Một Phát Một Mạng

Chương 27




Bốn mươi tám giờ sau, lão đến một bệnh viện dã chiến và lần đầu làm quen với luật pháp quân đội Xô viết: khắc nghiệt, nặng nề, bám sát hệ tư tưởng, nhưng nghiêm khắc vận hành theo những luật lệ bí hiểm của nó. Vấn đề cần bàn cãi là do việc lão hơi quay người lại: có phải các vết thương của lão là do kẻ thù của Tổ Quốc gây ra hay không, hay là lão đã tháo lui về hướng súng của chính phe ta? Vì tình trạng nhập nhằng ấy, lão được bỏ qua án tử hình và thay thế bằng việc bị điều ra tiểu đoàn trừng giới. Từ đó khởi đầu một tiến trình sống sót kéo dài cho đến nay đã sáu mươi ba năm.

Một tiến trình mà lão quyết tâm tiếp tục.

Lão bấm số của Grigor Linsky.

Lão nói, “Chúng ta có thể tin rằng thằng lính đang tiết lộ. Điều gì hắn biết, giờ thì bọn chúng đều biết. Do đó, đã tới lúc chúng ta thực hiện cho mình một hợp đồng bảo hiểm.”

* * *

Franklin nói, “Chúng ta thật sự không có gì tiến triển cả. Phải không nào? Emerson sẽ không đời nào chấp nhận một chuyện gì cả, trừ phi chúng ta cung cấp cho hắn nhiều hơn những gì chúng ta có hiện nay.”

Reacher nói, “Vậy thì nghiên cứu cái danh sách nạn nhân đi.”

“Điều đó có thể kéo dài mãi mãi. Năm cuộc sống, năm tiểu sử đời người.”

“Vậy chúng ta hãy tập trung.”

“Tuyệt. Tuyệt lắm. Vậy hãy cho tôi biết anh muốn tôi tập trung vào ai đây.”

Reacher gật đầu. Nhớ lại mô tả của Helen Rodin về điều mà cô đã nghe được. Phát đầu tiên, rồi ngưng một tí, rồi hai phát kế tiếp. Rồi một khoảng ngừng khác, lâu hơn một chút, nhưng thật ra chỉ là một tích tắc, và rồi ba phát cuối cùng. Ông nhắm mắt lại. Trong tâm trí, ông hình dung ra cái biểu đồ âm thanh từ bộ phận ghi lời nhắn của chiếc điện thoại di động. Hình dung lại chính mình đã mô phỏng lại, trong ánh sáng tù mù của nhà đậu xe mới, cánh tay phải vươn ra như một khẩu súng: tạch, tạch-tạch, tạch-tạch-tạch.

Ông nói, “Không phải phát đầu tiên. Không phải phát đầu tiên khi súng còn lạnh. Không bảo đảm sẽ trúng vào bất cứ thứ gì với phát đó. Do đó, nạn nhân đầu tiên là vô nghĩa. Chỉ là góp phần ngụy trang. Cũng không phải là ba phát cuối. Đó là pằng-pằng-pằng. Phát bắn trượt có chủ ý, và ngụy trang thêm nữa. Lúc đó công việc đã hoàn tất rồi.”

“Vậy thì, phát thứ hai hay phát thứ ba. Hay cả hai phát luôn.”

Tạch, tạch-tạch.

Reacher mở mắt ra.

Ông nói, “Phát thứ ba. Ở đây có một nhịp điệu. Phát mở đầu thứ nhất, rồi phát bắt nhịp, và rồi phát ăn tiền. Mục tiêu. Rồi nghỉ. Mắt hắn đang dán vào sau ống ngắm. Hắn đang kiểm tra xem mục tiêu đã bị hạ chưa. Thấy rồi. Vậy thêm ba phát cuối.”

Helen hỏi, “Người thứ ba là ai?”

Franklin đáp, “Người phụ nữ.”

Linsky gọi cho Chenko, rồi Vladimir, và rồi Sokolov. Hắn giải thích nhiệm vụ và siết chặt lại hàng ngũ. Văn phòng của Franklin không có lối hậu. Chỉ có một cầu thang phô ra. Chiếc xe của mục tiêu ở ngay bên thềm kia. Dễ ợt.

Reacher nói, “Cho tôi biết về người phụ nữ đó.”

Franklin xóc lại mớ ghi chép. Sắp chúng theo một trật tự ưu tiên mới.

Ông nói, “Tên bà ta là Oline Archer, kiểu người Cáp-ca-dơ, có gia đình, không con, ba mươi bảy tuổi, sống ở một vùng ngoại ô về hướng Tây.”

Reacher nói, “Làm trong tòa nhà Sở Đăng kiểm. Nếu bà ta là mục tiêu xác định, thì Charlie phải biết bà ta ở đâu và khi nào bà sẽ đi ra.”

Franklin gật đầu. “Làm việc cho Sở Đăng kiểm. Đã được một năm rưỡi rồi.”

“Chính xác là làm về phần gì?”

“Quản trị văn phòng. Làm bất cứ việc gì mà họ làm ở trong đó.”

Ann Yanni hỏi, “Vậy thì chuyện này có dính líu đến công việc không?”

Franklin nói, “Do hồ sơ để quá lâu chưa xử lý à? Hình chân dung chụp xấu dán trên bằng lái xe chăng? Tôi ngờ quá. Tôi đã xem cơ sở dữ liệu của quốc gia. Thư ký của Sở Đăng kiểm không bị khách hàng giết bao giờ. Chuyện đó không xảy ra đâu.”

Helen Rodin hỏi, “Thế còn đời sống riêng của bà ta thì sao?”

Franklin đáp, “Không có điều gì làm tôi chú ý cả. Bà ta chỉ là một phụ nữ bình thường. Nhưng tôi sẽ tiếp tục nghiên cứu xem. Tôi sẽ đào sâu thêm một vài cấp độ. Phải có một điều gì ở đó.”

Rosemary Barr nói, “Hãy làm nhanh. Vì anh tôi. Chúng ta phải gỡ cho anh ấy ra.”

Ann Yanni nói, “Chúng ta cần có những ý kiến của y học về chuyện đó. Giờ thì cần những bác sĩ thông thường, không cần bác sĩ về tâm lý.”

Helen Rodin hỏi, “NBC có trả tiền cho việc này không?”

“Nếu nó có vẻ hiệu quả.”

Rosemary nói, “Nó phải có hiệu quả. Tôi muốn nói là, sao lại không? Chứng Parkinson là một điều có thật, phải không nào? Hoặc anh ấy bị, hoặc không bị.”

Reacher nói, “Nó có thể hiệu quả ở phiên tòa. Một lý do thuyết phục vì sao James Barr không thể thực hiện vụ này, cộng với một câu chuyện thuyết phục về một kẻ khác làm nó? Đó thường là cách người ta tạo nên một nghi vấn hợp lý.”

Franklin nói, “Thuyết phục là một từ rắc rối đấy. Và nghi vấn hợp lý là một khái niệm quá cầu may. Tốt hơn là làm cho Alex Rodin rút lời buộc tội đi hoàn toàn. Có nghĩa là thuyết phục Emerson trước.”

Reacher nói, “Trong hai người đó tôi không thể nói chuyện với ai cả.”

Helen nói, “Tôi có thể.”

Franklin nói, “Tôi cũng có thể.”

Ann Yanni nói, “Và tôi chắc chắn là mình có thể. Tất cả chúng ta đều có thể, ngoại trừ anh ra.”

Reacher nói, “Nhưng các anh chị có thể sẽ không muốn nói.”

Helen hỏi, “Vì sao lại không?”

“Cô sẽ không thích nghe câu này đâu.”

Helen hỏi lại, “Tại sao lại không?”

Reacher nói, “Thử nghĩ xem. Đi ngược lại nhé. Sự việc Sandy bị giết, và sự việc trong quán bar thể thao tối hôm thứ Hai, tại sao hai việc này xảy ra?”

“Để buộc tay ông lại. Để ngăn ông không làm hại đến vụ án.”

“Chính xác. Hai lần dụng công, cùng mục tiêu, cùng mục đích, cùng thủ phạm.”

“Rõ ràng là vậy.”

“Và vụ đêm thứ Hai khởi đầu với việc tôi bị theo dõi từ khách sạn của tôi. Sandy và Jeb Oliver và các chiến hữu của chúng chạy lòng vòng, trực chiến và chờ đợi, cho tới khi một kẻ nào đó gọi cho chúng thông báo tôi đang ở đâu. Cho nên nó khởi đầu với việc tôi bị theo dõi cho đến khách sạn. Cùng hôm đó nhưng từ trước.”

“Chúng ta đã duyệt qua tất cả chuyện này rồi.”

“Nhưng gã giật dây làm sao mà có được tên của tôi? Thậm chí, làm sao hắn biết được tôi đang có mặt trong thị trấn? Làm sao hắn biết rằng có một kẻ là mối rắc rối tiềm năng trong tương lai?”

“Ai đó cho hắn biết.”

“Ai biết, vào buổi sáng ngày thứ Hai?”

Helen ngưng một nhịp.

Cô nói, “Cha tôi. Từ sớm ngày thứ Hai. Và có lẽ Emerson nữa. Không lâu sau đó. Họ chắc sẽ trò chuyện về vụ án. Họ sẽ trao đổi ngay tức khắc nếu có khả năng các bánh xe trật khỏi đường.”

Reacher đáp, “Chính xác. Rồi một trong hai người đó gọi cho gã giật dây. Trước giờ ăn trưa ngày thứ Hai rất nhiều.”

Helen không nói gì.

Reacher nói, “Trừ phi một trong hai người đó chính là gã giật dây.”

“The Zec là gã giật dây. Chính ông nói như vậy mà.”

“Tôi nói hắn là sếp của Charlie. Chỉ vậy thôi. Chúng ta không có cách nào để biết hắn có thật sự là kẻ cao nhất trong bọn hay không.”

Helen nói, “Ông nói đúng. Tôi không thích kiểu nghĩ như thế này chút nào.”

Reacher nói, “Một kẻ nào đã gọi. Đó là điều chắc chắn. Hoặc là cha cô hoặc là Emerson. Tên tôi bị loan báo ra ngoài sau khi tôi xuống xe buýt hai giờ. Do đó một người trong bọn họ đã bị mua chuộc và người kia cũng không giúp chúng ta vì ông ta ưa vụ án theo đúng diễn biến hiện nay.”

Căn phòng im bặt.

Ann Yanni nói, “Tôi phải trở về làm việc rồi.”

Không ai lên tiếng.

Yanni nói, “Gọi cho tôi nếu có tin gì mới nhé.”

Căn phòng vẫn im lặng. Reacher không nói gì. Ann Yanni băng ngang căn phòng. Dừng lại bên ông.

Cô nói, “Chìa khóa.” Ông lục túi và đưa cho cô.

Ông nói, “Cám ơn đã cho tôi mượn xe. Xe đẹp lắm.”

Linsky nhìn chiếc Mustang chạy đi. Nó chạy hướng Bắc. Máy nổ lớn, ống khói xả lớn. Vang rền cả dãy phố. Rồi con đường im ắng trở lại. Linsky bấm điện thoại di động.

Hắn nói, “Con mụ tivi đi khỏi chỗ đó rồi.”

The Zec nói, “Tay thám tử tư sẽ ở lại làm việc.”

“Vậy làm gì đây nếu những đứa khác cùng đi với nhau?”

“Ta hy vọng chúng không làm thế.”

“Nếu chúng làm thì sao?”

“Thịt cả bọn.”

Rosemary hỏi, “Có cách gì để chữa cho chứng Parkinson không?”

Reacher đáp, “Không. Không cách chữa, không cách ngừa. Nhưng có thể làm cho nó chậm lại. Có các loại thuốc đặc trị. Vật lý trị liệu rất có ích. Và ngủ. Các triệu chứng biến mất khi bệnh nhân ngủ.”

“Có lẽ đó là lý do anh ấy cần thuốc ngủ. Để tìm quên.”

“Anh ấy không nên tìm quên nhiều quá. Tiếp xúc với bên ngoài sẽ tốt hơn.”

Rosemary nói, “Tôi nên vào bệnh viện.”

Reacher nói, “Cô hãy giải thích cho anh ấy. Nói với anh ấy chuyện gì đã thật sự xảy ra trong ngày thứ Sáu.”

Rosemary gật đầu. Băng ngang qua phòng và đi ra ngoài. Một phút sau Reacher nghe tiếng xe cô nổ máy và chạy đi.

Franklin đi ra nhà bếp pha cà phê. Reacher và Helen Rodin còn lại với nhau trong phòng. Reacher ngồi xuống chiếc ghế mà Rosemary đã ngồi. Helen bước tới cửa sổ nhìn xuống con đường bên dưới. Cô quay lưng vào phòng. Cô mặc đồ giống y như Rosemary. Áo đen, váy đen, giày da sơn màu đen. Nhưng trông cô không giống một góa phụ. Cô trông giống một cô bé đến từ New York hay Paris. Giày cô có gót cao hơn và chân cô dài, và để trần, rám nắng.

Cô nói, “Mấy tên mà chúng ta nói là người Nga.”

Reacher không nói gì.

Cô nói, “Cha tôi là người Mỹ.”

Reacher nói, “Một người Mỹ có tên là Aleksei Alekseivitch.”

“Gia đình tôi đến đây từ trước Thế chiến thứ nhất. Không có khả năng liên hệ nào đâu. Làm sao có thể có được? Những kẻ mà chúng ta đang nói là đám hạ đẳng trong xã hội Xô viết.”

“Cha cô làm gì trước khi thành công tố viên?”

“Ông là phụ tá công tố viên.”

“Còn trước đó?”

“Ông luôn làm việc ở đó.”

“Hãy nghĩ về cách pha cà phê của ông ấy.”

“Chuyện đó thì sao nào?”

“Ông ta dùng tách sứ và khay bạc. Chính phủ không mua mấy thứ đó cho ông ấy.”

“Thì sao nào?”

“Hãy nghĩ về bộ đồ vest của ông ấy.”

“Đồ vest của ông?”

“Hôm thứ Hai ông mặc một bộ vest giá cả nghìn đô la. Cô đâu thấy nhiều công chức mặc những bộ vest giá cả nghìn đô la.”

“Ông ấy có những sở thích đắt tiền.”

“Làm sao ông trả nổi cho chúng?”

“Tôi không muốn bàn về chuyện này.”

“Một câu hỏi nữa nhé.”

Helen không nói gì.

“Ông ấy có ép cô bỏ vụ án này không?”

Helen không đáp. Nhìn qua trái, nhìn qua phải. Rồi cô quay lại. “Ông ấy nói thua có thể là thắng.”

“Ông ấy quan tâm tới sự nghiệp của cô?”

“Tôi đã nghĩ vậy. Tôi vẫn nghĩ vậy. Ông ấy là một người trung thực.”

Reacher gật đầu, “Có năm mươi phần trăm cơ hội là cô đúng.”

Franklin mang cà phê trở lại, là loại hàng bán lẻ khá nhạt pha trong ba chiếc tách gốm không cùng bộ, hai chiếc bị mẻ, trên một chiếc khay bằng gỗ bần, với một hộp giấy đang mở đựng kem sữa half-and-half và một chiếc hộp vàng đựng đường, và một chiếc thìa bằng thép nén duy nhất. Ông đặt chiếc khay lên bàn, Helen nhìn nó chằm chằm, như thể nó đang minh họa quan điểm của Reacher: Cà phê được pha ở công sở là như thế này đây.

Cô nói, “David Chapman biết tên ông vào ngày thứ Hai. Ông ta là luật sư đầu tiên của James Barr. Ông ta đã biết về ông từ hôm thứ Bảy.”

Reacher nói, “Nhưng Chapman không biết tôi có đến hay không. Tôi nghĩ rằng không ai nói với ông ta.”

Franklin nói, “Tôi biết tên anh. Có lẽ tôi cũng nên ở trong các khả năng ấy.”

Reacher nói, “Nhưng anh biết lý do thật sự khiến tôi có mặt ở đây. Anh sẽ không để cho tôi bị tấn công. Anh sẽ buộc tôi ra hầu tòa.”

Không ai lên tiếng.

Reacher nói, “Tôi đã nghĩ sai về Jeb Oliver. Hắn không phải là dân bán ma túy. Không có gì bên trong căn nhà kho của hắn cả, ngoại trừ một chiếc xe tải cũ.”

Helen nói, “Tôi rất vui khi thấy ông có thể sai lầm về một chuyện gì đó.”

Franklin nói, “Jeb Oliver không phải người Nga.”

Reacher nói, “Hắn là Mỹ chính hiệu.”

“Do đó những kẻ này có thể làm việc với người Mỹ. Ý tôi là thế. Có thể là Emerson. Không nhất thiết phải là ông công tố viên.”

Reacher nói, “Năm mươi phần trăm. Tôi chưa buộc tội cho ai cả.”

“Nếu anh đúng đã.”

“Đám côn đồ đã tìm tới tôi rất nhanh.”

“Nghe không giống cả Emerson lẫn ông công tố viên, tôi biết cả hai người.”

Helen nói, “Ông có thể gọi tên của cha tôi, tên của ông là Alex Rodin.”

Franklin nói, “Tôi không nghĩ là một trong hai người ấy làm.”

Helen nói, “Tôi trở về văn phòng đây.”

Reacher hỏi, “Cho tôi đi nhờ nhé? Cho tôi xuống ở dưới xa lộ.”

Helen nói, “Không. Tôi cảm thấy không muốn làm thế chút nào.”

Cô nhặt ví và cặp da lên, bước ra khỏi phòng một mình.

Reacher ngồi yên, lắng nghe tiếng động ngoài đường phố. Ông nghe tiếng cửa xe mở ra và đóng lại. Nổ máy. Chiếc xe chạy đi. Ông nhấp ngụm cà phê và nói, “Tôi nghĩ là tôi làm cô ấy giận.”

Franklin nói, “Tôi cũng nghĩ thế.”

“Mấy tên này có ai đó làm tay trong. Điều này rõ quá, phải không nào? Đó là sự thật. Do đó chúng ta nên mang sự việc ra thảo luận.”

“Một tay cớm thì hợp lý hơn là một tay công tố viên.”

“Tôi không đồng ý. Một tay cớm chỉ kiểm soát những vụ án của chính mình thôi. Suy cho cùng thì một công tố viên kiểm soát mọi chuyện.”

“Được thế thì tôi mừng hơn. Tôi từng là một tay cớm.”

Reacher nói, “Tôi cũng vậy.”

“Và tôi phải nói, Alex Rodin đã bỏ rơi rất nhiều vụ. Người ta nói là do thận trọng, nhưng nó có thể là một điều gì khác.”

“Anh nên phân tích những vụ ông ấy bỏ rơi thuộc loại gì.”

“Anh làm như tôi thiếu việc để làm vậy.”

Reacher gật đầu. Đặt chiếc tách xuống. Đứng lên.

Ông nói, “Hãy bắt đầu với Oline Archer. Nạn nhân. Giờ thì bà ấy mới là điều quan trọng.”

Rồi ông bước đến cửa sổ xem xét con đường. Không thấy gì. Ông gật đầu với Franklin và bước xuống hành lang, ra khỏi cửa, đến bậc trên cùng của cầu thang bên ngoài.

Ông ngừng lại ở nấc thang trên cùng và vươn vai trong không khí ấm áp. Xoay hai vai, cong gập đôi tay, hít một hơi thật sâu. Ông bị tê mỏi sau một ngày chỉ có lái xe và ngồi. Và bị ức chế vì phải lẩn trốn. Thật là thoải mái khi chỉ phải đứng yên không làm gì cả, thẳng người và phô mình ra. Ra ngoài trời, trong ánh dương. Bên dưới ông, chếch về bên trái những chiếc xe đã đi mất, ngoại trừ chiếc Suburban màu đen. Con đường im ắng. Ông liếc nhìn bên phải. Xe cộ đang đông dần lên trên đường phố hướng Bắc-Nam. Bên trái ông thì ít xe hơn. Ông nghĩ mình sẽ đi về hướng Tây trước. Nhưng một đường dài về hướng Tây, bởi vì trạm cảnh sát phải gần đây. Ông cần phải đi vòng quanh nó. Rồi ông sẽ nhắm về hướng Bắc. Phía Bắc khu thương mại là một cái mạng nhện. Phía Bắc khu thương mại là nơi ông cảm thấy thoải mái nhất.

Ông bước xuống cầu thang. Khi ông bước lên vỉa hè từ bậc cuối thì nghe tiếng bước chân sau lưng ông, cách chừng mười lăm bộ. Một bước ngang. Đế giày mỏng trên mặt đá vôi. Im lặng. Rồi tiếng lách cách không thể lầm được của súng săn kiểu bơm đang lên đạn.

Rồi một giọng nói.

“Dừng ngay đó.”

Một giọng Mỹ. Nhỏ, nhưng dứt khoát. Đâu đó rất xa trên miền Bắc. Reacher ngừng lại. Đứng yên và nhìn thẳng tới trước, vào bức tường gạch trống không bên kia đường.

Giọng nói cất lên, “Bước qua phải.”

Reacher bước qua phải. Một bước lê chân ngang và dài.

Giọng nói tiếp tục, “Giờ thì quay lại, thật chậm.”

Reacher quay lại, thật chậm. Ông giữ hai tay cách xa thân người, lòng bàn tay hướng ra ngoài. Thấy một dáng người nhỏ con cách mười lăm bước. Chính là gã ông đã thấy vào đêm hôm trước, từ trong bóng tối. Không cao hơn một thước sáu lăm, và không nặng hơn sáu mươi lăm ký, mảnh khảnh, nhợt nhạt, với mái tóc đen cắt ngắn và dựng lên kỳ dị. Chenko. Hay Charlie. Tay phải của hắn nắm chặt một cây súng săn cưa nòng lắp báng súng ngắn. Trong tay trái là một vật gì đó màu đen.

Charlie nói, “Bắt này.”

Hắn tung vật màu đen. Reacher nhìn nó bay qua và lóe lên trong không gian thẳng đến mình và tiềm thức của ông nói: Không phải lựu đạn. Nên ông chụp lấy nó. Cả hai tay. Nó là một chiếc giày. Một chiếc giày da sơn, màu đen, có gót. Nó vẫn còn hơi ấm.

Charlie nói, “Giờ thì ném lại cho tao. Như tao vừa làm ấy.”

Reacher ngưng lại. Chiếc giày của ai đây? Ông nhìn xuống nó.

Gót thấp.

Rosemary Barr?

Charlie lên tiếng, “Ném nó lại. Nhẹ và chậm thôi.”

Ước lượng và đánh giá. Reacher không vũ trang. Ông đang cầm một chiếc giày.

Không phải là hòn đá. Chiếc giày nhẹ và không có sức công phá. Nó không làm hại gì ai. Nó sẽ bay tròng trành trong không khí và Charlie chỉ việc hất nó đi thôi.

Charlie lặp lại, “Ném nó lại.”

Reacher không làm gì cả. Ông có thể giật cái gót ra rồi phóng nó như một ngọn phi tiêu. Như một đầu đạn. Nhưng Charlie sẽ bắn ông trong lúc ông rụt tay ra sau và vung lên. Charlie đứng cách ông mười lăm bước, tư thế sẵn sàng, thăng bằng, không chớp mắt, với khẩu súng yên vị trong tay. Quá gần để hắn bắn trật, quá xa để ông nhào đến.

Charlie nói, “Cơ hội cuối cùng.”

Reacher ném nhẹ chiếc giày lại. Một cú ném dài theo đường vòng cung. Charlie bắt nó bằng một tay và tất cả lại như thể cảnh cũ được tua lại từ đầu.

Charlie nói, “Con nhỏ đó đang ở trong lớp bồi dưỡng. Cứ coi như thế. Nó đang làm quen với những sự thật trong cuộc sống. Nó sẽ sửa soạn các lời khai. Rằng anh của nó hoạch định trước kế hoạch hành động như thế nào. Rằng hắn đã hở ra điều hắn sắp làm. Nó sẽ là một nhân chứng rất tuyệt. Nó sẽ tạo ra vụ án. Mày hiểu điều đó, phải không?”

Reacher không nói gì.

Charlie nói, “Giờ thì trò chơi chấm dứt rồi.”

Reacher không nói gì.

Charlie nói, “Bước lui lại hai bước.”

Reacher bước lui hai bước. Ông đứng ngay trên vệ đường. Giờ thì Charlie cách ông hai mươi bước. Hắn vẫn cầm chiếc giày. Hắn đang mỉm cười.

Hắn nói, “Quay lại.”

Reacher hỏi, “Mày sắp bắn tao à?”

“Có lẽ.”

“Mày nên bắn.”

“Vì sao?”

“Vì nếu mày không bắn, tao sẽ tìm ra mày và khiến mày phải ân hận.”

“To mồm.”

“Tao không chỉ nói thôi đâu.”

“Vậy thì có lẽ tao sẽ bắn mày.”

“Mày nên bắn.”

Charlie nói, “Quay lại.”

Reacher quay lại.

Charlie nói, “Giờ thì đứng yên.”

Reacher đứng yên. Đối mặt con đường. Ông vẫn mở mắt. Nhìn ngắm nền nhựa đường. Nó được phủ lên mặt đường lát sỏi từ ngày xưa. Đầy những nếp gờ nhỏ đều đặn. Ông nhìn và đếm chúng, để lấp đầy những giây có lẽ là cuối cùng trong đời. Ông cố lắng nghe những tiếng động sau lưng. Lắng nghe tiếng xào xạc của vải khi cánh tay của Charlie vươn ra. Lắng nghe tiếng cách nhỏ khi cò súng bị kéo qua phần mười inch đầu tiên. Charlie sẽ bắn chứ? Theo như lẽ thường thì không. Những án mạng luôn luôn được điều tra.

Nhưng bọn người này đầu óc bất thường. Và có năm mươi phần trăm cơ hội là chúng nắm một tay cớm địa phương. Hay là hắn nắm chúng.

Im phắc. Reacher căng tai nghe các tiếng động sau lưng ông.

Nhưng ông không nghe thấy gì cả. Không có gì xảy ra. Tuyệt đối không có gì cả. Một phút. Hai phút. Rồi ông nghe tiếng còi hụ cách một trăm thước về hướng Đông. Chỉ có hai tiếng bíp nhỏ từ một xe cảnh sát đang lấn đường chạy đến.

Charlie lặp lại, “Đứng yên.”

Reacher đứng yên. Mười giây. Hai mươi. Ba mươi. Rồi hai xe tuần tiễu rẽ vào con đường cùng một lúc. Một chiếc từ hướng Đông và chiếc kia từ hướng Tây. Cả hai cùng chạy nhanh. Động cơ của chúng gầm vang. Lốp xe nghiến rít trên mặt đường. Tiếng động của chúng dội vào tường gạch. Chúng thắng két lại. Cửa mở. Cảnh sát tuôn ra. Reacher quay đầu lại nhìn. Charlie không còn ở đó nữa.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.