Dexter Và Giấc Mơ Hắc Ám

Chương 2




Bốn giờ ba mươi phút sáng, gã mục sư đã được thu dọn sạch sẽ. Tôi cảm thấy nhẹ nhõm hơn nhiều. Tôi luôn có cảm giác đó sau khi xong việc. Giết chóc luôn đem đến cho tôi sự khoan khoái. Nó tháo gỡ những nút thắt khỏi các lược đồ yêu quý tối tăm của Dexter. Một sự giải thoát ngọt ngào, sự giải tỏa cần thiết cho tất cả những chiếc van thủy lực nho nhỏ trong người. Tôi ưa thích việc làm của mình; xin lỗi nếu điều đó làm các vị áy náy. Ồ, rất xin lỗi, thực sự đấy. Nhưng thực tế là vậy. Tất nhiên, không phải là với bất cứ sự giết chóc nào. Nó phải được làm đúng cách, đúng lúc, với đúng đối tượng - rất rắc rối, nhưng cũng rất cần thiết.

Và luôn ít nhiều tốn sức. Vì vậy tôi thấy mệt mỏi, nhưng sự căng thẳng của tuần trước đã qua đi, giọng nói lạnh lẽo của Người lữ hành Tối Tăm đã im lặng, tôi lại có thể trở lại là mình. Một Dexter giỏi ngụy biện, hài hước, vô tư, trầm cảm một cách kín đáo. Không còn là Dexter với con dao trong tay, Dexter - kẻ Báo Thù. Cho tới lần tiếp theo.

Tôi chôn tất cả các thi thể trở lại ngoài vườn, kèm thêm một vị hàng xóm mới và dọn dẹp lại mọi thứ bên trong ngôi nhà đang dần đổ nát ngăn nắp hết mức có thể. Tôi thu dọn đồ đạc của mình để vào trong chiếc xe của gã mục sư, lái về phía nam tới chỗ con kênh đào nhỏ nơi tôi để chiếc xuồng, một chiếc hiệu Whaler dài mười bảy foot[2], đáy nông với một động cơ mạnh mẽ. Tôi đẩy cái xe của hắn xuống kênh, phía sau chiếc xuồng của tôi, rồi leo lên xuồng, nhìn chiếc xe từ từ chìm xuống và biến mất. Tôi lái chiếc xuồng vòng lại, ra khỏi kênh đào, hướng về phía bắc qua bên kia vịnh. Mặt trời vừa lên, bắt đầu tỏa ánh nắng ra khắp nơi. Tôi chưng ra khuôn mặt hạnh phúc nhất của mình, thêm một người câu cá buổi sáng sớm đang trên đường về nhà. Có ai thích ăn cá hanh không?

Sáu giờ ba mươi phút, tôi đã về tới nhà, an tọa trong căn hộ của mình tại Coconut Grove. Tôi lấy phiến kính ra khỏi túi áo, một phiến thủy tinh sạch sẽ đơn giản - với một giọt máu duy nhất của gã mục sư được cẩn thận lưu lại ở chính giữa. Đẹp đẽ và sạch sẽ, lúc này đã khô hẳn, sẵn sàng để đưa vào dưới kính hiển vi mỗi khi tôi muốn hồi tưởng lại. Tôi cất phiến kính vào cùng chỗ với những phiến khác, ba mươi sáu giọt máu gọn ghẽ được lưu giữ cẩn thận.

Tôi tắm lâu hơn bình thường dưới vòi hoa sen, để làn nước nóng cuốn trôi đi những dư âm cuối cùng của sự căng thẳng, làm dịu xuống những múi cơ đang thắt lại, rũ bỏ những vết tích cuối cùng còn lưu lại, ám ảnh từ gã mục sư và khu vườn bên ngôi nhà nhỏ nằm gần đầm lầy.

Trẻ con. Đáng ra mình phải giết hắn hai lần.

Cho dù thứ gì đã tạo nên tôi đi nữa, nó đã để lại tôi trống rỗng, hổng toác bên trong, không còn khả năng cảm nhận. Điều đó xem chừng cũng không có gì ghê gớm lắm. Tôi dám chắc phần lớn con người ta phải giả bộ không ít trong những mối quan hệ hằng ngày. Còn tôi giả bộ tất cả. Tôi giả bộ rất giỏi, cảm xúc chưa bao giờ hiện diện. Nhưng tôi thích lũ trẻ. Tôi có lẽ sẽ không bao giờ có con được, vì ý tưởng về tình dục thật chẳng ra sao cả. Thử hình dung phải làm những chuyện đó - làm sao các vị có thể? Ý thức về lòng tự tôn của các vị đâu rồi? Nhưng còn lũ trẻ, những đứa trẻ thật đặc biệt. Cha Donovan xứng đáng phải chết. Luật của Harry đã được thỏa mãn và Người lữ hành Tối Tăm cũng vậy.

Bảy giờ mười lăm phút, tôi lại cảm thấy sạch sẽ. Tôi uống cà phê, ăn bánh ngũ cốc, rồi lên đường đi làm.

Tòa nhà nơi tôi làm việc có một kiến trúc hiện đại, đồ sộ, trắng toát với rất nhiều kính, tọa lạc gần sân bay. Phòng thí nghiệm của tôi nằm trên lầu hai, ở phía sau tòa nhà. Tôi có một phòng làm việc nhỏ bên cạnh phòng thí nghiệm. Không hẳn là một văn phòng đúng nghĩa, nhưng dù sao cũng là của tôi, một khoảng không gian nhỏ tách biệt khỏi phòng thí nghiệm chuyên giám định máu. Nơi đó hoàn toàn thuộc về tôi, không ai được phép vào, không ai được phép chia sẻ, làm rối tinh lãnh địa riêng đó lên. Một bàn làm việc với một ghế tựa, một ghế tựa nữa cho khách, nếu vị khách không quá to béo. Máy tính, giá sách, tủ đựng tài liệu. Điện thoại. Máy trả lời tin nhắn thoại.

Chiếc máy trả lời tin nhắn đang nháy đèn khi tôi bước vào phòng. Một tin nhắn dành cho tôi là chuyện chẳng phải ngày nào cũng xảy ra. Vì một vài lý do, có rất ít người trên thế giới này có thể nghĩ ra chuyện gì đó để nói với một chuyên gia phân tích vết máu trong giờ làm việc. Một trong số những người ít ỏi có chuyện để nói với tôi là Deborah Morgan, cô em nuôi của tôi. Một cảnh sát, cũng như bố cô.

Tin nhắn là do cô gửi.

Tôi bấm nút và nghe thấy giai điệu một bản nhạc Tejano[3], rồi sau đó là giọng nói của Deborah. “Dexter, làm ơn gọi cho em, ngay khi anh tới. Em đang ở hiện trường một vụ án ngoài Tamiami Trail, tại nhà trọ Cacique Motel.” Sau đó là một quãng ngừng. Tôi nghe thấy cô áp một bàn tay lên ống nghe rồi nói gì đó với ai khác. Sau đó, lại có tiếng nhạc Mexico và cô tiếp tục nói. “Anh có thể tới đây ngay được không? Làm ơn đi, Dex?”

Rồi cô gác máy.

Tôi không có gia đình. Ý tôi là trong phạm vi những gì tôi biết. Ở đâu đó ngoài kia chắc chắn phải có những người cùng mang gen di truyền giống như tôi, chắc chắn là thế. Tôi thấy thương cảm thay cho họ. Nhưng tôi chưa bao giờ gặp họ. Tôi cũng chưa bao giờ cố thử và họ cũng chẳng cố tìm kiếm tôi. Tôi được Harry và Doris Morgan, bố mẹ Deborah, nhận làm con nuôi và dạy dỗ. Nếu xét đến con người tôi lúc này, quả là họ đã làm được một công việc tuyệt vời khi nuôi dạy tôi, các vị có nghĩ vậy không?

Cả hai đều đã mất. Vì thế, Deb là người duy nhất trên đời này thực sự quan tâm tới chuyện tôi còn sống hay đã chết. Vì vài lý do nào đó mà tôi không thể đoán ra, cô thực sự thích tôi còn sống hơn. Tôi nghĩ thế cũng tốt và nếu có thể có cảm xúc, tôi sẽ dành cả cho Deb.

Vậy là tôi đi tới đó. Tôi lái xe ra khỏi bãi để xe Metro - Dade, tới con đường xa lộ chạy qua gần đó, tuyến đường này dẫn tôi tới khu vực của Tamiami Trail nơi Cacique Motel tọa lạc, cùng vài trăm nhà trọ cùng kiểu. Theo cách riêng của nó, nơi này là một thiên đường. Đặc biệt nếu bạn là một con gián. Các dãy nhà vừa tỏa ra ánh sáng lấp lánh vừa dần dần mục nát. Những bảng đèn neon sáng rực rỡ trên những tòa nhà cũ kỹ, tàn tạ, mọt ruỗng. Nếu bạn không tới đó vào ban đêm, thì sẽ chẳng mò tới chốn này làm gì. Bởi vì ngắm nhìn những nơi như thế dưới ánh sáng ban ngày cũng chẳng khác gì nhìn xuống dòng cuối cùng trong bản hợp đồng mong manh hời hợt giữa chúng ta với cuộc đời.

Mọi thành phố lớn đều có một khu vực như nơi này. Nếu một gã lùn lở loét tàn tạ mang trên mình bệnh hủi giai đoạn cuối muốn làm tình với một ả chân dài và một cô bé tuổi vị thành niên, hắn sẽ tìm đến nơi này và thuê một căn phòng. Sau khi đã thỏa mãn, hắn có thể kéo cả đám em út sang bên cạnh thưởng thức một tách cà phê Cuba và một chiếc sandwich Medianoche[4]. Chẳng ai buồn bận tâm, chừng nào hắn trả tiền.

Gần đây, Deborah đã dành quá nhiều thời gian ở khu này. Đó là theo quan điểm của cô, không phải tôi. Dường như đó là một nơi hay ho để tìm đến nếu bạn là cớm và muốn nâng cao cơ hội của mình, tính theo xác suất, để tóm cổ kẻ nào đó đang làm một việc tồi tệ.

Deborah không nhìn nhận như thế. Có thể vì cô làm việc bên tội phạm xã hội. Một cô gái trẻ bắt mắt làm việc bên tội phạm xã hội ở khu Tamiami Trail thường xuyên phải vào vai mồi nhử cho một cuộc phục kích, đứng ngoài đường gần như khỏa thân để thu hút những gã đàn ông muốn ăn bánh trả tiền. Deborah ghét cay ghét đắng chuyện này. Cô không chấp nhận nạn mại dâm, ngoại trừ coi nó là một vấn nạn xã hội. Cô cũng không nghĩ tóm cổ những gã có thói trăng hoa thực sự là trấn áp tội phạm. Và, chuyện này chỉ mình tôi biết, cô căm ghét bất cứ thứ gì nhấn mạnh quá mức sự nữ tính và ngoại hình bắt mắt của mình. Cô em nuôi của tôi muốn được làm một cảnh sát, nhưng kì thực trông cô giống một người mẫu trên trang quảng cáo của các tạp chí dành cho đàn ông hơn.

Khi tôi lái xe vào bãi đỗ, nằm giữa Cacique và quán Tito’s Café Cubano ngay bên cạnh, tôi có thể thấy cô đang phô bày ngoại hình của mình ra rất khêu gợi. Cô mặc một chiếc áo bó sát ngực màu hồng neon, một chiếc quần soóc bó sát bằng sợi spandex, tất lưới đen, đi đôi giày cao gót. Trông như thể cô vừa bước ra từ cửa hàng trang phục dành cho những ả làng chơi nóng bỏng nhất Hollywood phiên bản 3D.

Mấy năm trước, một người ở Ban Tội phạm xã hội nghe nói đám gái làng chơi đang cười vào mũi họ trên các con phố. Dường như đám cảnh sát phụ trách tội phạm xã hội, phần lớn là nam giới, đã lựa chọn trang phục cho các phụ nữ tham gia vào các vụ thả mồi giăng bẫy. Những lựa chọn về trang phục của bọn họ cho thấy khiếu thẩm mỹ tồi tệ về sự khêu gợi, bởi chúng trông chẳng giống nhiều lắm với những gì gái làng chơi hay mặc. Vậy là tất cả mọi người trên đường đều có thể đoán chắc cô nàng mới xuất hiện đang mang theo phù hiệu cảnh sát và súng ngắn trong xắc tay.

Hệ quả của thông tin này là Ban Tội phạm xã hội ra quyết định yêu cầu các nữ cảnh sát khi hóa trang làm nhiệm vụ phải tự lựa chọn trang phục cho mình. Nói cho cùng, các cô gái sẽ biết rõ về thứ gì phù hợp hơn, phải không nào?

Có thể phần lớn họ biết. Nhưng Deborah thì không. Cô chưa từng cảm thấy thoải mái trong bất cứ thứ trang phục nào ngoài đồ jeans. Giá mà các vị trông thấy thứ cô em nuôi tôi muốn mặc trong buổi lễ tốt nghiệp. Còn lúc này - tôi chưa bao giờ thấy một phụ nữ xinh đẹp trong những món trang phục khêu gợi như thế lại ít gợi cảm hơn Deb.

Nhưng cô em tôi thực sự nổi bật. Cô đang làm công việc kiểm soát đám đông, phù hiệu được cài trên ngực áo. Hình dáng còn nổi bật hơn nửa dặm băng vàng đánh dấu hiện trường vụ án đã được chăng ra, hơn cả ba chiếc xe tuần cảnh đã đậu ở đó với đèn tín hiệu nhấp nháy. Chiếc áo bó sát ngực màu hồng phát sáng còn rực rỡ hơn.

Cô đứng ở một bên rìa bãi để xe, giữ đám đông cách xa các nhân viên phòng thí nghiệm có vẻ như đang kiểm tra thùng rác của tiệm cà phê. Tôi lấy làm mừng vì đã không bị chỉ định làm việc này. Mùi khó ngửi của nó lan khắp bãi để xe tới tận khung cửa xe của tôi - một thứ mùi đặc quánh tối tăm của bã cà phê pha trộn với quả nẫu và thịt lợn ôi.

Tay cảnh sát ở lối vào bãi để xe là một anh chàng tôi quen mặt. Anh ta vẫy tay cho tôi vào và tôi tìm được một chỗ để đậu chiếc xe của mình.

“Deb,” tôi lên tiếng gọi trong lúc bước lại. “Trang phục đẹp lắm. Thực sự tôn lên hết cỡ vóc dáng của em.”

“Đồ chết tiệt,” cô em tôi đáp lại, mặt đỏ bừng. Quả là một trải nghiệm hiếm có với một cảnh sát đã trưởng thành.

“Họ tìm thấy một cô gái điếm nữa,” cô nói. “Ít nhất, họ nghĩ đó là một cô điếm. Khó lòng nói chắc điều gì từ những thứ còn lại.”

“Đây là vụ thứ ba trong năm tháng vừa qua,” tôi nói.

“Vụ thứ năm,” cô nói với tôi. “Còn hai vụ nữa ở trên mạn Broward.” Cô lắc đầu. “Những gã ngốc đó cứ không ngừng khăng khăng nhắc đi nhắc lại rằng không có mối liên hệ chính thức nào.”

“Như thế sẽ gây ra cả một núi giấy tờ,” tôi đấu dịu.

Deb chưng cả hai hàm răng ra trước mắt tôi. “Thế còn một chút nghiệp vụ cơ bản của cảnh sát thì sao?” cô em tôi nổi tam bành. “Một gã thiểu năng trí tuệ cũng có thể thấy ngay những vụ giết người này có liên hệ với nhau.” Và cô khẽ rùng mình.

Tôi kinh ngạc nhìn cô chăm chú. Cô em nuôi tôi là một cảnh sát, con gái của một cảnh sát. Những cảnh tượng khủng khiếp tại hiện trường không mấy khi làm cô mất bình tĩnh. Khi còn là cảnh sát mới vào nghề và những tay lão làng hơn tìm cách trêu Deborah - chỉ cho cô thấy những thi thể nát tươm luôn xuất hiện mỗi ngày tại Miami - để khiến cô gái trẻ phải phun sạch bữa trưa ra, cô thậm chí đã chẳng buồn chớp mắt. Cô đã chứng kiến qua tất cả. Đến tận nơi, nhìn tận mắt, chạm tận tay.

Nhưng vụ lần này khiến cô rùng mình.

Thú vị đây.

“Vụ này đặc biệt hơn, phải không?” tôi hỏi.

“Vụ này xảy ra trong lĩnh vực hoạt động của em, nạn nhân là các cô gái điếm.” Cô chỉ một ngón tay vào tôi. “Và điều đó có nghĩa là em có trách nhiệm tham gia vào vụ này, được chú ý và có cơ hội chuyển sang Ban Án mạng.”

Tôi dành cho cô em nuôi nụ cười thật hạnh phúc. “Tham vọng sao, Deborah?”

“Hoàn toàn đúng,” cô nói. “Em muốn biến khỏi Ban Tội phạm xã hội, muốn biến khỏi những món đồ khêu gợi này. Em muốn sang bên Án mạng, Dexter, đây có thể là giấy thông hành của em. Với một bước đột phá nhỏ…” Cô dừng lời. Rồi nói thêm những lời thực sự đáng kinh ngạc. “Làm ơn hãy giúp em, Dexter,” cô nói. “Em thực sự rất ghét làm công việc hiện tại.”

“Làm ơn ư, Deborah? Em vừa nói làm ơn với anh sao? Em có biết nó làm anh bối rối đến thế nào không?”

“Thôi nói linh tinh đi, Dex.”

“Nhưng Deborah, thực tình…”

“Em nói là thôi đi mà. Anh có định giúp em không hả?”

Khi cô em tôi đã gặng hỏi theo kiểu đó, với lời nài nỉ “làm ơn” hiếm hoi vẫn còn dư âm trong không khí, tôi còn biết nói gì đây, ngoại trừ, “Tất nhiên là có rồi, Deb. Em biết thế mà.”

Cô gái nhìn tôi thật dữ dằn, lấy lại hoàn toàn hai từ “làm ơn” lúc trước của mình. “Em không biết, Dex. Em chẳng biết gì liên quan tới anh hết.”

“Tất nhiên anh sẽ giúp, Deb.” Tôi lặp lại, cố làm ra vẻ khổ sở. Thực hiện một màn giả bộ thực sự hoàn hảo về lòng tự tôn bị tổn thương, tôi hướng tới chỗ thùng rác cùng các kỹ thuật viên còn lại của phòng thí nghiệm.

Camilla Figg đang bò trườn tìm kiếm các dấu vân tay trên túi rác. Cô ta là một phụ nữ thấp bé ba mươi lăm tuổi với mái tóc ngắn, người dường như chưa bao giờ phản ứng lại những câu pha trò vui vẻ rất có duyên của tôi. Nhưng khi nhìn thấy tôi, cô ta nhổm dậy trên hai đầu gối, đỏ mặt, nhìn tôi đi ngang qua mà không nói gì. Dường như cô ta luôn nhìn tôi chằm chằm rồi sau đó đỏ mặt.

Ngồi trên một thùng nhựa đựng sữa úp ngược ở phía cuối thùng rác, Vince Masuoka đang cời một nắm rác. Anh ta mang trong mình nửa dòng máu Nhật và thích đùa rằng anh ta được thừa hưởng nửa ngắn. Hay ít nhất anh ta gọi nó là một cách bông đùa.

Có chút gì đó hơi gượng gạo trong nụ cười châu Á rạng rỡ của Vince. Như thể anh ta đã học cách cười từ một cuốn sách ảnh. Thậm chí khi anh ta đưa ra những lời bỡn cợt tục tĩu lúc cần thiết với đám cảnh sát, chẳng ai nổi điên với anh ta cả. Cũng chẳng ai cười, nhưng điều đó cũng không khiến anh ta dừng lại. Anh ta luôn thực hiện đủ mọi cử chỉ lễ độ đúng đắn, nhưng dường như lúc nào cũng mang vẻ giả tạo. Tôi nghĩ có lẽ chính vì thế tôi thích anh ta. Một anh chàng nữa cũng đang giả bộ có nhân tính, giống như tôi vậy.

“Thế nào, Dexter,” Vince lên tiếng nhưng không hề ngước mặt lên. “Chuyện gì lôi anh đến đây vậy?”

“Tôi đến để chứng kiến những chuyên gia thực sự tác nghiệp ra sao trong một môi trường hoàn toàn nhà nghề,” tôi nói. “Anh đã thấy gì chưa?”

“Ha - ha,” anh ta nói. Đó dường như là một tiếng cười, nhưng còn giả tạo hơn cả nụ cười của anh ta. “Chắc anh nghĩ mình đang ở Boston.” Anh ta tìm thấy thứ gì đó và giơ lên ánh sáng, nghiêng đầu ngắm nhìn. “Hỏi nghiêm chỉnh nhé, tại sao anh lại ở đây?”

“Tại sao tôi lại không thể ở đây được, Vince?” tôi hỏi lại, làm ra vẻ bực mình. “Đây là hiện trường một vụ án, phải không nào?”

“Anh phụ trách phát hiện vết máu,” anh ta nói, rồi ném đi thứ vừa ngắm nghía và chuyển sang tìm kiếm thứ khác.

“Tôi biết chứ.”

Anh ta nhìn tôi với nụ cười giả tạo tươi tắn nhất của mình. “Ở đây chẳng có tí máu nào cả, Dex.”

Tôi thấy ngạc nhiên. “Thế là sao?”

“Chẳng có vết máu nào ở bên trong, bên ngoài hay gần kề cả, Dex. Không có vết máu nào hết. Điều kỳ quái nhất anh từng được thấy qua,” anh ta nói.

Không có vết máu nào hết. Tôi có thể nghe thấy những từ đó lặp đi lặp lại trong đầu mình, lần sau to hơn lần trước. Không có vết máu dinh dính, nóng hổi, nhem nhuốc, đáng sợ nào cả. Không giọt. Không vết. KHÔNG HỀ CÓ MÁU.

Tại sao tôi lại không nghĩ tới điều đó chứ?

Nghe giống như mảnh ghép còn thiếu của một thứ mà trước đây tôi không hề biết là chưa hoàn chỉnh.

Tôi không giả bộ mình hiểu điều đó có nghĩa là gì với Dexter và máu. Chỉ nghĩ tới điều đó thôi cũng đủ làm răng tôi nghiến chặt - ấy vậy mà, nói cho cùng, tôi đã lấy nó làm sự nghiệp, làm chủ đề nghiên cứu, một phần công việc thực sự của mình. Rõ ràng có điều gì đó rất bí hiểm đang diễn ra, nhưng tôi cảm thấy có chút khó khăn để lưu tâm. Tôi dù gì vẫn là tôi, đó chẳng phải là một đêm thật thú vị khi chặt một gã sát hại trẻ con ra từng khúc sao?

Nhưng chuyện này…

“Không sao chứ, Dexter?” Vince hỏi.

“Tôi đang bị ấn tượng,” tôi nói. “Hắn làm chuyện đó thế nào?”

“Còn tùy.”

Tôi nhìn Vince. Anh ta đang nhìn chăm chăm vào một nắm bã cà phê, thận trọng bới gẩy nó bằng một ngón tay đi găng cao su. “Tùy vào cái gì, Vince?”

“Vào việc hắn là ai và chuyện hắn đã làm là gì,” anh ta đáp. “Ha - ha.”

Tôi lắc đầu. “Đôi khi anh cố gắng quá lố để tỏ ra khó hiểu,” tôi nói. “Kẻ sát nhân đã loại bỏ vết máu bằng cách nào?”

“Ngay lúc này cũng khó nói,” anh ta đáp. “Chúng tôi chưa tìm ra vết nào cả. Thi thể nạn nhân quả thực không ở trong tình trạng lý tưởng, vì thế sẽ khó tìm được gì nhiều.”

Nghe thực sự còn xa mới có thể coi là thú vị. Tôi thích để lại một thi thể gọn ghẽ. Không lôi thôi, không bừa bộn, không máu chảy ròng ròng. Nếu gã sát nhân này cũng chỉ lại là một con chó xẻ thịt róc xương nữa, điều đó với tôi chẳng là gì hết.

Tôi hít thở có phần thoải mái hơn. “Thi thể nạn nhân ở đâu?” tôi hỏi Vince.

Anh ta hất hàm về một nơi cách đó chừng hai mươi foot. “Đằng kia,” anh ta nói. “Cùng với LaGuerta.”

“Ôi trời,” tôi thốt lên. “LaGuerta đang phụ trách vụ này sao?”

Anh ta lại dành cho tôi nụ cười giả tạo của mình. “Kẻ sát nhân may mắn.”

Tôi đưa mắt nhìn. Một nhóm nhỏ đang đứng quanh một đám túi đựng rác gói buộc gọn ghẽ. “Tôi không thấy nó,” tôi nói.

“Ngay đó thôi. Những cái túi đựng rác. Mỗi túi là một phần thi thể. Hắn đã cắt nạn nhân thành từng mảnh rồi gói ghém mỗi mảnh lại như một món quà Giáng sinh vậy. Anh đã từng bao giờ thấy chuyện gì tương tự trước đây chưa?”

Tất nhiên là có.

Đó là cách tôi vẫn làm.

Bạn có thể dùng phím mũi tên hoặc WASD để lùi/sang chương.