Vũ Điệu Của Thần Chết
Chương 30
Đúng sáu giờ chiều ngày Chủ nhật, họ đưa Jodie từ một trong những phòng ngủ của Rhyme ở dưới nhà lên, nơi gã đã bị giam khóa rất chắc chắn.
Gã miễn cưỡng lê bước lên cầu thang, hai tay vẫn ôm chặt lấy quyển sách ngớ ngẩn của mình, Dependent No More, như một cuốn Kinh Thánh. Rhyme nhớ rõ tên cuốn sách. Nó đã từng có mặt trong danh sách ấn phẩm bán chạy nhất của tờ New York Times suốt mấy tháng liền. Một lần đang ở trong tâm trạng chán nản nhất, anh đã để ý đến cuốn sách này và cay đắng nghĩ về bản thân mình, lệ thuộc mãi mãi.
Một đội đặc vụ liên bang đang từ Quantico bay thẳng tới Cumberland ở West Virginia, nơi cư trú trước đây của Stephen Kall, để tìm kiếm tất cả những đầu mối có thể, với hy vọng từ đó có thể lần ra chỗ ẩn náu hiện tại của hắn. Nhưng Rhyme đã thấy tên này cẩn thận đến mức nào trong việc xóa dấu vết tại các hiện trường của hắn và anh chẳng thấy có lý do nào để nghĩ rằng hắn sẽ lại kém thận trọng hơn trong việc xóa sạch các dấu vết liên quan khác.
“Anh có kể cho chúng tôi biết đôi điều về hắn”, Rhyme nói với Jodie. “Một số sự thật, một số thông tin rất bổ ích. Tôi muốn biết thêm đôi chút...”
“Tôi...”
“Cố nghĩ đi.”
Jodie hấp háy mắt. Rhyme tự nhủ có lẽ gã đang cân nhắc xem mình có thể biến báo như thế nào để xoa dịu họ, tạo ra những ấn tượng giả dối. Nhưng anh ngạc nhiên khi Jodie buột miệng, “À, có một chuyện này, đấy là hắn rất sợ ông.”
“Chúng tôi à?”, Rhyme hỏi.
“Không. Chỉ ông thôi.”
“Tôi à?”, anh hỏi, không giấu được vẻ ngỡ ngàng. “Hắn biết về tôi sao?”
“Hắn biết tên của ông là Lincoln. Và hắn biết ông đang lần theo hắn.”
“Bằng cách nào?”
“Tôi không biết”, gã nói, rồi bổ sung. “Ông biết đấy, hắn đã gọi vài cuộc điện thoại bằng chiếc điện thoại di động đó. Và hắn lắng nghe rất lâu. Lúc đó tôi đã nghĩ...”
“Ôi, chó chết thật”, Dellray buột miệng hét lên. “Hắn đang nghe trộm điện thoại của ai đó.”
“Tất nhiên rồi!”, Rhyme thốt lên. “Có lẽ là văn phòng ở Hudson Air. Đó là lý do tại sao hắn biết về ngôi nhà an toàn. Tại sao chúng ta lại không nghĩ đến chuyện đó nhỉ?”
Dellray nói, “Chúng ta phải cho rà soát toàn bộ khu văn phòng. Nhưng cũng có thể con bọ nghe lén được lắp ở một chiếc hộp tiếp âm ở đâu đó. Chúng tôi sẽ tìm ra nó”. Anh gọi một cú tới bộ phận kỹ thuật của FBI.
Quay sang Jodie, Rhyme nói, “Tiếp tục đi. Hắn còn biết những gì về tôi nữa?”.
“Hắn biết ông là một thám tử. Tôi không nghĩ là hắn biết ông sống ở đâu, hay họ của ông là gì. Nhưng ông làm hắn sợ khủng khiếp.”
Giá kể như bụng của Rhyme vẫn còn khả năng ghi nhận cảm giác rộn ràng vì phấn khích – và tự hào – thì chắc hẳn anh đã cảm thấy nó ngay lúc này.
“Anh đã giúp chúng tôi một lần rồi, Jodie. Tôi cần anh giúp chúng tôi lần nữa.”
“Ông bị điên sao?”
“Câm cái mõm chết tiệt của mày lại đi”, Dellray gầm lên. “Và hãy nghe những gì anh ấy nói, được chứ? Được chứ hả?”
“Tôi đã là đúng những gì tôi nói là tôi sẽ làm. Tôi sẽ không làm thêm bất kỳ điều gì nữa.” Giọng lải nhải của gã thật là không sao chịu nổi. Rhyme liếc mắt nhìn Sellitto. Chuyện này cần đến những kỹ năng liên quan đến con người.
“Giúp đỡ chúng tôi cũng nằm trong lợi ích của anh thôi”, Sellitto mềm mỏng nói.
“Bị bắn vào lưng là nằm trong lợi ích của tôi sao? Bị bắn vào đâu là nằm trong lợi ích của tôi sao? Ừ hứ. Tôi hiểu. Các ông có muốn giải thích chuyện đó không?”
“Chắc chắn rồi. Tôi sẽ giải thích cái chuyện chết tiệt ấy thế này nhé”, Sellitto gầm gừ. “Tên Vũ công biết anh đã bán đứng hắn. Lúc ở ngôi nhà an toàn chẳng phải là hắn đã nhắm vào anh còn gì? Tôi nói vậy có đúng không?”
Bao giờ cũng phải tìm mọi cách để những tên khốn này chịu mở mồm. Chịu tham gia. Sellitto đã có lần giải thích những phương pháp thẩm vấn cho Lincoln Rhyme hiểu.
“Vâng, tôi nghĩ thế.”
Sellitto ngoắc một ngón tay ra hiệu cho Jodie bước lại gần. “Lẽ ra điều khôn ngoan nhất mà hắn nên làm khi ấy là lặn thật xa. Vậy mà hắn vẫn liều lĩnh tìm kiếm một vị trí bắn tỉa và cố bắn tung đít anh. Thế nào, chuyện đó nói cho chúng ta biết điều gì nhỉ?”
“Tôi...”
“Nó cho chúng ta biết là hắn sẽ không bao giờ ngừng tay chừng nào hắn còn chưa giết được anh.”
Dellray, thích thú lại được diễn vai trò một người nhắc vở, lên tiếng, “Và hắn là loại người mà tao không nghĩ mày sẽ thích nhìn thấy khi hắn đến gõ cửa nhà mày lúc ba giờ sáng đâu – tuần này, tháng sau, hoặc sang năm. Chúng ta thống nhất với nhau về điều đó chứ hả?”.
“Vậy”, Sellitto lại nhanh nhảu tiếp tục, “anh đồng ý là việc giúp đỡ chúng tôi cũng nằm trong lợi ích của anh chứ?”.
“Nhưng các người có cho tôi vào, kiểu như, chương trình bảo vệ nhân chứng không?”
Sellitto nhún vai, “Có và không.”
“Hơ?”
“Nếu anh giúp chúng tôi, có. Còn nếu anh không giúp, không.”
Hai mắt của Jodie đỏ hoe và ầng ậc nước. Có vẻ như gã đang rất sợ hãi.
Trong những năm sau khi xảy ra vụ tại nạn Rhyme đã rất lo sợ cho những người khác – Amelia cùng với Thom và Lon Sellitto. Nhưng bản thân anh lại không tin rằng mình đã từng thấy sợ chết, kể từ sau vụ tai nạn thì tất nhiên là càng không. Anh tự hỏi cảm giác sống trong sợ hãi như vậy sẽ như thế nào. Cuộc sống của một con chuột.
Quá nhiều cách để chết...
Sellitto, lúc này đã lại khoác lên mình dáng vẻ của một cảnh sát tốt bụng, hơi thoáng mỉm cười với Jodie. “Anh cũng có mặt khi hắn giết người đặc vụ, ở trong tầng hầm, đúng vậy không?”
“Tôi có ở đó, vâng.”
“Lẽ ra giờ đây người đàn ông đó vẫn còn sống. Có thể cả Brit Hale có thể vẫn còn sống. Rất nhiều người khác cũng vậy… giá như có ai đó giúp chúng tôi ngăn chặn tên khốn khiếp này từ mấy năm trước. Hừ, còn bây giờ anh có thể giúp chúng tôi ngăn chặn hắn. Anh có thể giữ cho Percey được sống, và có lẽ là hàng chục người nữa. Anh có thể làm điều đó.”
Đây là lúc thiên tài của Sellitto được phát huy. Nếu là Rhyme chắc anh đã hết dọa dẫm rồi cưỡng ép và đến khi không còn cách nào khác, sẽ hối lộ người đàn ông bé choắt này. Nhưng anh chưa bao giờ nghĩ đến việc lôi kéo chút hướng thiện còn sót lại mà, ít nhất là, viên thám tử có thể nhìn thấy trong con người gã.
Jodie lơ đãng lần giở những trang trong quyển sách của gã bằng một ngón tay bẩn thỉu. Cuối cùng gã ngước lên và – với sự điềm tĩnh đáng ngạc nhiên – nói, “Khi tôi đang dẫn hắn tới chỗ của mình, trong đường tàu điện ngầm, đã mấy lần liền tôi nghĩ hay là tôi xô hắn xuống một miệng đường ống thoát nước. Nước ở những chỗ đó chảy rất xiết. Kiểu gì hắn cũng sẽ bị cuốn một mạch ra sông Hudson. Hoặc không thì tôi biết trong đường tàu điện ngầm có những chỗ họ còn để lại mấy đống đinh đường ray. Tôi có thể chộp lấy một cái và đánh vào đầu hắn lúc hắn không cảnh giác. Tôi thực sự, thực sự đã nghĩ đến chuyện làm như vậy. Nhưng tôi sợ”. Gã giơ cuốn sách lên. “Chương Ba. Đối mặt với những con quỷ của bạn. Các ông biết đấy, lần nào tôi cũng chạy trốn. Tôi chưa bao giờ dám đứng lên chống lại bất kỳ điều gì. Tôi đã nghĩ mình có thể đứng lên chống lại hắn, nhưng tôi không làm được.”
“Ê, thì bây giờ anh có cơ hội rồi’, Sellitto nói.
Lại lật giở qua những trang sách nát bươm. Thở dài. “Tôi phải làm gì đây?”
Dellray trỏ ngón tay cái dài quá khổ của anh lên phía trần nhà. Đó là cách anh thể hiện sự hài lòng.
“Chúng ta sẽ bàn kỹ về chuyện đó sau một phút nữa”, Rhyme nói, đưa mắt nhìn quanh phòng. Đột nhiên anh gào lên, “Thom! Thom! Vào đây. Tôi cần cậu”.
Khuôn mặt đẹp trai, cáu kính của cậu trợ lý thò vào quanh góc phòng. “Vâ… â… âng?”
“Tôi đang cảm thấy phơi phới làm sao”, Rhyme tuyên bố rất kịch.
“Gì cơ?”
“Tôi đang cảm thấy thật phơi phới. Tôi cần một cái gương.”
“Anh muốn một cái gương ư?”
“Một cái gương thật to vào. Và phiền cậu chải tóc giúp tôi với. Tôi nhắc cậu mãi mà lần nào cậu cũng quên.”
Chiếc xe thùng của U.S. Medical rẽ ra mặt sân bay trải nhựa tarmac. Giả sử như hai nhân viên mặc áo choàng trắng, mang theo số nội tạng người trị giá một phần tư triệu đô la, có lo lắng trước sự hiện diện của những cảnh sát được vũ trang bằng súng tiểu liên vây quanh đường băng, họ cũng không hề thể hiện bất kỳ dấu hiệu gì.
Lần duy nhất họ chùn bước là khi King, con béc giê Đức của đội phát hiện bom, đánh hơi những thùng đựng hàng để tìm kiếm thuốc nổ.
“Hừm, tôi nghĩ là nên cẩn thận với con chó kia”, một trong hai nhân viên vận chuyển nói với vẻ căng thẳng. “Cứ thử hình dung trong đây toàn là gan của gan, tim của tim.”
Nhưng King hành xử hoàn toàn như một tay chuyên nghiệp và bỏ qua khối hàng không một chút miễn cưỡng. Hai người đàn ông khiêng những thùng chứa lên máy bay, xếp chúng vào những tủ làm lạnh. Percey quay về buồng lái, tại đây Brad Torgeson, một tay phi công trẻ có mái tóc màu hung thỉnh thoảng vẫn đảm nhiệm những chuyến bay tự do cho Hudson Air, đang thực hiện công đoạn kiểm tra trước khi bay.
Cả hai đều đã hoàn thành khâu kiểm tra quanh máy bay một vòng, đi cùng họ là Bell, ba cảnh sát vũ trang và con King. Tuyệt đối không thể có khả năng tên Vũ công đã tiếp cận được chiếc máy bay ngay từ đầu, nhưng giờ đây tên sát thủ đó đã trở nên khét tiếng với khả năng biến cái không thể thành có thể; do vậy đây là lần kiểm tra bằng mắt trước chuyến bay được thực hiện tỉ mỉ và thận trọng nhất trong lịch sử ngành hàng không.
Quay lại nhìn vào khoang hành khách, Percey có thể nhìn thấy ánh đèn của những tủ làm lạnh. Trong cô lại thoáng hiện lên cảm giác hài lòng cô vẫn thường cảm thấy khi cỗ máy vô tri vô giác, vốn do con người tạo ra và điều khiển, rùng rùng chuyển động. Đối với Percey, bằng chứng về Chúa Trời có thể được tìm thấy trong tiếng ầm ầm của những mô tơ phụ, và khi cả chiếc máy bay như một khối kim loại thon dài được nâng bổng lên trời vào thời điểm hai cánh của nó tạo ra được áp lực không khí âm phía trên khiến chiếc máy bay trở nên không trọng lượng.
Đang tiếp tục với danh sách công việc cần kiểm tra trước chuyến bay, Percey bỗng giật mình vì tiếng hít thở nặng nhọc ngay cạnh cô.
“Họ, họ nào”, Brad thốt lên trong khi con King quyết định rằng giữa đũng quần anh ta không có thuốc nổ, rồi nó tiếp tục phần kiểm tra an toàn bên trong máy bay.
Mới ngay trước đó Rhyme vừa cho Percey biết rằng anh và Amelia Sachs đã kiểm tra những miếng đệm cao su và vỏ dây điện kia nhưng không thấy mẫu nào trùng khớp với chất cao su latex tìm thấy ở hiện trường vụ nổ ở Chicago. Rhyme chợt nghĩ ra khả năng tên sát thủ đã dùng cao su để bọc bên ngoài thuốc nổ để ngăn chó nghiệp vụ phát hiện ra. Vì vậy anh yêu cầu Percey và Brad ra khỏi máy bay vài phút để Bộ phận Kỹ thuật kiểm tra qua toàn bộ máy bay, cả trong lẫn ngoài, bằng những chiếc mic siêu nhạy cảm, có khả năng phát hiện ra thiết bị hẹn giờ nổ.
Sạch sẽ.
Khi chiếc máy bay lăn bánh ra ngoài, đường băng sẽ được những cảnh sát tuần tra mặc sắc phục canh gác cẩn thận. Fred Dellray đã liên lạc với FAA để bố trí lịch trình chuyến bay được bảo mật tuyệt đối sao cho tên Vũ công không thể biết được máy bay sẽ tới những đâu – thậm chí ngay cả khi hắn biết Percey đang có mặt trong buồng lái. Viên đặc vụ cũng đã liên lạc với những văn phòng địa bàn của FBI tại mỗi thành phố là điểm đến để bố trí các đặc vụ chiến thuật trên đường băng khi chuyến hàng được đưa tới.
Nào, giờ là lúc động cơ đã khởi động, Brad ngồi ghế bên phải còn Roland Bell liên tục bồn chồn thay đổi giữa một trong hai chiếc ghế hành khách còn lại, Percey nói với Đài Kiểm soát Không lưu, “Lear 695 Foxtrot Bravo ở Hudson Air. Sẵn sàng ra đường băng.”
“Nghe rõ. 695 Foxtrot Bravo. Được phép lăn bánh ra đường băng 09 bên phải.”
Một cái chạm khẽ lên cần ga êm như ru và chiếc máy bay tuyệt đẹp rẽ ra đường dẫn và dần dần tăng tốc xuyên qua màn trời đêm đầu xuân nhập nhoạng. Percey đang cầm lái. Các phi công phụ cũng có đủ thầm quyền bay nhưng chỉ có phi công chính mới được phép điều khiển chiếc máy bay trên mặt đất.
“Anh thích chứ, sĩ quan?”, cô ngoái lại nói to với Bell.
“Phải nói là rất thích”, anh nói và ngao ngán nhìn ra ngoài những ô cửa sổ lớn hình tròn. “Cô biết đấy, đằng nào cô cũng nhìn thẳng tuột một mạch xuống dưới. Ý tôi là những cửa sổ này vừa tròn vừa lớn. Tại sao họ lại làm cửa sổ kiểu này nhỉ?”
Percey bật cười. Cô nói to trả lời anh, “Thì trên các máy bay chở khách, họ cố ngăn không cho anh nhận ra rằng anh đang bay. Nào là phim ảnh, thức ăn, lại còn cửa sổ bé tí. Thế thì vui quái gì? Như thế thì ích lợi gì chứ?”.
“Cá nhân tôi thì thấy một vài ích lợi đấy”, anh nói và ngấu nghiến nhai chiếc kẹo cao su Wrigley của mình. Anh kéo rèm cửa sổ lại.
Mắt Percey dán chặt trên đường băng, liên tục kiểm tra bên phải và bên trái, không một giây lơ là. Quay sang Brad cô nói, “Bây giờ tôi sẽ nói qua về phần giao nhiệm vụ cụ thể. Được chứ?”.
“Rõ, thưa cơ trưởng.”
“Chúng ta sẽ cất cánh thẳng một mạch[101], cánh đuôi cố định ở 15 độ”, Percey nói. “Tôi sẽ điều chỉnh cần tăng ga. Cậu thông báo tốc độ bay, 80 knot, kiểm tra chéo, Tốc độ 1, hoán đổi, Tốc độ 2, tốc độ hữu dụng. Tôi sẽ chỉ huy việc tăng số và cậu sẽ thực hiện. Rõ chứ?”
“Tốc độ bay, 80, Tốc độ 1, hoán đổi, Tốc độ 2, tốc độ hữu dụng. Chuyển số.”
“Tốt. Cậu sẽ theo dõi tất cả các đồng hồ thiết bị và bảng tín hiệu. Nghe rõ nhé, nếu thấy đèn ở bảng tín hiệu chuyển màu đỏ và một động cơ bị trục trặc trước Tốc độ 1, hãy thông báo lệnh “Huỷ” thật to và rõ ràng để tôi đưa ra quyết định đi/ không đi. Nếu có trục trặc ở đúng hoặc sau khi chuyển sang Tốc độ 1, chúng ta vẫn tiếp tục cất cánh và sau đó sẽ giải quyết tình huống như một trường hợp khẩn cấp xảy ra trong quá trình bay trên không. Chúng ta vẫn sẽ tiếp tục bay lên và sau đó anh sẽ đề nghị được chuyển sang chế độ bay VFR để quay về sân bay ngay lập tức. Hiểu chứ?”
“Đã rõ!”
“Tốt. Chúng ta hãy bay nào… Anh sẵn sàng rồi chứ, Roland?”
“Tôi đã sẵn sàng. Hy vọng hai người cũng thế. Đừng có làm rơi kẹo đấy.”
Percey lại bật cười. Người quản gia của gia đình cô ở Richmond cũng nói giống hệt như vây. Nó có nghĩa là “Đừng có làm hỏng việc”.
Cô đẩy cần tăng tốc về phía giới hạn cho phép thêm một chút nữa. Những động cơ gầm lên ầm ầm và chiếc Learjet từ từ lăn bánh về phía trước. Họ tiếp tục đi qua vị trí chờ mọi khi, đúng nơi tên giết người đã đặt quả bom lên máy bay của Ed. Cô nhìn ra ngoài cửa sổ và thấy hai cảnh sát đang đứng gác.
“Lear 95 Foxtrot Bravo”, Bộ phận Kiểm soát Mặt đất gọi tới qua radio, “đi thẳng tới đầu đường băng cất cánh 05 bên trái”.
“Foxtrot Bravo. Hướng tới đầu đường băng 05 bên trái”.
Cô tiếp tục lái chiếc máy bay lăn bánh trên đường dẫn ra.
Learjet là một loại máy bay thấp, gần như ôm sát mặt đất, mặc dù vậy mỗi lần ngồi trên chiếc ghế bên trái trong buồng lái, cho dù đang bay hay ở trên mặt đấy, Percey đều cảm thấy như cô đang ở trên cao cả dặm. Đó thực sự là một vị trí đầy quyền lực. Tất cả mọi quyết định đều là của cô, và phải được tuân theo không điều kiện. Tất cả những trách nhiệm cũng được đặt trên vai cô. Vì cô là cơ trưởng.
Chú thích
[101] Rolling take off: Có nghĩa là máy bay cất cánh thẳng sau khi rời khỏi hangar và lăn bánh trên đường băng, không phải dừng ở vị trí xuất phát và chờ lệnh của trạm Kiểm soát không lưu sân bay.
Mắt chăm chú theo dõi những đồng hồ thiết bị.
“Cánh đuôi 15 độ, 15, đèn xanh”, cô nói, nhắc lại thông số để đặt góc cánh đuôi.
Theo đúng quy định phải nhắc lại mọi mệnh lệnh, Brad nói “Cánh đuôi 15 độ, 15, đèn xanh”.
Kiểm soát Không lưu gọi tới, “Learjet 95 Foxtrot Bravo, rẽ vào vị trí. Đủ điều kiện cất cánh, đường băng 05 trái”.
“Đường băng 05 trái, Foxtrot Bravo. Đủ điều kiện cất cánh.”
Brad hoàn tất danh sách kiểm tra cất cánh. “Áp suất, bình thường. Chế độ lựa chọn nhiệt độ tự động. Đèn tiếp sóng và bên ngoài đều bật sáng. Đèn khởi động, đèn báo nhiệt độ và áp suất, đèn nhấp nháy đều bật sáng, đến lượt chị.”
Percey kiểm tra những đèn điều khiển đó và khẳng định, “Đèn khởi động, đèn áp suất, đèn nhấp nháy đều bật.”
Cô rẽ chiếc Lear vào đường băng cất cánh, chỉnh thẳng bánh xe dưới mũi máy bay, căn thẳng với đường kẻ chính giữa đường băng. Cô liếc nhìn la bàn. “Tất cả kim báo đều hiển thị hướng 05. Đường băng 05 bên trái. Tôi đang đặt mức năng lượng.”
Cô đẩy mạnh cần tăng ga về phía trước. Chiếc máy bay bắt đầu lao nhanh trên dải đường băng bê tông. Cô cảm thấy tay mình đang nắm chặt lấy cần tăng ga ngay dưới ghế.
“Mức năng lượng đã đặt xong.” Rồi Brad lại hô to, “Đã có tộc độ bay”, lúc này những chiếc kim chỉ tốc độ bay bắt đầu bật lên và tăng dần, 20 knot, 40 knot…
Cần tăng tốc đã gần chạm ngưỡng, chiếc máy bay lao vun vút về phía trước. Cô nghe thấy một tiếng “ối chà…” từ Roland Bell và cố nín cười.
50 knot, 60 knot, 70…
“80 knot”, Brad hô to, “kiểm tra chéo”.
“Đã kiểm tra”, cô trả lời sau khi đã liếc qua đồng hồ hiển thị tốc độ bay.
“Tốc độ 1”, Brad lại hô to. “Hoán đổi.”
Percey bỏ bàn tay phải ra khỏi cần tăng tốc và nắm lấy cần lái. Cho đến lúc đó vẫn còn đang rung bần bật, chiếc cần lái bằng nhựa cứng đột nhiên dừng phắt lại vì sức ép của không khí. Cô từ từ kéo cần lái về sau, nâng mũi chiếc Lear chếch lên trên tới độ nghiêng tiêu chuẩn 7,5 độ. Những động cơ vẫn tiếp tục gầm lên rất êm và cô lại kéo nhẹ cần lái thêm chút nữa, tăng độ chếch của mũi máy bay lên thành 10 độ.
“Tốc độ hữu dụng”, Brad thông báo.
“Tăng số. Nâng cánh đuôi. Dựng đuôi giữ thẳng hướng.”
Giọng của nhân viên Kiểm soát Không lưu vang lên qua tai nghe. “Lear 95 Foxtrot Bravo, rẽ trái theo hướng 280. Liên lạc với bộ phận Kiểm soát Máy bay đi.”
“280, Lear 95 Foxtrot Bravo. Xin cảm ơn.”
“Chúc buổi tối may mắn.”
Kéo cần lái thêm chút nữa, 11 độ, 12, 14… Để mức năng lượng ở điều kiện cất cánh, cao hơn mức bình thường, thêm vài phút. Nghe rõ âm thanh xoáy tít thật vui tai của những cánh quạt tua bin phía sau, luồng khí phản lực đẩy vùn vụt.
Và ở trong chiếc kim bạc thon thả này, Percey Clay cảm thấy mình đang lao vút lên giữa không trung, bỏ lại đằng sau tất cả những phiền muộn, nặng nề và đau đớn. Bỏ lại đằng sau cái chết của Ed và Brit, và thậm chí bỏ lại đằng sau kẻ khủng khiếp đó, con quỷ, tên Vũ công quan tài. Tất cả những nỗi đau, tất cả những gì mong manh, tất cả những gì xấu xa nhất đều bị quẳng lại tít dưới kia, và cô hoàn toàn tự do. Kể ra cũng không công bằng lắm khi cô có thể trốn thoát khỏi những gánh nặng nặng nề đó một cách dễ dàng như thế này, nhưng đó là sự thật. Vì người phi công Percey Clay đang ngồi trên ghế bên trái trong buống lái chiếc Lear N695FB không còn là Percey Clay – người phụ nữ lùn tịt với khuôn mặt ngắn bè bè, hay Percey Clay – cô gái chỉ có một điểm duy nhất hấp dẫn đàn ông là món tiền kếch sù từ kinh doanh thuốc lá của ông bố. Không còn Per-ceee Mặt chó pug, Percey Xấu xí, Percey Quỷ lùn, con bé tóc đen khốn khổ vật lộn với đôi găng tay điệu đàng trong buổi khiêu vũ mừng tuổi thiếu nữ của chính mình, trên cánh tay của người anh họ như chết rồi vì xấu hổ, xung quanh là những cô nàng tóc vàng yểu điệu đang hất đầu về phía cô với nụ cười thích thú và thi nhau chỉ trỏ chuẩn bị cho một bữa tiệc đàm tiếu sau này.
Đó không phải là Percey Clay thực sự.
Đây mới đúng là cô.
Lại một tiếng thở khó nhọc của Roland Bell. Chắc chắn anh đã nhòm trộm ra ngoài ra rèm cửa sổ trong lúc họ thực hiện cú nghiêng cánh đáng sợ.
“Đài Kiểm soát Rời đi[102] của Sân bay Mamaroneck, Lear 95 Foxtrot Bravo đang gọi từ độ cao ngoài 2000 feet.”
“Xin chào, 95 Foxtrot Bravo. Tiếp tục bay lên và duy trì ở độ cao 6000 feet.”
Và sau đó họ bắt đầu công việc rất nhàm chán là thiết lập đường liên lạc hoa tiêu bằng sóng VOR[103] cao tần để được hướng dẫn đường bay tới Chicago thẳng tắp như đường tên bay của một võ sĩ samurai.
Ở độ cao 6000 feet họ bay xuyên qua lớp mây bao phủ để hoà vào cảnh bầu trời kỳ vĩ như bất kỳ cảnh mặt trời lặn nào mà Percey từng chứng kiến. Mặc dù không hẳn là người yêu thích cuộc sống ngoài trời, cô vẫn chưa bao giờ thấy chán khi nhắm nhìn những khung cảnh bầu trời tuyệt đẹp. Percey tự cho phép mình chỉ nghĩ đến một cảm xúc ủy mị duy nhất – kể sẽ rất tốt nếu như khung cảnh cuối cùng mà Ed nhìn thấy cũng ngoạn mục như lúc này.
Chú thích
[102] Đài Kiểm soát Rời đi: Đài Kiểm soát không lưu ở sân bay vừa cất cánh.
[103] VOR: Tức sóng radio cao tần có tác dụng theo mọi hướng.
Ở độ cao 21000 feet cô nói, “Máy bay của cậu đấy”.
Brad trả lời, “Rất sẵn sàng”.
“Cà phê nhé?”
“Có một chút thì tốt.”
Cô bước về phía sau của chiếc máy bay, rót lấy ba cốc cà phê, chuyển một cốc cho Brad, rồi ngồi xuống bên cạnh Roland Bell, viên cảnh sát cầm lấy cốc cà phê trong hai bàn tay run rẩy.
“Anh cảm thấy thế nào?”, cô nói.
“Cũng không hẳn là tôi bị say máy bay. Chẳng qua là tôi thấy” – anh nhăn mặt khổ sở – “hừm, hồi hộp như thể…”. Có lẽ phải có đến cả nghìn cách so sánh sinh động kiểu Tarheel để lựa chọn, nhưng không hiểu sao lần này cái cách nói miền Nam dí dỏm cũng bỏ anh đi mất. “Chỉ là hồi hộp”, anh kết luận.
“Hãy nhìn kìa”, cô nói, và chỉ ra ngoài cửa sổ buồng lái.
Anh rướn người về phía trước trong ghế của mình và nhìn ra ngoài cửa kính. Cô thích thú nhìn khuôn mặt nhăn nhó của anh bỗng dãn ra sáng bừng vì kinh ngạc khi họ đang bay vào giữa khung cảnh hoàng hôn vô tận.
Bell trầm trồ. “Chà, tuyệt thật. Hãy nhìn mà xem… Nhưng cũng phải nói thật, hình như đó là một cú cất cánh hơi gấp gáp quá thì phải.”
“Nó là một con chim hết sảy đấy chứ. Anh có bao giờ nghe nói đến Brooke Knapp không?”
“Tôi không nghĩ là mình đã nghe rồi.”
“Một nữ doanh nhân ở California. Người lập kỷ lục về bay vòng quanh thế giới trong thời gian ngắn nhất bằng một chiếc Lear 35A – cũng là loại máy bay mà chúng ta đang bay lúc này. Bà ấy bay mất tất cả hơn 50 giờ một chút. Sẽ có ngày tôi phá kỷ lục đó.”
“Điều đó thì tôi không nghi ngờ.” Lúc này anh đã bình tĩnh hơn. Mắt hướng vào những thiết bị điều khiển. “Trông có vẻ phức tạp kinh khủng nhỉ?”
Cô nhấp một ngụm cà phê. “Có một mẹo nhỏ trong khi bay mà chúng tôi không nói cho ai biết. Có thể coi đó là một bí quyết nhà nghề. Nó đơn giản hơn rất nhiều so với những gì anh nghĩ đấy.”
“Như thế nào?”, anh sốt sắng hỏi. “Bí quyết đó là gì?”
“À, hãy nhìn ra ngoài nhé. Anh có nhìn thấy những ánh đèn màu ở hai đầu cánh máy bay không?”
Anh không muốn nhìn lắm, nhưng rồi cũng tò mò làm theo. “OK, tôi thấy rồi.”
“Có cả một cái đèn ở phần đuôi nữa.”
“Ừ hứ. Nhớ là tôi đã nhìn thấy nó rồi thì phải, tôi nghĩ thế.”
“Tất cả những gì chúng tôi phải làm là luôn đảm bảo làm sao chúng tôi có thể giữ cho máy bay ở giữa những chiếc đèn kia và mọi chuyện sẽ đâu vào đấy.”
“Ở giữa…” Phải mất vài giây anh mới chợt hiểu đó là một câu nói đùa. Anh chằm chằm nhìn bộ mặt tỉnh bơ của cô hồi lâu rồi mỉm cười. “Cô đánh lừa được khối người bằng trò này, đúng không?”
“Cũng kha khá.”
Nhưng trò đùa đó cũng không thực sự làm anh thấy thích thú hơn. Mắt anh vẫn dán chặt xuống lớp thảm trải sàn. Sau một hồi in lặng kéo dài cô khẽ nói, “Brit Hale hoàn toàn có thể từ chối ngay từ đầu, Roland ạ. Anh ấy hiểu rõ những nguy hiểm mà”.
“Không, anh ấy không biết”, Bell trả lời. “Hoàn toàn không. Anh ấy đồng ý làm theo những gì chúng tôi toan tính trong đầu mà không hoàn toàn hiểu rõ chuyện gì đang xảy ra. Lẽ ra tôi đã phải suy nghĩ khôn ngoan hơn. Lẽ ra tôi đã phải đoán ra chuyện liên quan đến những chiếc xe cứu hoả. Lẽ ra tôi đã phải đoán được rằng tên giết người sẽ biết phòng của hai người ở đâu. Lẽ ra tôi đã có thể đưa hai người xuống tầng hầm, hoặc nơi nào đó. Và lẽ ra tôi phải bắn chính xác hơn.”
Bell có vẻ tuyệt vọng đến nỗi Percey không nghĩ ra được điều gì để an ủi anh. Cô đặt bàn tay đầy gân của mình lên cánh tay anh. Trông anh có vẻ gầy, nhưng thực tế thì anh rất khoẻ mạnh.
Đột nhiên anh khẽ bật cười. “Cô có biết chuyện này không?”
“Chuyện gì?”
“Đây là lần đầu tiên tôi thấy cô tạm gọi là thoải mái nhất kể từ khi tôi gặp cô đến giờ.”
“Đây là nơi duy nhất tôi cảm thấy thực sự thoải mái như ở nhà”, cô nói.
“Chúng ta đang bay với vận tốc 200 dặm một giờ và cách mặt đất cả dặm vậy mà cô lại cảm thấy an toàn”, Bell thở dài.
“Không, chúng ta đang bay với vận tốc 400 dặm một giờ, ở độ cao bốn dặm.”
“Ra thế. Cảm ơn vì đã chia sẻ điều đó.”
“Có một câu mà cánh phi công vẫn nói”, Percey nói. ‘“Thánh Peter[104] không bao giờ đếm quãng thời gian cho việc bay, nhưng ông tính gấp đôi số giờ bạn dành ở trên mặt đất.”’
“Buồn cười đấy”, Bell nói. “Chú tôi cũng nói một câu tương tự như thế. Chỉ có điều ông dùng câu này khi nói về thú đi câu của mình thôi. Dù thế nào tôi cũng bỏ phiếu ủng hộ phiên bản của ông ấy hơn là cô. Đừng có tự ái đấy.”
Chú thích
[104] Thánh Peter: Được coi là người gác cổng vào thiên đường, và sẽ căn cứ vào những việc tốt hoặc tội lỗi của các linh hồn rồi đưa ra quyết định liệu họ có xứng đáng được sống ở thiên đường hay không.