Một Phát Một Mạng

Chương 7




Reacher thuê phòng ở một khách sạn trong khu thương mại tên là Metropole Palace, nằm cách đường số Một hai khối phố về phía Đông, gần như cao ngang khu phố mua sắm chính. Ông trả bằng tiền mặt cho một đêm dưới tên Jimmy Reese. Ông đã điểm tên hết các đời tổng thống và phó tổng thống từ lâu, và giờ thì đến tên của các cầu thủ giữ chốt hai trong những năm không đoạt chức vô địch của đội Yankees. Jimmy Reese đã chơi khá tốt suốt mùa bóng năm 1930 và rất tệ suốt mùa bóng năm 1931. Ông xuất hiện từ chốn vô danh và tiếp tục chơi cho St.Louis trong mùa bóng năm 1932. Rồi ông nghỉ chơi. Ông qua đời ở California năm chín mươi ba tuổi. Nhưng giờ đây ông đã trở lại, trong một phòng đơn có nhà tắm trong Metropole Palace, chỉ một đêm thôi, và phải trả phòng trước mười một giờ sáng hôm sau.

Khách sạn Metropole Palace là một nơi buồn bã, cũ kỹ, phân nửa số phòng không có khách. Nhưng nó đã từng có một thời oanh liệt. Reacher có thể nhận thấy điều đó. Ông có thể hình dung ra những thương gia buôn ngô một trăm năm trước đi lên đồi từ cầu tàu dưới bến sông và ngụ lại ở đây. Ông đoán rằng khách sảnh từng có thời mang dáng vẻ một quán rượu miền Tây, nhưng giờ đây nó đã được làm lại qua loa với chút phong cách hiện đại. Có một thang máy được tân trang lại. Các căn phòng dùng thẻ quét thay vì chìa khóa. Nhưng ông đoán rằng bản thân tòa nhà không thay đổi gì mấy. Căn phòng của ông lỗi thời và ảm đạm thấy rõ. Tấm nệm cho cảm giác như nó thuộc về trang bị từ thuở khách sạn mới đi vào hoạt động.”

Ông ngả người trên nệm và vòng tay gối sau đầu. Nghĩ lại thời gian hơn mười bốn năm trước ở Kuwait City. Tất cả các thành phố đều có màu sắc riêng, và Kuwait City là màu trắng. Vôi vữa màu trắng, bê tông sơn trắng, đá hoa cương trắng. Bầu trời trắng lóa vì mặt trời thiêu đốt. Đàn ông mặc áo thụng màu trắng. Bãi đậu xe mà James Barr sử dụng là màu trắng, và tòa chung cư đối diện cũng màu trắng. Vì ánh nắng chói nên bốn người bị giết đều mang kính râm. Cả bốn người đều bị bắn trúng đầu, nhưng kính râm của họ không bị vỡ. Chúng chỉ rơi ra. Tất cả bốn viên đạn đều được tìm thấy, và chính chúng đã giúp phá vụ án. Chúng là loại đạn 168 grain bọc đồng đuôi thuôn dùng trong thi đấu. Không phải loại đầu lõm [14], theo hiệp ước Geneva quy định. Đây là đạn của lính bắn tỉa Hoa Kỳ, hoặc bộ binh hoặc thủy quân lục chiến. Nếu Barr đã sử dụng súng trận, súng tiểu liên hay súng lục thì chắc Reacher không thể mò ra hắn. Trừ súng bắn tỉa ra, mọi loại vũ khí trong chiến trường đều dùng đạn theo tiêu chuẩn của NATO, điều đó khiến phải giăng tấm lưới quá sức rộng, bởi vì hầu như toàn bộ NATO đang hiện diện ở đây. Nhưng toàn bộ mục đích của Barr chỉ là dùng cây súng chuyên biệt của mình, chỉ một lần thôi, nhắm vào bia sống. Và do làm như thế, những viên đạn giá mười ba xu của hắn đã đóng đinh hắn.

[14]: Đạn đầu lõm bị cấm sử dụng trong chiến tranh, theo Điều 3 Hiệp ước Hague năm 1899. Người ta thường nhầm lẫn quy định này xuất hiện trong các hiệp ước Geneva.

Nhưng đó quả là một vụ thật gay go. Có lẽ là vụ chiến nhất của Reacher. Ông đã sử dụng lôgic, suy luận, hồ sơ, tiểu xảo, trực giác, và sau cùng là phương pháp loại trừ. Ở cuối đường mòn hiện ra James Barr, kẻ sau cùng đã thấy được đám mù sương màu hồng của máu phun ra và bình thản một cách kỳ dị khi bị bắt.

Hắn đã thú tội.

Hắn thú tội một cách tự nguyện, nhanh gọn, và hoàn chỉnh. Reacher không phải đụng tay đến gã. Barr nói khá thoải mái về chuyện đã xảy ra. Rồi hắn đặt câu hỏi về tiến trình điều tra, như thể nó hắn vô cùng thích thú. Rõ ràng là hắn không cho rằng mình sẽ bị bắt. Không đời nào. Hắn vừa buồn bực vừa khâm phục. Thậm chí hắn còn hơi hơi tỏ vẻ cảm thông khi cuối cùng những bẩn thỉu về chính trị đã thả cho hắn thoát. Như thể hắn rất tiếc cho những nỗ lực tuyệt hảo của Reacher đã trở nên vô ích.

Mười bốn năm sau, hắn không thú tội.

Còn có một sự khác biệt nữa giữa lần này và lần trước. Nhưng Reacher chưa thể nắm được nó. Một điều gì đó liên quan với việc ở KuwaitCity nóng như thế nào.

Grigor Linsky dùng điện thoại di động gọi cho The Zec. The Zec là chủ của hắn. Không chỉ là Zec. Mà làThe Zec. Đó là vấn đề lòng tôn kính. The Zec tám mươi tuổi, nhưng vẫn sẵn sàng bẻ gãy tay kẻ nào lão ta ngửi thấy mùi vô lễ. Lão như một con trâu già. Lão vẫn giữ được sức mạnh và phong thái của mình. Lão ta sống đến tám mươi tuổi bởi có sức mạnh và phong thái đó. Không có chúng thì chắc lão ta đã chết ở tuổi hai mươi, khi lão phát điên và tên thật của lão cuối cùng đã trượt ra khỏi trí nhớ.

Linsky nói, “Con luật sư trở về văn phòng. Reacher rẽ khỏi đường số Một về hướng Đông. Em ém lại, không theo hắn. Nhưng hắn bỏ qua trạm xe buýt. Do đó chúng ta có thể cho rằng hắn ở lại thành phố. Em đoán là hắn thuê phòng ở khách sạn Metropole Palace. Ngoài nó ra, hướng đó không còn gì khác cả.”

The Zec không trả lời.

Linsky hỏi, “Chúng ta có làm gì không?”

“Hắn ở đây bao lâu?”

“Điều đó còn tùy. Rõ ràng là hắn đang theo đuổi một sứ mệnh cứu rỗi.”

The Zec không nói gì.

Linsky hỏi lại lần nữa, “Chúng ta nên làm gì không?”

Im lặng. Tiếng nhiễu sóng điện thoại, và tiếng lão già thở.

The Zec nói, “Có lẽ chúng ta nên đánh lạc hướng hắn. Hay làm cho hắn nản lòng. Tin báo rằng hắn từng là lính. Như thế hắn chắc vẫn duy trì một số thói quen dễ dự đoán. Nếu hắn ở Metropole, hắn sẽ không ở trong phòng tối nay. Không phải chỗ đó. Chẳng có gì cho một tay lính giải trí cả. Hắn sẽ đi ra ngoài đâu đó. Hẳn là một mình. Vậy có thể có một sự cố. Huy động trí tưởng tượng của mày đi. Hãy biến nó thành một màn kịch tưng bừng. Đừng dùng lính của mình. Và nhớ làm cho nó có vẻ tự nhiên.”

“Chơi nó tới cỡ nào?”

“Gãy vài cái xương, ít nhất là vậy. Có thể cho hắn dính một cú chấn thương ở đầu. Có thể cho hắn vào nằm trong khu hôn mê sâu với bạn hiền James Barr của hắn.”

“Còn con luật sư thì sao?”

“Để nó đó đã. Tạm thời như vậy. Chúng ta sẽ khui cái lon giun đó sau này. Nếu cần thiết.”

Helen ngồi ở bàn suốt một giờ. Cô nhận ba cú điện thoại. Cú thứ nhất của Franklin. Ông đang kiếm cách chuồn.

Ông nói, “Tôi rất tiếc, nhưng mà cô sẽ thua cuộc thôi. Còn tôi thì phải kiếm ăn. Tôi không thể mất thêm hàng lố thời gian mà chẳng được xu nào cho vụ này nữa.”

“Chẳng ai thích những vụ vô vọng cả.” Helen nói mềm mỏng. Cô sẽ còn cần đến ông ta trong tương lai. Cố dồn ông ta đến chân tường sẽ chẳng ích gì.

Franklin nói, “Những vụ án từ thiện vô vọng thì không.”

“Nếu tôi kiếm được một chỗ chi tiền, ông sẽ trở lại làm chứ?”

Franklin đáp, “Chắc chắn. Cứ gọi cho tôi.”

Rồi họ cúp máy, mọi phép tắc vẫn được tuân theo, quan hệ vẫn được bảo tồn. Cú điện tiếp theo sau đến mười phút. Là cha cô, giọng ông đầy vẻ lo lắng.

Ông nói, “Lẽ ra con không nên nhận vụ này.”

Helen đáp, “Đâu có vẻ như con có cả tá lựa chọn đâu.”

“Đôi khi thua cũng là thắng, con hiểu ý của bố chứ?”

“Đôi khi thắng cũng là thắng nữa.”

“Không, thắng sẽ là thua. Con cần phải hiểu điều đó.”

Cô hỏi, “Có bao giờ bố chuẩn bị vụ án với tinh thần nhận thua chưa?”

Cha cô không trả lời. Rồi ông quay sang dò hỏi.

“Jack Reacher có tìm con chưa?” Ông hỏi, có nghĩa là: Bố có cần lo lắng không?

Cô trả lời, giữ giọng bình thản, “Ông ấy có tìm con.”

“Ông ấy có thú vị không?” Nghĩa là: Bố có cần lo sốt vó lên không?

“Quả thật về ông ấy có vài điều đáng suy nghĩ.”

“Chà, chúng ta nên bàn về nó chút nhỉ?” Nghĩa là:Nói cho bố đi, xin con.

“Chắc sẽ bàn sớm thôi. Khi đến lúc thích hợp.”

“Họ nói chuyện linh tinh thêm một phút và hẹn gặp nhau ăn tối”. Ông cố gắng lần cuối, Xin con, nói đi. Cô không nói. Rồi họ cúp máy. Helen mỉm cười. Cô đã không nói dối. Thậm chí cũng không dùng đến đòn gió. Nhưng cô cảm thấy mình đã vào cuộc. Luật pháp là một trò chơi, và như mọi trò chơi khác, nó bao hàm cả yếu tố tâm lý.

Cú điện thứ ba là của Rosemary Barr từ bệnh viện.

Cô nói, “James sắp tỉnh lại. Anh ấy ho vào ống thở. Anh ấy đang ra khỏi cơn hôn mê.”

“Anh ta đã nói được chưa?”

“Bác sĩ bảo ngày mai anh ấy sẽ nói được.”

“Liệu anh ta có nhớ được điều gì không?”

“Bác sĩ nói có thể lắm.”

Một giờ sau Reacher rời Metropole. Ông vẫn ở hướng Đông của đường số Một và đi về hướng Bắc, về phía những cửa hàng bình dân mà ông đã thấy gần tòa án. Ông cần mua áo quần. Thứ gì đó thuộc địa phương. Không nhất thiết phải là quần bò yếm, nhưng chắc chắn phải là một thứ gì đó quen mắt hơn là bộ đồ Miami mà ông đang mặc. Bởi ông nghĩ mình có thể đi Seattle sau đó. Để uống cà phê chơi. Và ông không không thể đi dạo quanh Seattle trong một chiếc áo màu vàng sáng được.

Ông tìm thấy một cửa tiệm và mua một chiếc quần mà cái nhãn gọi là màu nâu xám nhưng ông thì cho là màu nâu pha sắc xanh ôliu. Ông tìm được một chiếc áo sơ mi vải flannel gần như trùng màu. Và đồ lót. Và ông lại chơi sang thêm một đôi tất. Ông thay đồ trong phòng thay đồ và ném những đồ cũ vào thùng rác của cửa tiệm. Bốn chục đô, cho mớ đồ mà ông hy vọng rằng mặc được trong bốn ngày. Tiêu hoang quá, nhưng không phải mang theo túi xách thì mười đô mỗi ngày cũng đáng.

Ông rời tiệm và đi về hướng Tây, về phía mặt trời buổi chiều. So với thời tiết thì chiếc áo hơi dày quá, nhưng ông có thể điều hòa bằng cách xắn tay áo lên và mở thêm cúc nữa. Thế là ổn. Sẽ thích hợp với tiết trời Seattle.

Ông bước ra quảng trường và thấy đài phun nước đã khởi động lại. Hồ nước đang đầy lên, rất chậm. Bùn dưới đáy dày khoảng ba phân và khuấy thành những vòng tròn. Vài người đang đứng xem. Những người khác đang đi dạo. Nhưng không ai đi tắt ngang qua những vòng hoa tưởng niệm, nơi những nạn nhân của Barr đã chết. Có lẽ chẳng bao giờ có ai đi qua đó nữa. Thay vì vậy, mọi người theo lối đi vòng rất xa, ngang qua bảng hiệu NBC. Do bản năng, do tôn kính, do sợ hãi; Reacher không biết nữa.

Ông len lỏi giữa những bó hoa và ngồi lên bức tường thấp, tiếng đài phun nước đằng sau ông và bãi đậu xe trước mặt ông. Một bên vai được ánh nắng sưởi ấm và bên kia chìm trong bóng râm mát rượi. Ông có thể cảm thấy số cát còn lại dưới chân. Ông ngó về bên trái mình, nhìn ngắm cánh cửa tòa nhà Sở Đăng kiểm. Ngó về bên phải, theo dõi những chiếc xe chạy trên xa lộ. Chúng chạy theo đường lượn, tít trên cao, từng chiếc một, theo hàng một, trên làn đường hẹp. Không có nhiều xe lắm. Lưu lượng xe cộ không nhiều, dù dưới đường số Một đã bắt đầu ùn tắc lại trong giờ cao điểm ban chiều. Rồi ông lại ngó về bên trái, nhận ra Helen Rodin đang ngồi xuống cạnh mình. Cô thở không ra hơi.

Cô nói, “Tôi đã nhầm. Ông quả là một người khó tìm.”

Ông đáp, “Nhưng dù sao thì cô cũng thành công rồi đấy.”

“Chỉ vì tôi thấy ông qua cửa sổ. Tôi chạy một mạch xuống, hy vọng là ông chưa bỏ đi. Ấy là nửa giờ sau khi tôi gọi cho các khách sạn khắp thành phố và họ đều nói ông không thuê phòng của họ.”

“Các khách sạn càng không biết sẽ càng không thiệt hại gì.”

“James Barr sắp tỉnh dậy rồi. Có thể ngày mai anh ta sẽ trò chuyện được.”

“Mà cũng có thể không.”

“Ông biết nhiều về chấn thương ở đầu không?”

“Chỉ biết những cái do tôi gây ra thôi.”

“Tôi muốn nhờ ông làm một việc.”

Ông hỏi, “Việc gì?”

Cô đáp, “Ông có thể giúp tôi một việc quan trọng.”

“Thật ư?”

“Và ông có thể giúp chính mình.”

Ông không nói gì.

Cô nói, “Tôi muốn ông làm chuyên viên phân tích chứng cứ cho tôi.”

Cô đã có Franklin làm việc đó rồi.”

Cô lắc đầu, “Franklin quá thân với các ông bạn cũ trong sở cảnh sát. Ông ta sẽ không xem xét đủ kỹ. Ông ta sẽ không muốn tấn công vào họ.”

“Còn tôi thì sẽ muốn chăng? Tôi muốn hạ Barr, cô nhớ không?”

“Chính vậy. Chính vì thế ông sẽ làm điều đó. Ông muốn biết chắc rằng họ có một vụ án hoàn toàn chặt chẽ. Rồi sau đó ông có thể an lòng mà đi.”

“Nếu phát hiện ra lỗ hổng chẳng lẽ tôi lại nói với cô?”

“Tôi sẽ thấy nó trong mắt ông. Và tôi sẽ biết dựa trên những gì ông làm kế tiếp. Nếu ông đi, thì đây là một vụ chắc ăn. Nếu ông ở lại, hẳn nó vẫn còn sơ hở.”

“Franklin bỏ cuộc rồi, phải không?”

Cô im lặng rồi gật đầu. “Vụ này là một vụ thua chắc. Tôi đang làm không công. Bởi vì sẽ không có ai nhận làm. Nhưng Franklin còn phải sống nữa.”

“Thế nên ông ấy không làm chùa, nhưng tôi thì sẽ làm?”

“Ông cần phải làm điều này. Tôi nghĩ ông đã dự tính làm vậy nữa là khác. Đó là lý do vì sao ông đến gặp cha tôi trước. Ông ấy rất tự tin. Ông thấy được điều đó. Nhưng ông vẫn muốn xem qua hồ sơ. Ông là một điều tra viên cẩn trọng. Chính ông đã nói như vậy. Ông là một người cầu toàn. Ông muốn rời khỏi thành phố khi biết chắc mọi việc đã đâu vào đó, theo tiêu chí của riêng ông.”

Reacher không nói gì.

Cô nói, “Đây là cơ hội để ông có thể tìm hiểu kỹ càng. Điều này là bắt buộc theo hiến pháp. Họ buộc phải cho chúng ta xem mọi thứ. Bên biện hộ có quyền khám phá trọn vẹn.”

Reacher không nói gì.

Cô nói tiếp, “Ông không có chọn lựa nào khác. Nếu không, họ sẽ không cho ông biết gì cả. Họ không bày thông tin cho người lạ ngoài phố biết đâu.”

Tìm hiểu kỹ càng. An lòng mà đi. Không có lựa chọn.

Reacher nói, “OK.”

Cô chỉ tay, “Đi bốn khối phố về hướng Tây và một khối về hướng Nam. Sở cảnh sát ở ngay đó. Tôi sẽ lên lầu gọi điện cho Emerson.”

“Ngay bây giờ ư?”

“James Barr đang hồi tỉnh. Tôi cần dọn hết cái đống này đi thật sớm. Việc chính của tôi ngày mai là cố tìm một chuyên gia tâm lý sẵn lòng làm không công. Một thỏa thuận về y tế vẫn là tính toán có nhiều khả năng nhất của chúng ta.”

Reacher đi qua bốn khối phố về hướng Tây và một khối về hướng Nam. Như vậy là đi dưới xa lộ treo và đến một góc phố. Sở cảnh sát có nguyên cả khối phố. Tòa nhà của họ chiếm phần lớn khối phố, còn lại là một bãi đậu xe hình chữ L dành cho xe của họ. Có nhiều xe cảnh sát đậu chéo góc, và những xe thanh tra chìm, một chiếc xe của đội khám nghiệm hiện trường, và một chiếc xe tải của đội SWAT. Tòa nhà được xây bằng gạch men bóng màu nâu vàng. Nó có mái bằng với những ống dẫn của máy điều hòa không khí ở khắp nơi. Trên những cửa sổ đều có chấn song. Dây kẽm gai giăng khắp nơi bên ngoài.

Ông bước vào trong, đi theo chỉ dẫn và thấy Emerson đang chờ sau bàn. Reacher nhận ra ông ta từ bản tin ti vi sáng thứ Bảy. Hệt như vậy, màu da tái, lặng lẽ, thạo việc, không to con, cũng không nhỏ. Nhìn bên ngoài trông ông như thể đã là cảnh sát từ khi mới ra đời. Có lẽ ngay từ khi mới thụ thai. Nó hiện diện trong những lỗ chân lông của ông. Trong ADN của ông. Ông mặc quần vải xám và áo sơ mi ngắn tay màu trắng. Hở cổ. Không cà vạt. Một cái áo khoác bằng vải tuýt vắt ở lưng ghế. Gương mặt và thân thể ông trông hơi dị hình, như thể ông đã bị biến dạng đi bởi những áp lực liên tục.

Ông ta nói, “Chào mừng anh đến Indiana.”

Reacher không nói gì.

Emerson nói, “Tôi nói nghiêm túc đấy. Chúng tôi rất phấn chấn khi bạn cũ của bị cáo xuất hiện nhằm xé tan công việc của chúng tôi ra từng mảnh.”

Reacher đáp, “Tôi đến đây làm việc cho luật sư của hắn. Không phải như một người bạn.”

Emerson gật đầu.

Ông ta nói, “Tôi sẽ đích thân cho anh biết những thông tin cần thiết. Rồi nhân viên hiện trường của tôi sẽ chỉ anh xem từng chi tiết cụ thể. Anh hoàn toàn có thể xem và hỏi bất cứ điều gì anh muốn.”

Reacher mỉm cười. Chính ông đã từng làm công việc cảnh sát trong mười ba năm đằng đẵng, ở một khu vực gay go, và ông nắm rõ tất cả ngôn ngữ cũng như phương ngữ của nó. Ông hiểu cái giọng và những sắc thái. Và cách Emerson nói tiết lộ cho ông biết nhiều điều. Nó cho ông biết rằng bất kể thái độ chống đối ban đầu, thì đây là kẻ hài lòng thầm kín khi gặp một người phê phán. Vì ông ta biết rằng mình có một vụ án chắc ăn như bắp.

Emerson hỏi, “Anh biết James Barr rất rõ, theo như tôi hiểu?”

Reacher hỏi lại, “Còn ông thì sao?”

Emerson lắc đầu. “Chưa bao giờ gặp hắn. Không có dấu hiệu báo trước nào cả.”

“Súng của hắn có hợp pháp không?”

Emerson gật đầu, “Nó có đăng ký và không sửa chữa gì cả. Những khẩu súng khác của hắn cũng vậy.”

“Hắn có đi săn không?”

Emerson lại lắc đầu. “Hắn không phải là thành viên của Hiệp hội súng trường quốc gia, và hắn không thuộc vào một câu lạc bộ chơi súng nào cả. Chúng tôi chưa bao giờ thấy hắn trong khu vực săn. Hắn chưa bao giờ có rắc rối gì. Hắn chỉ là một công dân hạng ba. Hạng zero thì đúng hơn. Hoàn toàn không có dấu hiệu cảnh báo nào cả.”

“Anh có bao giờ gặp vụ việc như thế này chưa?”

“Quá nhiều lần rồi. Nếu anh tính luôn Washington, thì Indiana đứng thứ mười sáu trên năm mươi mốt tiểu bang tính theo tỷ lệ chết vì trọng án theo đầu người. Tệ hơn New York, tệ hơn cả California. Thành phố này không phải là tệ nhất tiểu bang, nhưng cũng không phải là tốt nhất. Thế nên chúng tôi đã gặp qua đủ thứ, có lúc có dấu hiệu báo trước, có lúc thì không, nhưng dù kiểu nào thì chúng tôi cũng biết việc mình đang làm.”

Reacher nói, “Tôi đã nói chuyện với Alex Rodin. Ông ấy rất ấn tượng.”

“Dĩ nhiên phải thế. Chúng tôi làm việc quá tốt. Gã bạn vàng của anh bị tóm cổ chỉ sáu giờ sau phát đạn đầu tiên. Đây là một vụ kiểu mẫu, từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc.”

“Không nghi ngờ gì cả à?”Nhưng điều đó chưa phải là vấn đề chính yếu.

“Như thế này nhé. Tôi viết báo cáo về nó vào sáng thứ Bảy và từ đó đến giờ tôi không nghĩ gì thêm. Nó đã kết thúc. Một vụ kết thúc gọn đẹp nhất mà tôi từng thấy, và tôi thấy nhiều lắm rồi.”

“Vậy tôi có xem xét lại thì có ý nghĩa gì đâu?”

“Hẳn là có chứ. Tôi có một tay nhân viên hiện trường tội ác khao khát được phô trương. Hắn là người giỏi, và hắn xứng đáng được múa may tí chút ngoài ánh sáng chứ.”

Emerson đưa Reacher đến phòng phân tích chứng cứ và giới thiệu ông là thám tử của luật sư, chứ không phải bạn của James Barr. Có lợi cho bầu không khí làm việc hơn chút ít. Rồi ông ta để Reacher ở lại đó. Taynhân viên hiện trường tội ác là một người bốn mươi tuổi, nghiêm nghị, tên là Bellantonio. Tên của ông ta văn vẻ hơn con người. Ông ta cao, da sậm, gầy, và hơi khòm. Trông ông làm nhân viên dịch vụ tang lễ cũng hợp. Và ông ta cho rằng James Barr sẽ nhận tội. Ông ta nghĩ mình sẽ chẳng có cơ hội trình diễn trước tòa. Điều đó quá hiển nhiên. Ông ta đã bày ra chuỗi chứng cứ theo một trình tự hợp lý trên những cái bàn dài trong nhà xe được niêm phong của sở cảnh sát, để biểu diễn trước mắt khách tham quan những gì ông không có dịp cho quan tòa chứng kiến.

Những cái bàn màu trắng có chân liền theo kiểu bàn căng tin, sắp kín quanh chu vi của gian nhà. Bên trên chúng là những thanh ván giấy bồi nối thành một đường ngang có ghim hàng trăm tờ giấy in. Những mảnh giấy được ép plastic và chúng miêu tả những món đồ đặt ngay bên dưới. Chiếc xe Dodge Caravan xanh be của James Barr nằm kẹt ngay giữa những chiếc bàn. Gian nhà sạch sẽ và được thắp bằng những ngọn đèn ống huỳnh quang sáng chói, giữa khung cảnh đó; chiếc minivan trông đồ sộ và xa lạ. Nó cũ và bẩn, nồng mùi xăng, dầu nhớt và cao su. Cánh cửa trượt sau xe để mở và Bellantonio đã lắp một ngọn đèn chiếu lên thảm xe.

Reacher nói, “Tất cả trông khá lắm.”

Bellantonio nói, “Đây là hiện trường tội ác tốt nhất mà tôi từng gặp.”

“Vậy thuyết minh cho tôi đi.”

Bellantonio bắt đầu với cái trụ chắn đường. Nó được đặt trên một vuông giấy dầu, trông to lớn, kỳ dị và khá lạc lõng. Reacher nhìn thấy bột lấy dấu tay trên nó, và đọc mảnh ghi chú bên trên. Barr đã cầm nó, điều đó là hẳn nhiên. Hắn đã nắm lấy nó bằng tay phải, gần cái chóp nhỏ. Không chỉ một lần. Có dấu ngón tay và dấu lòng bàn tay. Trùng khớp một cách tức cười. Số lượng những điểm khớp nhau thừa gấp nhiều lần so với mức cần thiết cho bất cứ một phiên tòa nào.

Tương tự với đồng xu lấy ra từ cột thu tiền, tương tự với vỏ đạn. Bellantonio cho Reacher xem những bức hình in bằng tia laser lấy ra từ cuốn băng video quay ở bãi đậu xe, chúng cho thấy chiếc minivan chạy vào ngay trước vụ việc và chạy ra ngay sau lúc đó. Ông cho Reacher xem bên trong của chiếc xe, xem những sợi vải của tấm thảm trải xe được thu nhặt từ nền bê tông thô, xem những sợi lông chó, xem sợi vải của quần jeans và của chiếc áo mưa. Xem một vuông thảm lấy từ nhà của Barr, và những sợi vải trùng với nó được tìm thấy ở hiện trường. Cho ông xem đôi giày ống, nói cho ông biết cao su kếp là phương tiện vận chuyển tốt nhất như thế nào. Cho ông xem những vụn cao su bé xíu được tìm thấy ở hiện trường lại trùng khớp với những chỗ mới xơ ra trên các mũi giày ra sao. Cho ông xem bụi xi măng được theo dấu dẫn về nhà của Barr và thu được từ nhà xe, và tầng hầm, bếp, phòng khách và phòng ngủ. Cho ông xem mẫu so sánh lấy được từ bãi đậu xe và bản báo cáo của phòng phân tích chứng minh chúng xuất phát từ cùng một nguồn.

Reacher đọc qua những bản chép các cú điện 911 và điện đàm giữa những xe tuần tra. Rồi ông xem qua bản phác thảo hiện trường tội ác. Cuộc rà soát đầu tiên của những cảnh sát viên, cuộc kiểm tra pháp lý do nhân viên của Bellantonio thực hiện, ý tưởng bất chợt về cột thu tiền của Emerson. Rồi ông đọc báo cáo về cuộc bắt giữ. Nó được in ra và ghim lên như mọi thứ khác. Sự bố trí của đội đặc nhiệm SWAT, nghi can đang ngủ, nhận diện từ ảnh bằng lái xe trong ví để trong túi quần. Những xét nghiệm y tế. Việc bắt giữ con chó do những nhân viên thú y K9 thực hiện. Áo quần trong tủ. Đôi giày. Những khẩu súng dưới tầng hầm. Ông đọc những lời khai của nhân chứng. Người lính Thủy quân lục chiến ở trạm tuyển quân nghe sáu phát súng. Công ty điện thoại di động cung cấp đoạn băng ghi âm. Có kèm theo đồ thị. Một vệt màu xám biểu trưng cho âm thanh, có sáu đỉnh nhọn. Từ trái qua phải, chúng được sắp xếp thành một mô hình trùng khớp với những gì Helen đã nghe như cô kể. Một, hai-ba, ngưng, bốn-năm-sáu. Trục dọc của biểu đồ biểu trưng cho âm lượng. Tiếng đạn nổ yếu ớt nhưng rất rõ trong băng ghi âm. Trục ngang biểu trưng cho thời gian. Sáu phát đạn trong chưa đến bốn giây. Bốn giây đã làm chao đảo cả một thành phố. Chao đảo một lúc, ít ra là vậy.

Reacher nhìn khẩu súng. Nó được cho vào một túi nhựa trong và khằn miệng lại. Ông đọc bản báo cáo ghim bên trên. Một khẩu Springfield M1A Super Match, ổ đạn mười viên, bốn viên đạn vẫn còn trong đó. Dấu tay của Barr đầy trên súng. Những vết xước trên báng súng trùng khớp với những mảnh vụn vec ni được tìm thấy ở hiện trường. Đầu đạn còn nguyên được tìm thấy trong cái hồ. Một bản phân tích đạn đạo so khớp viên đạn với nòng súng. Một bản báo cáo khác so khớp cái vỏ đạn với bộ phận đẩy. Ăn chắc. Kết thúc vụ án.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.