Nó giữ cho cơ thể điều độ đó mà.”

Gytha khẽ nhướng mày, miệng bà há ra vì ngạc nhiên rồi bà đặt chiếc lá xuống, “Ồ phải, nó sẽ giúp cho cơ thể thường xuyên ở trạng thái khỏe vừa đủ.”

Emma đỏ mặt vì câu nói đầy ẩn ý của Gytha, nhưng nàng đã được giải thoát khỏi tình huống này khi cánh cửa phía sau nàng bật mở, và Sebert bước vào phòng, mỉm cười dịu dàng với Gytha. “Con công Pháp đang cáu nhặng cả lên vì bà vắng mặt lâu quá đấy, Gytha. Có lẽ bà nên-“

“Ồ vâng.” Gytha thở dài đi về phía cửa, vẻ cau có được thay bằng một nụ cười gợi ý. “Ngài sẽ quay lại đó cùng tôi chứ?”

Mắt Emma mở to vì ngạc nhiên với hàm ý của bà, rồi còn mở to mắt hơn khi thấy lão Sebert đỏ mặt, nuốt ực xuống, rồi cũng gật đầu đồng tình với gợi ý đó.

“Ôi Chúa ơi,” nàng lắc đầu than thầm. Nàng sẽ phải làm cái gì đó với Gytha và Sebert sớm thôi. Rất sớm, nàng khô khan nghĩ, quay trở lại với cái nồi thuốc đang khuấy dở. Đây là liều damiana khác. Có vẻ như nàng sẽ phải sắc một liều damiana mới mỗi ngày. Vì trước đó nàng đã cho quá nhiều vào rượu của chàng. Emma đã mong có thể giảm bớt liều đi sớm hơn, nhưng sau khi chàng đã đe dọa nàng lúc chiều thì…

Nàng thật tâm không tin rằng chàng sẽ từ chối lên giường với nàng. Chàng có vẻ rất thích mà. Ngoài ra, nàng không biết chắc vì sao chiều nay chàng lại điên tiết như thế. Nên nàng vẫn phải cẩn trọng. Thay vì giảm liều lượng damiana vào cốc chàng, nàng chủ định tăng gấp đôi. Và cũng sẽ không trộn thêm với các loại cỏ khác nữa. Nàng phải chọn lọc, không thì chẳng còn chỗ trong cốc của chàng nữa. Như vậy thì an toàn hơn… phòng trường hợp chàng làm đúng như những gì đã dọa nàng.

Emma mở mắt, thở dài liếc sang chỗ trống trên giường cạnh nàng. Có vẻ như Amaury nghiêm túc về chuyện không ngủ với nàng nữa. Chàng đã uống nhiều rượu trong bữa tối qua, và không ngừng uống cho đến khi gục xuống bàn, ngáy như kéo gỗ. Emma đã để mặc chàng ngủ ở đó mà bỏ về phòng ngủ của họ.

Mặc dù thực tế là nàng không chỉ tăng gấp đôi mà còn gấp bốn liều lượng damiana trong rượu chàng, chàng cũng vẫn không đến với nàng. Có thể tác dụng của thuốc bị giảm đi do cơ thể chàng đã được thích ứng với nó rồi. Hoặc có thể lượng rượu chàng uống đã làm mất đi tác dụng của damiana. Dù là vì lý do gì, thì cũng nó cũng không mang lại tác dụng, và nàng đã phải trằn trọc cả đêm dài, một mình trên giường. Cảm giác quen có người khác bên cạnh thật lạ. Thật mạnh, đến nỗi, nàng thấy nhớ sự có mặt của chàng khi vắng chàng.

Thở dài, cuối cùng nàng cũng ngồi dậy rời khỏi giường, thay trang phục, suy nghĩ về khả năng chồng nàng có thể có ý định từ chối ngủ với nàng thật. Đó là tình huống mà nàng chưa từng muốn nghĩ đến. Nó không chỉ là vì nàng muốn có con với chàng. Mà sự thật là, nàng nhớ chàng.

Amaury đã giữ lời hứa, chàng hỏi ý kiến nàng trong hầu hết mọi chuyện. Chàng cũng đã bắt đầu nói chuyện với nàng vào buổi tối, ôm nàng sau khi làm tình và bàn luận về những chuyện xảy ra trong ngày. Lúc đầu chàng còn có vẻ ngượng nghịu, nàng biết rõ chàng không thoải mái lắm khi làm như vậy. Nhưng chàng vẫn tiếp tục và dần dần đó là một kiểu như nghi thức hàng đêm của họ, và nó là một nghi thức mà nàng đã bỏ lỡ và rất nhớ nó đêm qua. Emma buộc phải tự thừa nhận như vậy khi ra khỏi phòng.

Đại Sảnh ồn ào sống động khi nàng bước xuống chân cầu thang và đi về phía những chiếc bàn lớn, nơi những người lính và người hầu đang ăn sáng. Ánh mắt nàng tìm kiếm và nhìn thấy Amaury đang ngồi như lún xuống trong chiếc ghế ở chỗ chàng vẫn thường ngồi. Chàng khó chịu cau có nhìn mọi người như thể bực bội khi thấy họ cười đùa. Rõ ràng là tâm trạng chàng chẳng hề khá hơn hôm qua chút nào.

Than thầm trong bụng, Emme cố vun vén một nụ cười rạng rỡ để chào chàng khi tiến lại gần, nhưng bước chân nàng khựng lại giữa phòng khi mắt nàng lia thấy lũ chó ở cạnh lò sưởi. Tò mò pha lẫn âu lo vẽ nên một đường nhăn nhẹ giữa trán nàng, nàng ngập ngừng, rồi bước chân hướng về phía chúng.

Mấy con chó cũng có thời gian biểu y như những người khác trong lâu đài. Ban ngày chúng chơi bời bên ngoài, chơi với bọn trẻ con hoặc theo mọi người đi săn nếu cần. Vào những ngày mưa, người ta nhìn thấy chúng nằm cuộn tròn trong bếp, theo chân những người nấu bếp với đôi mắt buồn bã, kêu rên ư ử để hy vọng được ném cho món gì đó. Tối đến chúng nằm trước lò sưởi ngủ, chỉ thức dậy vào lúc có người đầu tiên bước vào Đại Sảnh để ăn sáng. Rồi cả đàn lại dời đến những cái bàn, nằm đấy mỗi bữa, táp từng miếng thức ăn từ trên bàn rơi xuống hoặc được quăng đến chỗ chúng.

Đáng lẽ ra đó phải là nơi chúng đang nằm bây giờ. Thế nhưng chúng dường như vẫn đang ngủ, Điều đó khiến mối bận tâm của Emma càng sâu sắc hơn khi nàng đến gần chúng. Không thể tin nổi là chúng lại có thể nằm ngủ trong tiếng ồn của những người đang chờ bữa ăn sắp được dọn ra. Trừ khi chúng bị ốm.

Từ giây phút Emma bước vào, Amaury đã cảm nhận được sự có mặt của nàng. Cảm giác râm ran bò từ lưng cho đến gáy chàng để thông báo. Chàng luôn có cảm giác đó mỗi khi nàng đến gần chàng, nhưng không thường từ sau lưng chàng. Hầu hết cảm giác xao xuyến đến từ phía trước, và thường là, thấp hơn. Khốn kiếp, sự có mặt của nàng là đủ để khiến cho mọi phần dưới cơ thể chàng phải rung động. Chỉ cần một nụ cười của nàng thôi là cũng để để chàng cứng lên như đá ở Stonehenge[1]. Vấn đề là chuyện đó làm trí óc chàng rối như tơ vò. Blake cũng đúng một phần nào đó. Amaury quả thật vô lý. Lúc đầu thì chàng thấy phiền vì vợ chàng thích chuyện giường chiếu; giờ chàng lại khó chịu vì nàng có vẻ chỉ thích ngủ với chàng để kiếm một đứa con. Cảm xúc chàng bộn bề ngay cả khi chàng không hiểu được mình. Thật rắc rối. Tâm trí chàng như đã thành một đống ngổn ngang như phân bò.

Vợ chàng có thể cũng chỉ bối rối với biểu hiện của chàng như Blake thôi. Không nghi ngờ gì, nàng cho rằng việc họ ân ái chỉ vì một mục đích duy nhất là có con, và điều đó hoàn toàn hợp tình hợp lý. Và đó, chính là mục đích của hôn nhân theo lời răn của Nhà thờ. Nhưng … chàng muốn nhiều hơn thế. Chàng không chỉ muốn là người đứng giữa nàng với Bertrand. Chàng muốn… của khỉ ạ, chàng không biết chính xác chàng muốn cái quái gì, và đó mới là vấn đề.

“Có thể cậu đã yêu nàng rồi cũng nên.” Từng từ Blake nói vang lên trong đầu chàng làm chàng rùng mình. Chàng ít khi có cảm xúc đó. Chàng gặp quá ít những cảm xúc như thế trong đời. Và, bỏ qua viêc chàng thiếu thốn những cảm xúc như thế trong quá khứ, thì giờ chàng cũng không thích việc phải chịu đựng nó như thế. Đặc biệt với người phụ nữ coi chàng chẳng hơn gì một con bò đực để cứu nàng khỏi gã Bertrand.

Nhíu mày, chàng liếc xuống thứ chất lỏng tối màu trong cốc. Tuy nhiên, bạn chàng đúng, Emma là một phụ nữ đặc biệt. Amaury đã từng thấy nhiều hành động của những người được coi là phu nhân quý tộc. Vợ của cha chàng là một ví dụ. Một phụ nữ đẹp, luôn có nụ cười thân thiện trên môi – miễn là có người nào đó quanh bà đủ xứng đáng, theo bà nghĩ, để nhìn thấy. Với những kẻ không xứng, như người hầu hay đứa con hoang của chồng, thì bà ta là một ả đản bà độc ác và nhẫn tâm.

Và những người phụ nữ khác trong triều, chàng cay độc nghĩ. Đối với chàng những người phụ nữ tranh nhau tìm kiếm một người chồng cũng như lũ đàn ông chiến đấu chống lại nhau ngoài chiến trường. Lạnh lùng, ác liệt, nhiều mưu mô và xảo quyệt.

Chàng không nhìn thấy chút gì như thế ở vợ mình. Người của nàng, từ người hầu cho đến lính, đều thật sự thích và tôn trọng nàng. Có thể nhìn rõ điều đó ở cái cách họ lập tức làm theo mệnh lệnh của nàng chỉ với những yêu cầu nhỏ nhẹ, thậm chí trung thành đến mức khiến cho tất cả những mảnh vải ở mọi nơi trong lâu đài đều được nhuộm đen theo ý nàng, kể cả quần áo của họ. Amaury đã từng hỏi quản gia, lão Sebert, vì sao họ lại mặc cái thứ đồ ảm đạm đến thế, lão chỉ đơn giản trả lời, “Phu nhân yêu cầu như vậy. Phu nhân đang để tang. Hoặc đã từng. Tôi đoán nó đã kết thúc khi phu nhân tái hôn.” Khi đã hiểu tính chất nghi thức của vấn đề, Amaury lại hỏi, “Và các người làm theo?”

“Vâng, thưa công tước.”

“Nhưng vì sao?”

“Vì sao ư?” Lão có vẻ bất ngờ trước câu hỏi đó. “Vì sao à, chỉ để làm phu nhân hài lòng thôi.”

Một câu trả lời đơn giản nhưng tự nó nói lên nhiều điều hơn thế. Để làm nàng vui. Không phải vì sợ hãi. Không phải vì trách nhiệm. Thậm chí cũng không phải vì nàng là bà chủ, mà là để làm hài lòng nàng. Người của nàng làm việc chăm chỉ để làm nàng vừa lòng. Và đổi lại, nàng chu đáo với họ. Quan tâm đến sức khỏe của họ, chăm chút cho bữa ăn của họ, lắng nghe đến những yêu cầu của họ. Nàng thậm chí còn chăm sóc cho lính của chàng, chăm sóc cho vết thương và sức khỏe của họ.

Tiếng kêu thảng thốt làm chàng phải liếc về phía lò sưởi. Vợ chàng đang quỳ bên hai con chó, mặt nàng đầy kinh hoàng. Nhíu mày, chàng đứng lên đi về phía nàng, rồi khựng lại khi George Nhỏ lao vào, chạy đến bên chàng.

“Một toán lính đang đến.”

“Chúng là ai?”

“Tôi không nhìn thấy biển hiệu. Chúng ở quá xa.”

Amaury nhíu mày. “Một đoàn quân à?”

“Không. Ít lắm.”

“Thế thì có thể Hầu tước Rolfe quay lại,” Amaury nhún vai đoán, rồi tiếp tục đi về phía vợ. “Chuyện gì thế, vợ?”

Emma ngồi bệt xuống gót chân, nhìn trống rỗng vào hai con vật đang nằm im thin thít. “Chúng chết rồi.”

“Chết!? Cả đàn chết?” Tiếng thét của chàng thu hút sự chú ý của những người còn lại trong Đại Sảnh, và nhiều người đã bắt đầu đi về phía lò sưởi.

Emma chỉ thở dài đáp lại giọng nói không tin nổi của chàng. Tự bản thân nàng cũng không thể tin, dù nàng đã sờ từng con một và cảm nhận sự lạnh lẽo của từng cơ thể im lìm dưới lớp lông của cả ba con chó. Chúng đã chết, chắc cũng phải vài giờ rồi. “Vâng, chồng à, cả ba con.”

“Có phải bệnh dịch không, thưa phu nhân?” Tiếng của Maude không hơn gì tiếng thì thầm khi bà quỳ xuống cạnh nàng, tự mình nhìn vào những con vật nằm đó.

“Không.” Emma khẳng định, liếc sang bà với vẻ quở trách. Chỉ ám chỉ đến từ “dịch bệnh” là cũng đủ để tạo nên sự hoảng hốt vào lúc này. Quay đi, nàng nâng đầu một con vật đáng thương lên trong tay nàng để kiểm tra mắt và miệng nó, trán nàng cau lại.

“Đó chẳng phải là những nốt phát ban sao?” Maude nói.

“Không!” Nàng quát lại khi tiếng lầm rầm sợ hãi bắt đầu lan ra từ đám đông trong sảnh và mọi người bắt đầu bước lùi lại. “Chúng bị trúng độc.”

“Trúng độc ư!” Người hầu gái thốt lên kinh ngạc, mắt ngờ vực.

“Trúng độc?” Amaury nhìn đàn chó. Chúng chỉ ăn đồ ăn được vứt xuống từ bàn ăn, hoặc những mẩu ăn thừa sau bữa ăn tối hôm trước. Không ai bị làm sao cả. Ngoài ra, chỉ có một bát nước lớn để ngoài cửa bếp mỗi sáng cho chúng uống thôi. Mắt chàng chầm chậm quay lại chiếc bát.

“Vâng, chúng bị độc.” Emma đứng dậy quay về phía chàng.

“Nàng đã giết chúng!” Lời buộc tội bùng lên giữa căn phòng im lặng, gần như làm Emma quỵ ngã vì bất ngờ.

“Sao cơ?” nàng thì thầm hỏi trong kinh ngạc.

“Nàng đã giết chúng. Đầu độc chúng với mấy loại thảo dược của nàng.”

Nàng sững lại căm phẫn. “Chàng điên sao? Tại sao em lại phải đầu độc chúng chứ?”

Mắt chàng rớt xuống đàn chó tội nghiệp. “Là ta.”

“Gì cơ?”

“Vì ta. Nàng đang cố đầu độc ta!” chàng thốt lên ngay khi nhận ra điều đó.

“Thưa đức ông,” giọng Emma đầy phẫn nộ khi bước về phía chàng.

“Không!” Chàng bước lùi lại, giơ hai tay chàng lên như thể tránh chạm vào một mụ già xấu xí. “Nàng có bỏ thuốc vào đồ uống của ta bữa tối qua không?”

Khi nàng chỉ im lặng nhìn chàng, Amaury bước đến nắm lấy cánh tay nàng mà lắc. “Có hay không?!”

“Có!” nàng bật lại, và chàng buông nàng ra ngay lập tức, gần như quẳng nàng ra.

“Ta đã đổ cốc của ta vào cái bát nàng để dành cho đàn chó tối qua. Và giờ, chúng chết… vì bị đầu độc. Đó là chất độc có trong cốc của ta.”

Ngay cả Emma cũng nín lặng trước lời chỉ trích đó. Cả sảnh gần như nín thở chờ nàng đáp lại, nhưng trước khi nàng có thể cất lời, Alden đã chạy tới bên nàng.

“Có thể đó là một tai nạn,” cận vệ của Amaury gợi ý để bảo vệ nàng. “Có vẻ là như thế, thưa Công tước, thảo dược nhìn khá giống nhau. Tôi cũng không thể phân biệt nổi chúng. Có thể…” Cậu ta ngừng lại, tìm ra cách nào đó mà phu nhân yêu quý của cậu có thể vô tình gần như giết chết chồng mình.

Emma những muốn bạt tai cậu ta. Việc chàng trai cố tìm một cái cớ để bảo vệ nàng nói lên thực tế là chính cậu bé cũng tin thuốc của nàng chính là nguyên nhân dẫn đến sự đầu độc. Nàng liếc khắp phòng chỉ để thấy sự bối rối hiện lên trên những khuôn mặt của họ. Emma cảm thấy như nàng bị thụi vào bụng.

“Ta không nhầm lẫn gì cả, và ta, không đầu độc chồng ta!” nàng điên tiết gào lên.

Sự hoảng hốt hiện lên trên khuôn mặt của mọi người trước sự thể hiện không ra dáng quý bà chút nào, nhưng Emma không thèm quan tâm đến ý kiến của họ lúc này. Họ đều nghĩ nàng như kẻ sát nhân, vì Chúa! Ngay cả người của nàng cũng nhìn có vẻ băn khoăn. Phát ngấy lên với tất cả bọn họ, nàng quay bước đi, nhưng Amaury đã nắm lấy cánh tay nàng, làm nàng bị khựng lại.

“Nàng sẽ không thể chỉ đơn giản mà bỏ đi như thế được, vợ.”

Emma nhìn thẳng vào bàn tay đang nắm cánh tay nàng, rồi lạnh lẽo nhìn lên khuôn mặt giận dữ của chàng. “Chồng à?”

Nàng gọi quá ngọt ngào và hoàn toàn tương phản với sự căm phẫn lạnh lẽo trên khuôn mặt nàng đến nỗi mắt chàng nheo lại thận trọng, “Sao vợ?”

“Câm miệng lại đi!” Cả căn phòng thốt lên khi nàng gầm lên. Lạnh lùng liếc nhìn đầy thỏa mãn sang họ, Emma vùng tay ra và bước lên cầu thang. Nàng không có ý định đứng đó mà nghe những lời tồi tệ đó. Sau đó thì họ có thể còn gọi nàng là mụ phù thủy rồi chuẩn bị lập giàn mà thiêu nàng.

Amaury sững sờ nhìn theo sau lưng vợ, rồi quay sang bạn mình. “Cô ta vừa nói gì với tớ?”

“Tớ tin là nàng nói cậu câm mõm lại.”

“Phải.” Amaury gật, mắt chàng nheo lại thành hai đường thẳng. “Cô ta đã nói thế.”

Chàng bắt đầu bước theo nàng với vẻ chết chóc trong mắt chàng, nhưng Blake lập tức túm lưng chàng lại. “Không, anh bạn. Để nàng đi. Nàng đang giận dữ và -“

“Cô ta đang giận dữ ư!?” Amaury gầm lên, quay lại. “Vợ tớ mới nói tớ tự treo mõm lên đi! Nói những từ hạ cấp đến thế. Cô ta không phải là một quý bà đâu, Blake. Tớ cho cậu biết, cô ta không đáng là một mệnh phụ! Tớ đã nghi ngờ chuyện đó khi cô ta thích thú chuyện gối chăn, nhưng giờ, tớ chắc đấy. Không quý bà nào sử dụng thứ ngôn ngữ thô tục đó. Hay thích thú với chuyện vợ chồng. Và chắc rằng cũng không ai đi đầu độc chồng mình!” chàng thét vào cái lưng của Emma, rồi quay về phía lính của mình. “Khốn kiếp, các người đang để kẻ định giết ta chạy đi à?! Ngăn ả lại!”

“Thôi nào Amaury, chúng ta phải nghĩ cho thấu đáo,” Blake cảnh cáo.

“Còn gì để mà nghĩ nữa? Còn chưa đủ tệ sao, tớ bị bọn cướp và lũ giết thuê cố thực hiện âm mưu đó, nhưng giờ, là vợ tớ cố giết tớ!” Chàng gào lên câu cuối cùng về phía nàng. “Thật không nghi ngờ gì là Fulk đã tự giết mình!”

Emma khựng người lại như đóng băng và nàng định quay lại để sạc cho chàng một trận thì bị phân tâm khi bốn người lính vội vã lao về phía nàng. Mắt nàng mở to hoảng hốt khi bắt đầu nhận ra tình thế gay go của mình. Điều đang xảy ra còn vượt quá sự lăng mạ đối với nàng. Nàng đã cho chồng nàng uống những thứ thảo dược đáng nguyền rủa đó, như mọi người đều có vẻ đã biết. Chàng đã đổ rượu của chàng vào cốc của lũ chó vào tối qua, và giờ, sáng nay, chúng đều chết… vì thuốc độc. Đó là bằng chứng. Bằng chứng của sự mưu sát. Một tội ác có thể phải chịu án tử hình.

Cửa lâu đài bật mở làm mọi người ngạc nhiên. Sự ngạc nhiên đó còn lớn hơn khi Hầu tước Bertrand bước vào. Emma chắc đã thốt ra tiếng gì ngạc nhiên, vì mắt gã lập tức bay về phía nơi nàng đứng, rồi mỉm cười rạng rỡ đến gần như làm nàng lóa mắt.

“Phu nhân Emmalene, ta đã đến ngay khi biết tin!” Vội vã đến cạnh nàng, chàng vươn tới tay nàng.

“Tin gì cơ?” nàng hỏi, căng thẳng bước lùi lại. Tia nhìn nàng lia đến những người lẽ ra đến bắt giữ nàng, để thấy họ đã đứng lại và trông có vẻ ngập ngừng không biết có phải bắt giam nàng nữa không. Mắt nàng lập tức quay về phía Bertrand khi gã nồng nhiệt cầm tay nàng trong cả hai tay gã và siết nhẹ. Sự bối rối lập tức dấy lên sự ngờ vực trong nàng. Cách cư xử và chào hỏi của gã đều có gì đó không đúng. Gã không nên tỏ ra vui đến thế khi gặp nàng. Nàng đã lại cưới một người khác, cản trở kế hoạch của gã. Nếu gã không giận dữ đến thế vào lần cuối đến đây thì nàng đã không nghi ngờ sự chào hỏi nồng nhiệt đến thế bây giờ.

Và sự nồng nhiệt cũng ngay lập tức trở nên đúng nghĩa hơn, nàng ngờ vực nghĩ khi gã kéo người nàng về phía mình.

“Bỏ tay ra khỏi vợ ta!”

Cả hai người họ đều giật mình khi nghe Amaury gầm vang như sấm. Emma thở ra nhẹ nhõm khi Bertrand thả nàng ra. Rồi nàng quay sang cau có với cách hành xử đồng bóng của chồng. Một khắc trước chàng còn đang kết tội giết người, và giờ chàng đang gắt gỏng đầy sở hữu với người khác vì đã chạm vào nàng.

Amaury cau có với phản ứng của nàng, rồi chuyển sự chú ý sang Bertrand.

Gã trông còn hơn cả giật mình, mà còn có vẻ ngỡ ngàng. Trông gã còn có vẻ phát ốm khi lẩm bẩm, “Nhưng ngươi lẽ ra đã -“

“Bertrand!”

Emma rúm người trước giọng nói cộc cằn cao vút ấy. Quay về phía cửa, nàng thấy một người phụ nữ đang đứng ở lối vào. Cao, gầy như xác chết, khuôn mặt rắn rỏi nhìn lại nàng lạnh lùng. Lần này Bertrand không đi một mình. Lại thêm một chuyện đáng buồn nữa, Emma nghĩ khi bắt gặp sự căm hận trong mắt Phu nhân Ascot.

Amaury chịu đựng cuộc chiến ý chí thầm lặng giữa vợ chàng và mẹ Bertrand lâu nhất có thể, rồi nôn nóng lôi kéo sự chú ý của cả hai người phụ nữ về phía mình. “Ta cho rằng hai người đến đây hẳn có lý do chứ?”

Phu nhân Ascot nhướng một bên mày trước sự thô lỗ của chàng, nhưng Amaury không quan tâm. Chàng không có thời gian để làm vừa lòng mụ già với thằng con mè nheo của mụ. Chàng còn có ba con chó lăn đùng ra chết và một cô vợ để giải quyết.

“Chúng tôi đang trên đường vào triều và nghĩ rằng có thể dừng lại để gửi lời chúc mừng,” Phu nhân Ascot lên tiếng sau một lúc im lặng. Rồi gõ gậy xuống sàn, mụ giật giọng, “Đúng không, Bertrand?”

“Vâng.” Gã hắng giọng và bước đến gần mẹ với những bước đi rón rén hèn nhát. “Xin chúc mừng.”

Amaury nhíu mày nhìn cả hai người họ. Trông bọn họ đều giống như những con rắn, cả hai, trườn vào lâu đài của chàng và phì ra những lời dối trá đường mật từ cái lưỡi chẻ ra như móng xiếc. Chàng biết bọn họ đang chờ đợi ở bên kia nhánh sông, trên lãnh địa của Chester từ sau đám cưới của chàng. Người của Chesterford đã gửi tin cho chàng. Và Eberhart cũng không nằm ngoài lộ trình trên đường vào triều của bọn họ, nhưng nếu đúng là bọn họ đến đây để ăn mừng, thì điều đó có nghĩa là chàng hẳn phải là người có cùng số phận với người vợ đã chết của vua Richard. Chàng không hề bỏ lỡ một từ nào Bertreand đã nói khi bước vào. “Ta đã đến ngay khi nghe tin.” Tin gì, lời cầu nguyện? Về cái chết của đàn chó? Hay điều gì khác? Mắt chàng lia sang vợ khi chàng gói ghém kết nối mọi thứ trong đầu. Nàng vẫn đang nhìn hai người đang đứng bên cửa với sự nghi ngờ ghê tởm. Rồi nàng nhìn lại về hướng những con vật không may mắn nằm im lìm bên lò sưởi, rồi cuối cùng mới liếc sang chàng. Sự thấu hiểu lướt qua mặt nàng. Rồi môi nàng xoắn lại cay đắng. Amaury nao núng trước cái nhìn đó, cảm giác tội lỗi dâng đầy trong chàng, cái bóng ma ám ảnh đang bao trùm xung quanh xiết lấy và gây sức ép lên các bộ phận bên trong bộ phận cơ thể chàng cuối cùng đã được xóa bỏ.

“Chúng tôi sẽ không ở lại dùng trà đâu,” Phu nhân Ascot hung hăng thông báo, nhưng thể đã có ai mời bà ta vậy. “Chúng ta còn phải lên triều. Đi thôi, Bertrand.” Hống hách đi xuống bậc cửa, mụ đi ra khỏi pháo đài, khuất tầm mắt, gã con mụ lon ton chạy đuổi theo.

Amaury quay sang bốn người lính đã nghe lệnh đuổi theo vợ chàng, ra lệnh: “Đi theo chúng. Đảm bảo chúng đi khỏi lãnh địa của ta.”

Bốn người lính bước đi lập tức.

Chàng liếc về phía vợ chàng để thấy rằng nàng đã quay đi và bỏ chạy lên tầng.

“Có cần tôi đưa phu nhân trở lại không?”

Thở dài, Amaury lắc đầu với George Nhỏ, liếc lại về phía lưng vợ khi nàng leo đến bậc trên cùng và mất hút.

“Tớ cho rằng cậu đã quyết rằng vợ cậu không liên quan gì đến chất độc trong rượu của cậu?” Blake lẩm bẩm, nhẹ nhõm ra mặt.

Amaury liếc sang bạn, rồi bước về chiếc bàn đầu tiên, tư lự ngồi xuống ghế. Nâng cốc lên, chàng nhìn sang hai người đàn ông ngồi cùng. “Gần đây tớ toàn gặp vận rủi.”

“Phải,” Blake từ tốn đồng ý. “Tớ chưa từng để ý là cậu lại có thể đen đủi đến thế. Gần như chết ba lần chỉ trong vài tuần ngắn ngủi.”

“Ừm.” Amaury cau mày.

“Cậu nghĩ sao?”

“Tớ đang nghĩ, chuyện bọn cướp tấn công tớ thật lạ lùng. Theo như lính vũ trang của Emma đã nói, chúng chưa từng tấn công ai trước đó. Cướp bóc? Có. Nhưng không cố giết người. Chúng không đòi túi tiền của tớ. Vậy vì sao chúng lại tấn công tớ?”

“Có thể chúng sợ khi cậu thành chủ đất mới cậu sẽ đuổi chúng ra khỏi rừng,” George Nhỏ ồm ồm nói.

“Nhưng chính việc chúng tấn công mới làm tớ có quyết định đó, mà mọi chuyện đều bị ép xảy ra như thế bất chấp hậu quả.”

Blake gật. “Chúng có ý định giết cậu.”

“Phải, cũng như lũ lính đánh thuê.”

Lông mày của George Nhỏ nhướng lên. “Cậu không còn nghĩ lũ lính đánh thuê là do kẻ thù cũ của cậu cử đến nữa à?”

“Không.”

“Và cậu cũng không còn nghĩ vợ cậu đã cố đầu độc cậu?”

Chàng mệt mỏi lắc đầu và nói ra điều vừa lướt qua đầu chàng. “Nàng là người khẳng định đó là vụ đầu độc. Những người khác đều nghĩ chúng chết vì bệnh.”

Cả hai người đàn ông đều đồng tình với sự thật đó. Rồi Blake tỏ ra mất kiên nhẫn và khẽ nhíu mày. “Cậu có vẻ không hài lòng với phát hiện đó, anh bạn ạ.”

“Thật ra tớ không biết tớ có thích không nữa,” Amaury buồn bã thừa nhận. “Tớ mừng là vợ tớ không mong tớ chết… nhưng tớ không mong cái giá phải trả cho sự buộc tội sai lầm của mình.”

“Nàng sẽ tha thứ cho cậu thôi,” Blake đặt tay lên vai an ủi chàng. “Thực tế, tớ nghĩ nàng có tình cảm rất lớn với cậu.”

George Nhỏ gật đầu lia lịa bày tỏ sự đồng tình và Amaury ngồi thẳng lưng trên ghế. “Cậu cũng thấy thế à?” Vẻ hy vọng phai dần trên mặt chàng, thay bằng vẻ nhăn nhó khi nhớ đến vẻ mặt nàng vào lần cuối nàng nhìn chàng. Nàng không có vẻ gì có tình cảm với chàng hết.

“Cậu nghĩ rằng ba vụ vừa rồi có liên quan? Vụ cướp, vụ ám sát, và vụ đầu độc?” Blake kéo sự chú ý của chàng quay trở cuộc nói chuyện của họ.

“Bốn.”

“Bốn ư?”

“Phải. Đám cưới, hai vụ tấn công, một vụ đầu độc.” Chàng để vài khoảnh khắc trôi qua. “Những vụ tấn công không hề bắt đầu trước ngày cưới. Còn ai có lợi nếu tớ chết?”

Blake bặm môi quả quyết. “Bertrand.”

“Chính xác. Lời hắn nói với Emma khi mới bước vào làm tớ nghĩ ra.”

“Ta đến ngay khi biết tin?” George Nhỏ lẩm bẩm lại, rồi nhướng mày. “Hắn có ý gì?”

“Có vẻ như hắn ám chỉ là hắn nghe nói đến cái chết của ta.”

“Nhưng làm thế nào hắn biết? Cậu có chết đâu?”

“Phải, tất cả những gì hắn biết là tay sai của hắn đã bỏ thuốc độc và Amaury đã uống rượu tối qua. Trong trường hợp đó, sáng nay cậu ấy hẳn đã phải chết,” Blake giải thích khi bắt được hàm ý của Amaury. “Amaury đã cẩn thận không cho ai thấy cậu ta đổ đổ uống vào bát của lũ chó, cậu ấy không muốn làm tổn thương vợ mình.”

“Cậu nên bẩm báo lại cho đức vua. Ngài sẽ giải quyết chuyện Bertrand cho.”

Amaury lắc đầu. “Không có bằng chứng. Ngài không thể làm gì nếu thiếu bằng chứng.”

Blake gật đầu, rồi liếc lên ngạc nhiên khi Amaury đứng dậy. “Cậu đi đâu đấy?”

“Tớ phải nói chuyện với vợ mình.”

“Nhưng chúng ta phải nghĩ ra cần làm gì trước đã.”

“Tăng gấp đôi lính gác, để ý từng người ra vào, tìm xem có người lạ nào lảng vảng quanh đây không, hoặc ai đó đứng gần vợ tớ bên đám cốc, và kiểm tra xem còn thiếu ai.”

“Thiếu ư?” George Nhỏ nhướng mày.

“Ai đó đã bỏ thuốc độc vào cốc của tớ. Không phải ai cũng làm được điều đó. Phải là một người trong lâu đài. Nếu thế, chúng phải cử người đưa tin cho Bertrand báo đã làm xong việc để hắn đến đây sáng nay. Hy vọng chúng gặp nhau để nhận tin. Nếu không thì chúng ta có một-“

“Một kẻ phản bội?” Blake cắt ngang, chửi thề vì điều mình vừa nhận ra.

George Nhỏ nhăn mặt. “Nhưng nếu chúng từ lâu đài, chúng hẳn phải biết Phu nhân Emma vẫn cho cậu uống thuốc và hẳn phải biết phu nhân có thể bị buộc tội giết người.”

“Phải,” Amaury khô khan đồng tình. “Đủ để nghĩ rằng có người nào đó cũng không thích nàng ở đây, phải không?”

Cả hai người đàn ông có vẻ ngạc nhiên. Rồi George Nhỏ lẩm nhẩm, “Thế thì không thể là Bertrand được. Rõ ràng hắn muốn Emma là vợ hắn.”

“Phải, nhưng Phu nhân Ascot có thể không thích đâu.” Amaury chỉ ra.

“Có lẽ cậu đúng,” Blake đăm chiêu nói. “Phu nhân Ascot là con bò cái, và tớ không nghĩ Emma có thể chịu đựng chuyện đó. Nàng qua kiêu hãnh và tức giận để cho phép mình bị ngược đãi. Nhìn cái cách nàng chịu đựng sự thờ ơ của Fulk xem. Nàng chỉ chịu đựng đủ lâu để tâu lên đức vua. Không, Phu nhân Ascot chắc chắn không muốn có nàng bên cạnh đâu.”

Amaury gật đầu đồng ý, nhưng chàng chỉ tập trung vào một câu thôi. Nàng quá kiêu hãnh và giận dữ để cho phép mình bị ngược đãi. Phải, nàng đúng là như vậy, và chàng vô cùng lo lắng sợ hãi vì mình đã đánh thức cả hai điều đó trong nàng - khi đã lăng mạ nàng với những lời buộc tội ngu ngốc của mình.

[1] Stonehenge: Stonehenge là một công trình tượng đài cự thạch thời kỳ đồ đá mới và thời kỳ đồ đồng gần Amesbury ở Anh, thuộc hạt Wiltshire, 13 km về phía bắc Salisbury. Công trình này bao gồm các công sự bằng đất bao quanh một vòng đá, là một trong những địa điểm tiền sử nổi tiếng thế giới. Các nhà khảo cổ cho rằng các cột đá này được dựng lên từ khoảng 2500-2000 trước Công nguyên dù các vòng đất xung quanh được xây dựng sớm hơn, khoảng 3100 năm trước Công nguyên. Khu vực này và khu vực xung quanh đã được UNESCO công nhận là Di sản thế giới năm 1986.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.