Vợ Người Du Hành Thời Gian

Chương 9: Giáng sinh, ba


Chương trước Chương tiếp

Thứ Ba, thứ Tư, thứ Năm, 24, 25, 26/12/1991 (Clare 20 tuổi, Henry 28 tuổi)

CLARE: 8 giờ 32 phút sáng ngày 24 tháng Mười Hai, tôi và Henry đang trên đường đến biệt thự Sáo Bắc Mỹ cho kỳ nghỉ Giáng Sinh. Hôm nay là một ngày sáng đẹp, ở Chicago lúc này không có tuyết, nhưng ở Nam Haven, tuyết rơi dày sáu inch. Trước khi lên đường, Henry đã dành thời gian bảo trì xe, kiểm tra lốp và nhìn cả vào đầu máy. Tôi không nghĩ anh ấy biết mình đang nhìn gì một chút nào. Xe của tôi là một chiếc Honda Civic năm 1990 màu trắng đáng yêu, và tôi rất thích nó, nhưng Henry cực kỳ ghét đi xe, đặc biệt là những chiếc xe nhỏ. Anh ấy là một hành khách khó tính, lúc nào cũng bám chặt lấy tay vịn trên ghế và đạp thắng mỗi khi chúng tôi vượt qua xe ai đó. Có lẽ anh ấy sẽ bớt sợ nếu có thể cầm lái, nhưng vì một số lý do hiển nhiên, Henry không có bằng lái. Vậy nên chúng tôi rong ruổi dọc cao tốc Indiana trong ngày mùa đông đẹp trời này; tôi thì điềm tĩnh và mong đợi được gặp gia đình, còn Henry thật vô phương cứu chữa. Chưa kể sáng nay anh ấy đã không tập chạy; tôi nhận ra rằng Henry cần một lượng lớn hoạt động thân thể mọi lúc để có thể trở nên vui vẻ. Giống như thể đi chơi cùng chó săn nhỏ. Ở bên Henry trong thời gian thực thật khác. Khi tôi còn nhỏ, Henry đến rồi đi, và những lần chúng tôi gặp mặt đều tập trung, kịch tính và đáng lo nghĩ. Có rất nhiều điều Henry đã chẳng nói cho tôi, và hầu hết mọi thời gian anh ấy không chịu để tôi lại gần, nên tôi luôn có cảm giác không thỏa mãn mãnh liệt. Khi cuối cùng cũng tìm được anh ấy ở hiện tại, tôi những tưởng nó cũng sẽ như vậy. Nhưng không, nó tuyệt hơn nhiều, ở nhiều mặt. Điểm đầu tiên và quan trọng nhất là thay vì từ chối đụng vào tôi, Henry lại không ngừng chủ động lại gần, hôn tôi và quan hệ cùng tôi. Tôi cảm thấy như mình đã trở thành một con người khác, một người được tắm trong hồ nước của dục vọng. Và anh ấy kể cho tôi nghe nhiều thứ. Bất kể điều gì tôi hỏi anh ấy về bản thân, cuộc sống và gia đình, anh ấy đều kể cho tôi nghe, với đầy đủ tên, địa chỉ, và ngày tháng. Những điều đã có vẻ kì bí khi tôi còn là một đứa trẻ giờ đây trở nên hoàn toàn hợp lý. Nhưng điều tuyệt vời hơn hết thảy là tôi được gặp anh trong khoảng thời gian dài - hàng giờ, hàng ngày. Tôi biết phải tìm anh ở đâu. Anh ấy đi làm, rồi trở về nhà. Đôi lúc, tôi mở sổ địa chỉ ra và cứ nhìn đăm đăm vào: Henry DeTamble, 714 Dearborn, lie, Chicago, IL 60610, 312-431-8313. Họ tên, địa chỉ và số điện thoại. Tôi có thể gọi điện cho anh. Đây là một phép màu. Tôi cảm thấy như Dorothy, khi ngôi nhà của cô ấy hạ cánh xuống Oz và thế giới chuyển sang chỉ có màu trắng và đen. Chúng tôi không còn ở Kansas nữa.

Thực tế, chúng tôi đang chuẩn bị vào tới Michigan, và có một trạm nghỉ phía trước. Tôi tấp xe vào bãi đỗ, rồi chúng tôi ra ngoài và duỗi tay chân. Chúng tôi bước vào trong tòa nhà, có nhiều bản đồ, tờ rơi cho khách du lịch, và một dãy dài những chiếc máy bán hàng tự động.

“Ồ”, Henry nói. Anh ấy lại gần và xem xét đống đồ ăn tạp nhạp, rồi bắt đầu đọc bộ sách quảng cáo. “Hãy đi đến Frankenmuth nhé! 365 ngày Giáng Sinh mỗi năm! Chúa ơi, anh sẽ tự mổ bụng chỉ sau nửa giờ đồng hồ ở đó. Em có tiền lẻ không?”

Tôi tìm thấy một nắm tiền lẻ ở đáy túi xách và chúng tôi hân hoan dùng chúng để mua hai lon Cô-ca, một hộp Good & Plenty, và một thỏi Hershey. Chúng tôi bước trở ra không khí khô lạnh, tay trong tay. Chúng tôi ngồi trong xe, mở nắp cô-ca và hấp thu các món đường. Henry nhìn đồng hồ của tôi nói, “Thật suy đồi. Mới chỉ có 9 giờ 15.”

“Một vài phút nữa sẽ là 10 giờ 15.”

“Ồ phải. Thời gian ở Michigan sớm hơn 1 tiếng. Thật không tưởng.”

Tôi nhìn anh ấy. “Mọi thứ đều không tưởng. Em không thể tin anh thực sự đang trên đường đến gặp gia đình em. Em đã mất biết bao thời gian để che giấu anh khỏi họ.”

“Chỉ vì yêu mến em nên anh mới làm thế này. Anh đã dành biết bao thời gian lảng tránh những chuyến đi đường dài, gặp gỡ gia đình bạn gái vào Giáng Sinh. Việc anh đang làm cả ba điều một lúc chứng tỏ anh yêu em biết nhường nào.”

“Henry…” Tôi quay sang phía anh ấy; chúng tôi hôn nhau. Nụ hôn chuyển sang thứ gì đó nhiều hơn thế khi tôi nhìn thấy qua khóe mắt ba cậu bé còn chưa dậy thì và con chó to lớn đang đứng cách chúng tôi chỉ vài thước, nhìn chúng tôi với vẻ thích thú. Henry quay sang để xem tôi đang nhìn gì và cả ba cậu bé mỉm cười rồi ra dấu tán thưởng. Chúng đi nước kiệu về phía xe tải nhỏ của bố mẹ chúng.

“Nhân tiện, việc nghỉ ngơi ở nhà em được sắp xếp như thế nào nhỉ?”

“Ồ. Hôm qua Etta gọi cho em về chuyện đó. Em sẽ ở phòng riêng của em còn anh ở phòng màu xanh. Chúng ta ở hai đầu hành lang, phòng của bố mẹ em và Alicia ở giữa.”

“Và chúng ta quyết tâm nghe theo sự sắp xếp này đến khi nào?”

Tôi khởi động xe và chúng tôi trở lại xa lộ. “Em không biết vì em chưa từng làm việc này bao giờ. Mark thường đưa các cô bạn gái của anh ấy xuống phòng tập và quan hệ với họ trên ghế bành trong vài giờ. Tất cả mọi người giả vờ như không biết. Nếu chuyện trở nên khó khăn, chúng ta lúc nào cũng có thể xuống phòng đọc; em vẫn thường giấu anh dưới đó mà.”

Henry nhìn ra ngoài cửa sổ. “Việc này cũng không đến nỗi tệ.”

“Việc gì cơ?”

“Đi đường. Trong xe. Trên xa lộ.”

“Chao ôi! Tiếp theo anh sẽ dám đặt chân lên máy bay.”

“Không bao giờ.”

“Paris. Cairo. London. Kyoto.”

“Không đời nào. Anh luôn tin rằng mình sẽ biến mất khi đang ở trên máy bay và chỉ có Chúa mới biết anh có thể hiện hình trở lại trên một con chim đang phóng đi với tốc độ 350 dặm một giờ hay không. Anh sẽ rơi từ trên trời xuống như Icarus.”

“Thật sao?”

“Chắc chắn anh sẽ không kiểm chứng.”

“Anh có thể đi đến những nơi đó bằng cách đi xuyên thời gian không?”

“Giả thiết của anh là, nhớ, đây chỉ là giả thiết đặc biệt về du hành thời gian với tư cách người du hành trải nghiệm Henry DeTamble chứ không phải giả thiết chung về du hành thời gian đâu nhé.”

“Được rồi.”

“Đầu tiên, anh nghĩ đó là vấn đề não bộ. Anh nghĩ nó rất giống với chứng động kinh, vì nó có xu hướng xảy ra khi anh bị áp lực, và có một số tín hiệu vật chất, như đèn chớp, có thể dẫn đến việc du hành. Và vì những việc như chạy bộ, tình dục và thuốc có thể giúp anh bám trụ lại với hiện tại. Thứ hai, anh hoàn toàn không có khả năng điều khiển nơi chốn và thời gian sẽ đến, hay độ dài của mỗi cuộc hành trình, hay khi nào sẽ trở lại. Vậy nên du lịch thời gian vòng quanh vùng duyên hải miền nam châu Âu hiếm có thể xảy ra. Nói vậy vì tiềm thức của anh có vẻ can thiệp rất nhiều vào chuyện kiểm soát du hành, vì anh dành rất nhiều thời gian trong quá khứ của mình, quay trở lại những sự kiện thú vị hoặc quan trọng, hiển nhiên anh sẽ dành một khoảng thời gian tương đối để ghé thăm em, mà anh đang rất nóng lòng chờ đợi. Anh có khuynh hướng đi tới những nơi ngẫu nhiên. Nhưng về cơ bản, anh có xu hướng trở về quá khứ nhiều hơn là đi tới tương lai.”

“Anh đã đi tới tương lai? Em không biết anh có thể làm vậy.”

Henry trông có vẻ thỏa mãn với chính mình. “Cho đến giờ, phạm vi của anh dao động trong khoảng 50 năm theo mỗi chiều. Nhưng rất ít khi anh đi đến tương lai, và anh không nghĩ mình có thể thấy gì hữu ích ở đó. Nó luôn ngắn ngủi. Và có thể tại vì anh không biết mình đang nhìn gì. Quá khứ kéo anh lại nhiều hơn. Khi ở trong quá khứ, anh cảm thấy chắc chắn hơn. có lẽ vì bản thân tương lai ít ổn định hơn? Anh không biết. Anh luôn có cảm giác không khí loãng hơn ở tương lai: cảm giác khác biệt. Khó hơn để chạy ở đó.” Henry trầm ngâm nói những điều này, và bất chợt tôi có cảm giác kinh hãi thoáng qua vì phải ở những nơi, những thời điểm xa lạ, không quần áo, không bạn bè…

“Đó là lý do vì sao chân anh…”

“Như da thuộc.” Lòng bàn chân Henry có những vết chai sạn dày, như thể chúng đang cố gắng biến thành một đôi giày. “Anh là con quỷ móng guốc. Nếu có chuyện gì xảy ra với chân anh thì bắn chết anh luôn cho rồi.”

Chúng tôi lái xe trong im lặng một hồi. Xa lộ nhấp nhô, cao lên rồi hạ xuống, những cánh đồng ngập xác ngô chết vụt qua mặt. Các nông trang đứng tắm trong ánh nắng mùa đông, những chiếc xe tải nhỏ, xe ngựa kéo và ô tô xếp dọc trên đường vào nhà. Tôi thở dài. Về thăm gia đình thật là một trải nghiệm lăn lộn. Tôi nóng lòng muốn gặp Alicia và Etta, tôi lo lắng cho mẹ và không muốn phải đối mặt với bố và Mark. Nhưng tôi tò mò muốn biết họ sẽ đối mặt với Henry, cũng như anh ấy sẽ đối mặt với họ như thế nào. Tôi tự hào vì đã giữ Henry như một bí mật trong suốt thời gian dài như vậy. Suốt 14 năm. Khi bạn là một đứa trẻ, 14 năm là bất tận.

Chúng tôi đi qua Wal-Mart, Dairy Queen, McDonald’s, nhiều cánh đồng ngô khác, một vườn cây ăn quả. Vườn dâu tây, vườn cây việt quất cho khách tự hái. Vào mùa hè, con đường này là một hành lang dài của hoa quả, ngũ cốc và chủ nghĩa tư bản. Nhưng giờ những cánh đồng đã chết và khô cằn; xe cộ chỉ biết tăng tốc dọc con đường cao tốc lạnh đầy nắng và lờ đi các bãi đỗ xe đang vẫy gọi.

Tôi chưa bao giờ nghĩ nhiều về Nam Haven cho tới khi chuyển đến Chicago. Nhà của chúng tôi lúc nào cũng như một hòn đảo, nằm trong khu vực tư nhân, bao quanh bởi đồng cỏ, vườn cây ăn quả, rừng và nông trại, còn Nam Haven chỉ là thị trấn, như trong Hãy đi đến thị trấn và mua kem nhé. Thị trấn là cửa hàng tạp hóa, là tiệm dụng cụ đồ bếp, cửa hàng bánh ngọt Mackenzie và cửa hàng băng đĩa, nhạc phổ ở trung tâm mua sắm Music, cửa hàng ưa thích của Alicia. Chúng tôi thường đứng trước tiệm ảnh của Appleyard và vẽ lên những câu chuyện về các cô dâu, các cậu bé sơ sinh và các gia đình đang nở nụ cười khó ưa sau ô cửa sổ. Chúng tôi đã không nghĩ thư viện trông buồn cười trong vẻ tráng lệ nhái Hi Lạp của nó, hay đã không thấy việc nấu nướng thật tẻ nhạt và hạn chế, hay các bộ phim ở Michigan thật đơn giản. Những suy nghĩ này xuất hiện về sau này, khi tôi đã trở thành một cư dân của thành phố, một người xa quê khắc khoải ngăn cách chính mình khỏi những cung cách quê mùa thời tuổi trẻ của cô ấy. Một nỗi luyến tiếc cho cô gái nhỏ là tôi, người đã yêu những cánh đồng và tin vào Chúa, người đã dành những ngày nghỉ ốm mùa đông ở nhà đọc Nancy Drew và mút từng giọt thuốc ho vị bạc hà, người có thể giữ bí mật. Tôi liếc nhìn Henry và thấy anh đã lăn ra ngủ.

Nam Haven, 50 dặm.

Hai mươi dặn, mười hai, ba, một.

Đường Phoenix.

Cao tốc Blue Star.

Và rồi: ngõ Meagram. Tôi với tay sang đánh thức Henry nhưng anh ấy đã tỉnh từ lâu. Anh ấy mỉm cười lo lắng và nhìn ra cửa sổ tới đường hầm hun hút những ngọn cây trơ trọi giữa mùa đông trong lúc chúng tôi rầm rập tiến tới. Khi cánh cửa ló dạng, tôi dò dẫm trong ngăn đựng đồ nhỏ trên xe để tìm điều khiển, rồi cánh cửa bật ra và chúng tôi đi qua nó.

Căn nhà hiện ra như bật lên từ trang sách. Henry há hốc miệng, rồi bắt đầu phá lên cười.

“Sao vậy?” Tôi hỏi.

“Anh không nghĩ nó khổng lồ đến thế. Con quái vậy này có tất cả bao nhiêu phòng?”

“Hai mươi tư”, tôi trả lời anh ấy. Etta đang vẫy tay với chúng tôi từ cửa sổ đại sảnh trong lúc tôi đi vòng quanh con đường và dừng lại trước cửa chính. Tóc bà đã bạc nhiều hơn so với lần cuối tôi ở nhà, nhưng mặt bà đang ửng hồng trong niềm hân hoan. Trong lúc chúng tôi trèo ra khỏi xe, Etta thận trọng bước xuống những bậc thang phủ băng, bà không mặc áo choàng, chỉ độc chiếc váy màu xanh nước biển với cổ viền ren, thận trọng giữ thăng bằng cho thân thể mập mạp trên đôi giày bệt. Tôi chạy lại định đỡ tay bà nhưng bà xua tôi ra cho đến khi xuống bậc thềm cuối cùng rồi ôm lấy tôi và hôn (tôi ngửi mùi Noxzema và mùi phấn của Etta một cách hân hoan) trong lúc Henry đứng bên cạnh, chờ đợi. “Và chúng ta có gì ở đây thế này?” bà nói như thể Henry là cậu bé tôi mang theo về mà không báo trước. “Etta Milbauer, Henry DeTamble”, tôi giới thiệu. Tôi nhìn thấy vẻ “Ồ” thoáng qua trên mặt Henry và tôi tự hỏi không biết anh ấy đã nghĩ bà là ai? Etta cười toét miệng với Henry trong lúc chúng tôi trèo lên bậc thềm. Henry hạ giọng và hỏi tôi, “Đồ đạc chúng ta thì thế nào?” tôi bảo anh ấy rằng Peter sẽ lo việc đó. “Mọi người đâu hết ạ?” tôi hỏi, Etta bảo rằng bữa trưa sẽ được chuẩn bị trong 15 phút nữa, chúng tôi có thể cởi áo khoác ngoài, đi rửa ráy rồi vào dùng bữa. Bà bỏ chúng tôi đứng giữa tiền sảnh rồi lẩn vào bếp. Tôi quay người, cởi áo khoác và treo nó trong tủ quần áo ở tiền sảnh. Khi tôi quay người lại Henry đang vẫy tay với ai đó. Tôi liếc nhìn xung quanh anh ấy và nhận ra Nell đang thò khuôn mặt với cái mũi hếch, to kềnh ra từ cửa phòng ăn, mỉm cười và tôi chạy lại trao cho bà một nụ hôn sướt mướt, bà khúc khích cười với tôi, nói, “Một anh chàng đẹp trai đấy, đồ khỉ cái”, rồi lại lẩn vào phòng trước khi Henry có thể đuổi kịp chúng tôi.

“Nell?” anh ấy đoán và tôi gật đầu. “Không phải bà xấu hổ đâu, chỉ bận thôi”, tôi giải thích. Tôi dẫn anh ấy tới cầu thang hậu lên tầng hai. “Anh sẽ ở đây”, tôi bảo anh ấy, mở cửa căn phòng ngủ màu xanh. Anh ấy nhìn vào trong rồi theo tôi xuống cuối hành lang. “Đây là phòng của em”, tôi bồn chồn nói và Henry lách qua tôi, đứng giữa tấm thảm trải sàn, chỉ nhìn quanh và khi anh ấy quay qua tôi, tôi biết anh ấy chẳng nhận ra thứ gì; không có gì trong căn phòng này có ý nghĩa gì với anh ấy, và con dao của sự nhận thức cứa sâu hơn vào tôi: tất cả những kỷ vật trong bảo tàng quá khứ này của chúng tôi giống như những bức thư tình được gửi tới cho một người không biết chữ. Henry cầm một tổ chim hồng tước lên (đó tình cờ là tổ chim đầu tiên trong rất nhiều tổ chim mà anh ấy đã đưa cho tôi suốt nhiều năm trời) và nói, “Thú vị đấy”. Tôi gật đầu, rồi mở miệng nói cho anh ấy biết và anh ấy đặt nó trở lại trên giá, nói, “Cửa này có thể khóa không?” Tôi vặn ổ khóa và chúng tôi muộn giờ ăn trưa.

HENRY: Tôi điềm tĩnh đi theo Clare xuống cầu thang, qua hành lang tối lạnh và đi vào phòng ăn. Mọi người đều đã đang dùng bữa. Căn phòng thấp trần và thoải mái theo kiểu William Morris; không khí ấm áp tỏa ra từ ngọn lửa bập bùng trong một chiếc lò sưởi nhỏ; và những ô cửa sổ mờ đi vì băng giá đến nỗi tôi không thể nhìn thấy gì bên ngoài. Clare lại gần một người phụ nữ gầy với mái tóc đỏ nhạt mà chắc hẳn là mẹ của cô ấy, người đang nghiêng đầu đón nụ hôn của Clare, người khẽ nhướn người đứng lên để bắt tay tôi. Clare giới thiệu với tôi bà ấy là “mẹ em” và tôi gọi bà là “cô Abshire”, ngay lập tức bà nói, “Ồ, nhưng cháu phải gọi ta là Lucille, ai cũng gọi vậy cả”, rồi mỉm cười mệt mỏi nhưng nồng hậu, như thể bà là mặt trời rực rỡ ở một thiên hà khác. Chúng tôi ngồi xuống đối diện nhau. Clare ngồi giữa Mark và một người phụ nữ luống tuổi, bà dì Dulcie; còn tôi ngồi giữa Alicia và một cô gái tóc vàng xinh đẹp bụ bẫm, người được giới thiệu với cái tên Sharon và có vẻ như đi cùng Mark. Bố của Clare ngồi ở đầu bàn và ấn tượng đầu tiên của tôi về ông là ông có vẻ cực kỳ bối rối khi nhìn thấy tôi. Anh chàng đẹp trai ngỗ ngược Mark cũng có vẻ cùng cảm xúc. Họ đã nhìn thấy tôi trước đó. Tôi tự hỏi mình đã làm gì để họ phải chú ý, nhớ và giật nảy mình có thoáng chút ác cảm khi Clare giới thiệu tôi, Nhưng Philip Adshire là một luật sư, một bậc thầy biểu cảm, nên chỉ chưa đến một phút sau ông ấy đã trở nên nhã nhặn và mỉm cười, đã là chủ nhà, là bố của bạn gái tôi, một người trung niên đang dần hói với cặp kính rộng bản và một thân thể cường tráng đã trở nên mềm nhũn và phì nộn, nhung có đôi bàn tay mạnh mẽ, bàn tay của một người chơi tennis, đôi mắt xám vẫn nhìn tôi cảnh giác bất kể nụ cười kín đoán. Mark gặp khó khăn trong việc che đậy nỗi bất an của mình, và cứ mỗi lần tôi bắt gặp ánh mắt của anh ta là anh ta lại nhìn vội xuống đĩa của mình. Alicia không giống với những gì tôi hình dung; con bé thẳng tính và tốt bụng, nhưng hơi kỳ quái, bất thần. Con bé có mái tóc sẫm của Philip, giống Mark, và đường nét của Lucille, tương đối; Alicia trông như thể ai đó tìm cách dung hòa giữa Clare và Mark nhưng bỏ cuộc nên ném Eleanor Roosevelt vào thay thế. Philip nói gì đó và Alicia cười, đột nhiên con bé trở nên đáng yêu. Tôi quay sang con bé, ngạc nhiên khi thấy nó đứng dậy khỏi bàn.

“Em phải đi đến St.Basil’s”, con bé cho tôi biết. “Em có buổi tập dượt. Anh sẽ đến nhà thờ chứ?” Tôi liếc nhanh sang Clare, cô ấy khẽ gật đầu, rồi tôi bảo Alicia, “Dĩ nhiên rồi”. Mọi người thở dài vẻ… nhẹ nhõm? Theo tôi nhớ Giáng Sinh là một ngày lễ Cơ Đốc, bên cạnh việc là ngày chuộc tội của cá nhân tôi. Alicia bỏ đi. Tôi hình dung ra mẹ đang cười vào tôi, cặp lông mày tỉa cẩn thận của bà nhướn lên cao trước cảnh cậu con trai nửa Do Thái của bà lạc lõng giữa kỳ Giáng Sinh ở Goyland, và tôi lắc ngón tay về phía bà. Mẹ mà cũng cười sao, tôi bảo bà. Mẹ đã cưới một người theo đạo Tân giáo. Tôi nhìn xuống đĩa của mình; nó gồm thịt lợn muối, đậu và lèo tèo chút salad. Tôi không ăn thịt lợn và tôi ghét đậu.

“Clare nói với chúng tôi cậu là một thủ thư.” Philip dò hỏi, tôi thừa nhận rằng đúng là vậy. Chúng tôi có một cuộc thảo luận nho nhỏ sôi động về Newberry và các ủy viên quản trị của Newberry, những người đồng thời là khách hàng của hãng luật của Philip mà hóa ra có trụ sở tại Chicago khiến tôi không rõ tại sao gia đình Clare lại sống tận Michigan này.

“Các biệt thự mùa hè”, ông ấy giải thích, rồi tôi nhớ ra Clare đã nói với tôi rằng bố cô ấy chuyên về di chúc và các khoản quỹ. Tôi tưởng tượng ra cảnh các bô lão giàu có nằm trên bãi biển tư nhân của họ, tắm mình trong kem chống nắng, quyết định cắt con cháu ra khỏi di chúc và với tay lấy điện thoại gọi cho Philip. Rồi tôi nhớ ra đồng nghiệp của bố tôi trong dàn nhạc giao hưởng Chicago có một căn nhà đâu đó gần đây. Tôi đề cập đến điều này và tai của mọi người vểnh lên.

“Cậu có biết ông ấy không?” Lucille hỏi.

“Chắc rồi. Ông ấy và bố cháu ngồi cạnh nhau.”

“Ngồi cạnh nhau?”

“Cô biết đấy, violin chính và thứ.”

“Bố cậu là nghệ sĩ violin?”

“Vâng.” Tôi quay sang Clare, người đang nhìn mẹ cô ấy chằm chằm với vẻ đừng làm con xấu hổ trên mặt.

“Và ông ấy chơi cho dàn nhạc giao hưởng Chicago?”

“Phải.”

Mặt của Lucillie ngập trong màu hồng; giờ thì tôi đã biết Clare thừa hưởng vẻ ngượng ngùng của cô ấy từ ai. “Cậu có nghĩ ông ấy sẽ lắng nghe Alicia chơi nếu chúng tôi đưa cho ông ấy cuộn băng ghi âm?”

Tôi hy vọng rằng Alicia chơi cực kì, cực kì giỏi. Mọi người vẫn thường gửi băng thu âm tới cho bố tôi. Rồi tôi có một ý tưởng khác hay hơn.

“Alicia chơi vi-ô-lông-cen phải không?”

“Phải.”

“Cô ấy có đang tìm thầy dạy chăng?”

Philip xen vào, “Con bé đang học với Frank Wainwright ở Kalamazoo.”

“Cháu có thể đưa băng ghi âm cho Yoshi Akawa. Một trong những học trò của ông ấy vừa nghỉ để nhận việc ở Paris.” Yoshi là một người tuyệt vời và là vi-ô-lông-cen chính. Tôi biết ít nhất ông ấy sẽ lắng nghe đoạn băng; bố tôi, người không hề dạy dỗ, sẽ đơn giản chỉ ném nó đi. Lucille rất hứng khởi; thậm chí cả Philip cũng có vẻ hài lòng. Clare trông nhẹ nhõm. Mark vẫn ăn. Bà dì Dulcie, nhỏ xíu và có mái tóc hồng, hoàn toàn mù tịt về vụ trao đổi này. Có lẽ bà bị điếc? Tôi nhìn sang Sharon, người đang ngồi bên tay trái của tôi và vẫn chưa hé răng nói nửa lời. Cô ấy có vẻ khổ sở. Philip và Lucille đang thảo luận nên đưa cho tôi cuộn băng nào, hay có lẽ Alicia nên thu một cuộn băng mới? Tôi hỏi Sharon có phải lần đầu tiên cô ấy đến đây không và cô ấy gật đầu. Đúng lúc tôi định hỏi tiếp thì Philip hỏi tôi mẹ tôi làm nghề gì và tôi nháy mắt; tôi nhìn Clare như muốn nói Em chưa kể cho họ nghe bất cứ điều gì sao?

“Mẹ cháu từng là ca sĩ. Bà đã qua đời.”

Clare nói khẽ, “Mẹ của Henry là Annette Lyn Robinson”. Chẳng thà cô ấy cứ bảo mẹ tôi là Đức mẹ đồng trinh Marry; mặt Philip bừng sáng. Lucille khua tay xúc động.

“Thật không thể tin nổi - thật tuyệt vời! Chúng ta có tất cả các đĩa nhạc của bà ấy…” và một tràng dài nữa. Nhưng rồi Lucille nói, “Cô đã được gặp bà ấy khi cô còn trẻ. Bố cô đã đưa cô đi xem Madame Butterfly, và người quen của ông dẫn chúng ta ra phía sau sân khấu khi màn trình diễn kết thúc, chúng ta đi đến phòng thay đồ của bà, và bà ấy đang ở trong đó, với hàng đống hoa được tặng! Có một cậu bé trong đó… đó là cậu!”

Tôi gật đầu, cố tìm lại giọng nói của mình, Clare hỏi, “Bác ấy trông như thế nào?”

Mark nói, “Trưa nay chúng ta sẽ đi trượt tuyết chứ?” Philip gật đầu. Lucille mỉm cười, chìm trong ký ức. “Bà ấy đẹp tuyệt vời, vẫn đội nguyên tóc giả, một mái tóc đen dài, và bà ấy đang dùng nó để giỡn với cậu bé, thọc lét cậu bé, và cậu bé nhảy quanh phòng. Bà ấy có đôi tay thật đáng yêu, bà ấy chỉ cao cỡ ta, rất mảnh mai, và là người Do Thái, nhưng ta nghĩ bà ấy giống người Ý hơn…” Lucille bất ngờ ngừng lại và đưa một tay lên che miệng, mắt nhìn vào cái đĩa trống trơn chỉ còn vài hạt đậu.

“Cậu có theo đạo Do Thái?” Mark thích thú hỏi.

“Tôi đoán vậy, nếu tôi muốn, nhưng chưa ai từng bàn rõ chuyện này. Mẹ tôi mất khi tôi lên sáu, và bố tôi vốn theo đạo Tân giáo.”

“Trông cậu giống hệt bà ấy”, Lucille nói, và tôi cảm ơn. Đĩa của chúng tôi được Etta dọn đi, bà hỏi Sharon và tôi có muốn uống cà phê không. Cả hai chúng tôi đồng thanh nói Có, dứt khoát đến nỗi cả nhà Clare bật cười. Etta nở một nụ cười mẫu tử với chúng tôi rồi vài phút sau bà đặt cà phê trước mặt chúng tôi, và tôi nghĩ Cũng không quá tệ. Mọi người nói chuyện về trượt tuyết, về thời tiết; tất cả chúng tôi đều đang đứng, Philip và Mark dẫn nhau đi xuống hành lang; tôi hỏi Clare nếu cô ấy muốn đi trượt tuyết, cô ấy nhún vai và hỏi tôi có muốn đi không, tôi giải thích rằng tôi không biết trượt và không có hứng học. Cô ấy vẫn quyết định đi sau khi nghe Lucille nói bà ấy cần người giúp đi ván trượt. Trong lúc đi lên lầu tôi nghe tiếng Mark nói, “... giống nhau đến lạ thường…” và tôi mỉm cười một mình.

Sau khi mọi người đã rời đi và căn nhà trở nên yên tĩnh, tôi mạo muội đi ra từ căn phòng lạnh lẽo của mình để tìm hơi ấm và chút cà phê. Tôi đi ngang qua phòng ăn, vào tới nhà bếp và đối mặt với một đội quân hùng hậu đồ thủy tinh, đồ bạc, bánh ngọt, rau củ đã gọt, và chảo nóng trong bếp, giống như những gì bạn thấy trong nhà hàng bốn sao. Đứng giữa đống dụng cụ là Nell đang quay lưng lại phía tôi, ngân nga hát Rudolph con tuần lộc mũi đỏ và lắc lư cái eo bự chảng của bà, vẫy ống rút nước sốt với cô gái da đen trẻ đang câm lặng chỉ tay về phía tôi. Nell quay người lại và nở một nụ cười hở răng cửa lớn, nói, “Cậu đang làm gì trong bếp của tôi, cậu Bạn trai?”

“Cháu đang tự hỏi không biết có còn chút cà phê nào dư không?”

“Dư? Cậu nghĩ tôi ủ cà phê suốt ngày cho nó chua lòm? Xùy, con trai, đi ra khỏi đây, tới phòng khách ngồi và rung chuông rồi ta sẽ pha cà phê mới cho cậu. Mẹ cậu đã không dạy cậu chút nào về pha cà phê hả?”

“Thực ra, mẹ cháu không giỏi khoản nấu nướng”, tôi nói với bà, mạo hiểm tiến tới gần trung tâm của con lốc xoáy hơn. Có mùi gì đó thật thơm. “Bác đang nấu gì vậy?”

“Mùi cậu đang ngửi thấy là gà tây của Thompson”, Nell nói. Bà mở cửa lò để cho tôi xem một con gà tây khổng lồ trông cứ như thứ gì đó đã trải qua vụ hỏa hoạn Chicago vĩ đại. Chỉ một màu đen. “Đừng nhìn vẻ ngờ vực như vậy, nhóc. Bên dưới lớp vỏ đó là món gà tây ngon nhất trần đời đấy.”

Tôi sẵn lòng tin bà; mùi của nó thật hoàn hảo. “Gà Tây của Thompson là gì ạ?” Tôi hỏi, và Nell bắt đầu diễn thuyết về món Gà Tây của Thompson huyền diệu, được sáng chế bởi Morton Thompson, một ký giả, vào những năm 1930. Hóa ra quá trình chế biến con quỷ tuyệt diệu này liên quan đến hàng đống công đoạn nhồi nhét, khâu vá và lật trở không ngừng. Nell cho phép tôi ngồi trong bếp trong lúc bà pha cà phê cho tôi và vật lộn lôi con gà tây ra khỏi lò rồi vật nó ngửa bụng lên, sau đó khéo léo nhỏ nước sốt rượu táo lên khắp mình nó trước khi tống nó trở lại hầm ngục. Có 12 con tôm hùm đang bò lổn ngổn trong bể nước lớn bằng nhựa cạnh bồn rửa bát. “Thú cảnh?” Tôi trêu bà, và bà trả lời, “Đó là bữa tối Giáng Sinh của cậu đấy, con trai; cậu muốn chọn một con không? Cậu không ăn chay đấy chứ?” Tôi cam đoan với bà rằng không hề, rằng tôi là một cậu bé ngoan sẽ ăn bất cứ thứ gì được dọn ra trước mặt.

“Ai mà đoán được, trông cậu thật gầy”, Nell nói. “Ta sẽ vỗ béo cậu.”

“Đó là lý do Clare mang cháu đến đây.”

“Hừm”, Nell nói, vẻ hài lòng. “Được rồi. Giờ thì lượn đi để ta có thể tiếp tục công việc, đây.” Tôi nhận lấy ly cà phê bự, thơm phức và hướng về phía phòng khách, nơi có một cây Giáng Sinh khổng lồ và lò sưởi. Trông như một bức tranh quảng cáo cho Pottery Barn. Tôi an tọa xuống chiếc ghế bành màu cam và đang lục chồng báo khi có người nói, “Anh đã lấy cà phê ở đâu thế?” Tôi ngẩng đầu lên và thấy Sharon đang ngồi đối diện trong chiếc ghế bành màu xanh dương hoàn toàn hợp với áo len của cô ấy.

“Xin chào”, tôi nói. “Tôi xin lỗi, tôi đã không thấy…”

“Không sao”, Sharon nói.

“Tôi đã xuống bếp, nhưng tôi nghĩ chúng ta phải dùng chuông, ở đâu đó.” Chúng tôi quét qua căn phòng và đúng là có một cái chuông trên tường.

“Nơi này thật kỳ quái”, Sharon nói. “Chúng tôi đến đây từ hôm qua và tôi cứ thấp thỏm không thôi, cứ sợ dùng sai loại dĩa hay gì đấy…”

“Cô từ đâu đến?”

“Florida.” Cô ấy cười. “Tôi chưa bao giờ biết đến Giáng Sinh trắng cho tới khi vào Harvard. Bố tôi sở hữu một trạm xăng ở Jacksonville. Tôi đã định sau khi tốt nghiệp sẽ quay trở lại đó, anh biết đấy, vì tôi không thích cái lạnh, nhưng giờ có lẽ tôi đã mắc kẹt.”

“Sao lại thế?”

Sharon ngạc nhiên, “Họ chưa nói với anh sao? Mark và tôi sắp kết hôn.”

Tôi tự hỏi liệu Clare có biết chuyện này. Đây có vẻ như là chuyện Clare sẽ nhắc đến nếu có ấy biết. Rồi tôi nhìn thấy viên kim cương trên tay Sharon. “Xin chúc mừng.”

“Có lẽ vậy. Ý tôi là, cảm ơn anh.”

“Cô không chắc chắn sao? Về việc kết hôn?” Sharon thực ra trông có vẻ như đã khóc; khóe mắt cô ấy sưng vù.

“Tôi đang có mang, nên…”

“Điều đó không nhất thiết rằng cô phải…”

“Có, nếu anh theo đạo Cơ Đốc.” Sharon thở dài và rũ người xuống ghế. Thực ra tôi biết một số cô gái theo đạo Cơ Đốc đã đi phá thai và không bị sét đánh, nhưng có vẻ như niềm tin của Sharon ít dễ dãi hơn.

“Chúc mừng. Khi nào…”

“11 tháng Một.” Sharon nhìn thấy sự ngạc nhiên của tôi và nói, “Ồ, đứa bé? Tháng 4.” Cô ấy nhăn nhó. “Tôi hy vọng nó sẽ xong trước kỳ nghỉ xuân, bằng không tôi không biết phải lo chuyện học hành như thế nào… dù sao cũng chẳng còn quan trọng nữa…”

“Chuyên ngành của cô là gì?”

“Dự bị Y khoa. Bố mẹ tôi đang rất giận dữ, họ muốn tôi đem nó cho người khác nuôi.”

“Họ không thích Mark sao?”

“Họ thậm chí chưa bao giờ gặp Mark. Đó không phải vấn đề. Chỉ là họ sợ tôi sẽ không theo học Y nữa và sẽ thật lãng phí.” Cửa chính mở ra và những người đi trượt tuyết trở về. Một luồng gió lạnh luồn vào tận phòng khách và ùa qua người chúng tôi. Tôi cảm thấy thoải mái, rồi nhận ra tôi đang bị nướng chín như con gà tây của Nell bởi ngọn lửa trong lò sưởi ở đây. “Mấy giờ dùng bữa tối nhỉ?” tôi hỏi Sharon.

“Bảy, nhưng tối qua chúng tôi đã uống rượu ở đây trước. Khi đó Mark vừa nói với bố mẹ anh ấy, và họ không hẳn đã ôm chầm lấy tôi trong hân hoan khi hay chuyện. Ý tôi là, họ tử tế, anh biết đấy, cách người ta có thể vừa tử tế vừa ác ý. Cứ như tôi có thể tự làm cho mình chửa và Mark chẳng liên quan gì cả ấy…”

Tôi nhẹ nhõm khi thấy Clare bước vào. Cô ấy đang đội một chiếc mũ lưỡi trai màu xanh lá cây với núm tua lớn xõa xuống và chiếc áo trượt tuyết xấu xí màu vàng cùng quần jeans xanh dương. Mặt cô ấy ửng hồng vì cái lạnh và đang mỉm cười. Tóc cô ấy ướt nhẹp và tôi thấy trong lúc cô ấy bước sôi nổi trên tấm thảm Ba Tư khổng lồ bằng đôi chân đi bít tất về phía tôi rằng cô ấy thuộc về nơi này, cô ấy không phải một người lầm lạc, cô ấy chỉ đơn giản chọn cho mình một lối sống khác, và tôi rất mừng vì điều đó. Tôi đứng dậy và cô ấy quàng tay qua người tôi, rồi nhanh chóng quay sang Sharon nói, “Em vừa hay tin! Chúc mừng chị!” rồi ôm lấy Sharon, người đang nhìn tôi qua bờ vai của Clare, sửng sốt nhưng đang mỉm cười. Về sau, Sharon nói với tôi rằng, “Tôi nghĩ anh đã vớ được người tử tế duy nhất ở đây.” Tôi lắc đầu phủ nhận nhưng tôi hiểu điều cô ấy nói.

CLARE: Chúng tôi có một giờ đồng hồ rảnh rỗi trước bữa tối và sẽ không ai để ý nếu chúng tôi biến mất. “Đi nào”, tôi nói với Henry. “Hãy cùng ra ngoài.” Anh ấy rên rỉ.

“Bắt buộc sao?”

“Em muốn chỉ cho anh xem thứ này.”

Chúng tôi mặc áo choàng, ủng, mũ và găng tay rồi lê bước ra ngoài bằng cửa sau. Bầu trời trong vắt, chỉ một màu xanh biếc và tuyết trên đồng cỏ phản chiếu trở lại, có chút sáng hơn. Hai màu xanh gặp nhau ở một đường tối những ngọn cây - điểm bắt đầu vào rừng rậm. Vẫn quá sớm cho những vì sao, nhưng có một chiếc máy bay đang nhấp nháy trên đường nó băng qua không gian. Tôi hình dung ngôi nhà của chúng tôi chỉ là một chấm đen nhỏ xíu được nhìn thấy từ trên máy bay, như một ngôi sao.

“Lối này.” Con đường tới khoảng rừng thưa chìm dưới sáu inch tuyết. Tôi nghĩ tới những lần hì hụi lội trên những vết chân trần để không ai nhìn thấy chúng chạy xuống con đường dẫn tới nhà chính. Giờ thì có dấu vết của những con hươu và vết của một con chó rất lớn.

Gốc của những cái cây chết lởm chởm nhô ra dưới tuyết, gió và tiếng ủng của chúng tôi. Khoảng rừng thưa là một vùng trũng nhẵn nhụi của tuyết xanh; tảng đá là một hòn đảo có đỉnh hình nấm. “Là nó đây.”

Henry đứng thò tay vào túi áo choàng. Anh ấy xoay qua xoay lại, ngắm nhìn. “Vậy ra là nó đây”, anh ấy nói. Tôi tìm trên khuôn mặt anh ấy biểu hiện của sự quen thuộc. Chẳng có gì. “Đã bao giờ anh thấy ký ức ảo giác chưa?” tôi hỏi.

Henry thở dài. “Cả cuộc đời anh là một chuỗi những ký ức ảo giác bất tận.”

Chúng tôi quay lại và bước đi trên chính vết chân của mình, trở về nhà.

Một lát sau:

Tôi đã dặn Henry rằng chúng tôi sẽ đóng bộ khi dùng bữa tối Giáng Sinh nên khi gặp nhau ở hành lang, anh ấy chói lọi trong bộ vét màu đen, sơ mi trắng, cà vạt màu hạt dẻ có móc gài khảm xà cừ. “Chúa ạ”, tôi nói. “Anh đã chải chuốt.”

“Phải”, anh ấy thừa nhận. “Thật thảm hại, phải không?”

“Trông anh rất hoàn hảo, một Thanh Niên Đĩnh Đạc.”

“Trong khi thực tế, anh là một Thủ Thư Cuồng Loạn Hạng Sang. Các bậc phụ huynh, hãy cảnh giác con em mình.”

“Họ sẽ yêu anh.”

“Còn anh yêu em. Đến đây nào.” Henry và tôi đứng trước tấm gương dài cả người ở đỉnh cầu thang, cảm phục chính mình. Tôi đang mặc chiếc váy không dây màu xanh nhạt bằng lụa vốn thuộc về bà ngoại. Tôi có bức ảnh chụp bà lúc đang mặc nó vào đêm giao thừa năm 1941, bà đang mỉm cười, môi bà tối màu son và tay đang cầm điếu thuốc. Người đàn ông trong bức ảnh là anh trai của bà, Teddy, người bị giết ở Pháp sáu tháng sau đó; ông ấy cũng đang cười. Henry đặt tay lên eo tôi và tỏ ra ngạc nhiên trước những lớp gọng áo ngực dưới lần vải lụa. Tôi kể cho anh ấy nghe về bà ngoại. “Bà nhỏ hơn cả em. Nó chỉ đau khi ngồi xuống thôi; đầu của những gọng thép chọc vào hông em.” Henry đang hôn lên cổ tôi khi có tiếng ai đó đằng hắng và chúng tôi rời nhau ra. Mark và Sharon đứng ở ngưỡng cửa phòng Mark; bố và mẹ đã miễn cưỡng đồng ý rằng chẳng có lý do gì họ không nên ở cùng phòng.

“Không phải lúc này, nhé”, Mark nói bằng giọng bà cô khó tính. “Cô cậu chưa rút ra được bài học xương máu nào từ anh chị hả, nhóc?”

“Có chứ”, Henry đáp trả. Luôn luôn phòng bị”. Anh ấy mỉm cười gõ vào túi quần (mà thực ra trống không) rồi chúng tôi lướt xuống dưới nhà trong tiếng cười khúc khích của Sharon.

Mọi người đã uống được vài ly khi chúng tôi ra đến phòng khách. Alicia giơ tay làm dấu hiệu bí mật giữa chúng tôi: Cẩn thận với mẹ, bà đang lên cơn. Mẹ đang ngồi trên ghế trường kỉ, vẻ vô hại, tóc bà được cuốn lên thành búi, cổ đeo dây chuyền ngọc trai, và chiếc váy nhung đào, ống có ren. Bà tỏ vẻ hài lòng khi Mark bước đến ngồi xuống bên cạnh, cười khi anh ấy bày trò với bà, và trong khoảnh khắc tôi đã nghĩ có lẽ Alicia đã nhầm. Nhưng rồi tôi thấy cách mà bố đang nhìn mẹ, và tôi nhận ra chắc hẳn bà đã nói điều gì đó tệ lắm trước khi tôi bước vào. Bố đang đứng cạnh giá để rượu. Ông quay sang tôi, bớt căng thẳng, rót cho tôi một ly Cô-ca, đưa cho Mark chai rượu và một chiếc cốc. Ông hỏi Sharon và Henry uống gì. Sharon xin một ly La Croix, Henry, sau khi cân nhắc một hồi, xin một ly Scotch và nước lọc. Bố pha đồ uống bằng một tay, trợn mắt khi thấy Henry nhẹ nhàng tu sạch ly Scotch.

“Ly nữa chứ?”

“Không ạ, cảm ơn bác.” Tôi biết rằng lúc này Henry muốn cầm cả chai và cốc rồi cuộn tròn trên giường với một cuốn sách trong tay, và rằng anh ấy từ chối ly thứ hai để đỡ cảm thấy ái ngại khi phải xin ly thứ ba, thứ tư nữa. Sharon đang lởn vởn quanh Henry; tôi bỏ mặc họ, đi ngang qua phòng để ngồi cạnh bà dì Dulcie bên ghế gần cửa sổ.

“Ồ, cháu à, đáng yêu làm sao… ta đã không thấy chiếc váy đó kể từ khi Elizabeth mặc nó đến dự tiệc nhà Lichts, tổ chức ở cung Thiên Văn.” Alicia lại chỗ chúng tôi; con bé đang mặc chiếc áo cổ rùa màu xanh tím than với một cái lỗ nhỏ xíu nơi tay áo đang tách ra khỏi vạt trên và một chiếc váy cũ xộc xệch, chân đi tất vải phồng phềnh quanh mắt cá chân như một bà lão. Tôi biết con bé ăn mặc như vậy để chọc tức bố.

“Có chuyện gì với mẹ vậy? tôi hỏi nó.

Alicia nhún vai. “Mẹ bực chuyện Sharon.”

“Có chuyện gì với Sharon?” bà dì Dulcie hỏi, đọc môi chúng tôi. “Con bé có vẻ tử tế. Theo ta nó còn tử tế hơn Mark.”

“Chị ấy đang có mang”, tôi nói với bà dì Dulcie. “Họ sắp kết hôn. Mẹ cháu nghĩ chị ấy là dân bần hàn, vì chị ấy là người đầu tiên trong gia đình được học đại học.”

Bà dì Dulcie nhìn tôi sắc sảo, và thấy rằng tôi biết điều bà cũng biết. “Lucille, trong tất cả mọi người, phải là người hiểu con bé nhất.” Alicia định hỏi Dulcie ý bà là gì thì chuông báo bữa tối kêu lên và chúng tôi đứng dậy, trong vô thức, nối đuôi nhau về phía nhà ăn. Tôi thì thầm với Alicia, “Có phải mẹ đã say?” Alicia thì thầm đáp lại, “Em nghĩ mẹ đã uống rượu trong phòng trước khi xuống.” Tôi bóp nhẹ tay Alicia; Henry đi chậm lại, chúng tôi cùng nhau bước vào phòng ăn và tìm chỗ ngồi của mình. Bố và mẹ ngồi ở hai đầu bàn ăn, bà dì Dulcie, Sharon và Mark ngồi một phía, Mark ngồi cạnh mẹ, Alicia, Henry và tôi ngồi phía còn lại, Alicia ngồi cạnh bố. Căn phòng tràn ngập nến và những bông hoa nhỏ trôi bồng bềnh trong tô thủy tinh có hoa văn chạm trổ, Etta đã bày ra tất cả đồ đạc và đĩa sứ trên tấm khăn trải bàn của ngoại do các bà sơ Địa Trung Hải thêu. Một buổi tối Giáng Sinh hệt như mọi buổi tối Giáng sinh mà tôi có thể nhớ khác, ngoại trừ Henry đang ngồi cạnh tôi, bẽn lẽn cúi đầu trong lúc bố đang cầu nguyện.

“Lạy cha chúng con ở trên trời, chúng con xin gửi lời cảm tạ trong đêm thánh này vì lòng khoan dung và nhân từ của Người, cho một năm tới khỏe mạnh và hạnh phúc, cho gia đình sung túc và cho những người bạn mới. Xin cảm tạ Người đã gửi con trai của mình trong hình hài một đứa trẻ xuống soi lối và cứu rỗi chúng con, chúng con cảm tạ người vì đứa trẻ mà Mark và Sharon sẽ mang đến gia đình này. Chúng con cầu xin để được trở nên hoàn hảo hơn trong tình yêu thương của mình và kiên nhẫn với nhau. Amen.” Ôi trời, tôi nghĩ. Bố gây chuyện rồi. Tôi liếc nhìn mẹ và thấy bà đang sôi lên sùng sục. Bạn sẽ không thể nào nhận ra nếu không biết tính bà: bà chỉ ngồi yên không nhúc nhích và nhìn chằm chằm vào dĩa của mình. Cửa phòng ăn mở ra và Etta bước vào với món súp, bà đặt một bát nhỏ trước mặt mỗi người. Tôi bắt gặp ánh mắt của Mark, anh ấy khẽ nghiêng đầu về phía mẹ và nhướn mày, tôi chỉ khẽ gật đầu. Anh ấy hỏi mẹ về vụ thu hoạch táo năm nay và bà trả lời. Alicia và tôi bớt căng thẳng hơn một chút. Sharon đang theo dõi tôi, tôi nháy mắt với chị ấy. Món súp hạt dẻ và củ cải vàng có vẻ như một ý tưởng tồi, cho đến khi bạn nếm món do Nell nấu. “Ồ”, Henry nói, và tất cả mọi người cười, rồi ăn súp của mình. Etta dọn bát súp đi, Nell mang gà tây vào. Nó màu vàng, đang bốc khói và to khổng lồ, chúng tôi hồ hởi ca ngợi, như chúng tôi vẫn làm hằng năm. Nell toét miệng cười, nói, “Thôi mà”, như bà vẫn nói hằng năm. “Ồ, Nell, nó thật hoàn hảo”, mẹ tôi nói trong nước mắt. Nell nhìn bà sắc lẹm rồi quay sang bố tôi, và nói, “Cảm ơn bà, bà Lucille.” Etta lấy cho chúng tôi nhân nhồi, cà rốt ướp bơ đường, khoai tây nghiền, và nước chanh cô, rồi chúng tôi chuyển đĩa của mình cho bố, người sẽ làm đầy chúng bằng thịt gà tây. Tôi nhìn Henry ăn miếng gà tây đầu tiên do Nell nấu: ngạc nhiên, rồi ngất ngây. “Cháu đã nhìn thấy tương lai của mình”, anh ấy tuyên bố, và tôi cứng đơ người. “Cháu sẽ bỏ việc ở thư viện, đến đây sống trong nhà bếp của mọi người và phủ phục kính ngưỡng dưới chân Nell. Hoặc có khi cháu sẽ cưới bác ấy cho tiện.”

“Cậu đến muộn rồi”, Mark nói. “Nell đã kết hôn.”

“Ồ, vậy thì tôi sẽ phải ở dưới chân bác ấy rồi. Tại sao mọi người không béo trên 300 pounds nhỉ?”

“Ta đang trên đường đến đích đó”, bố tôi nói, vỗ vỗ vào cái bụng căng tròn.

“Khi nào già em sẽ nặng 300 pounds và sẽ không phải kéo cây vi-ô-lông-cen đi khắp nơi nữa”, Alicia bảo Henry. “Em sẽ dọn đến Paris sống và chẳng ăn gì ngoài sô-cô-la, em sẽ hút xì-gà, dùng heroin và chỉ nghe nhạc của Jimi Hendrix và The Doors. Phải không, mẹ?”

“Mẹ sẽ đi cùng con”, mẹ tôi nói, rành mạch từng tiếng. “Nhưng mẹ sẽ chỉ nghe Johnny Mathis thôi.”

“Nếu em hút heroin em sẽ không muốn ăn gì nhiều đâu”, Henry đính chính với Alicia, nó đang đăm chiêu nhìn anh ấy. “Hút cần sa ấy.” Bố tôi cau mày. Mark chuyển chủ đề: “Con nghe đài báo tuyết sẽ rơi dày tám inches vào đêm nay.”

“Tám?!?” chúng tôi đồng thanh.

“Tôi đang mơ về một Giáng Sinh trắng[1]…”, Sharon đánh bạo nói mà không hề nhận thức về tội lỗi.

[1] Nguyên gốc: I’m dreaming of a white Christmas (trích ca khúc White Christmas).

“Hy vọng rằng nó sẽ không trút xuống đầu chúng ta khi đang ở nhà thờ”. Alicia cáu kỉnh nói. “Con rất buồn ngủ cứ mỗi khi xong lễ mi-sa.” Chúng tôi ríu rít bàn về những cơn bão tuyết mà chúng tôi trải qua. Bà dì Dulcie kể cho chúng tôi nghe về lần đầu bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết lớn vào năm 1967 ở Chicago. “Ta đã phải bỏ xe ở cao tốc Lake Shore Drive và đi bộ từ Adams đến Belmont.”

“Cháu cũng có lần bị mắc kẹt trong cơn bão tuyết”, Henry nói. “Suýt nữa cháu đông thành đá; cuối cùng phải trú tại nhà của mục sư ở nhà thờ giáo hội Trưởng Nhiệm Thứ Tư trên đại lộ Michigan.”

“Khi đó cậu bao nhiêu tuổi?” Bố tôi hỏi, Henry ngập ngừng rồi trả lời, “Ba.” Anh ấy liếc nhìn tôi và tôi biết anh ấy đang nói về một trải nghiệm gặp phải khi đang du hành thời gian. Anh ấy nói thêm. “Lúc đó cháu đang đi cùng bố.” Những lời anh ấy nói rõ ràng là bịa đặt nhưng có vẻ chẳng ai để ý. Etta bước vào dọn đĩa rồi bày ra loạt đĩa mới dùng cho đồ tráng miệng. Sau một chút chậm trễ, Nell bước vào với món pút-đinh màu mận chín bốc lửa. “Ồ!” Henry nói. Nell đặt bánh xuống trước mặt mẹ tôi, và ngọn lửa chuyển mái tóc mờ nhạt của bà sang màu đỏ đồng, giống của tôi, trong giây lát trước khi tắt lịm. Bố tôi mở sâm-banh (bên dưới chiếc khăn ăn, để nút bật không bắn vỡ mắt một ai đó). Tất cả mọi người chuyển ly của mình cho ông và ông rót đầy chúng rồi trả lại. Mẹ tôi cắt bánh thành những miếng mỏng rồi Etta lấy cho mọi người. Có thêm hai chiếc ly nữa, một cho Etta, một cho Nell, và chúng tôi đứng dậy nâng ly chúc mừng.

Bố tôi bắt đầu: “Vì gia đình.”

“Vì Nell và Etta, những người như gia đình, những người đã làm việc vất vả chăm sóc cho nơi này và những người thật tháo vát, tài năng”, mẹ tôi nói, nhẹ nhàng.

“Vì hòa bình và công lý”, bà dì Dulcie nói.

“Vì gia đình”, Etta nói.

“Vì những sự khởi đầu”, Mark nói, hướng tới Sharon.

“Vì sự tình cờ”, chị ấy đáp lại.

Đến lượt tôi. Tôi nhìn vào Henry. “Vì hạnh phúc. Vì giây phút và nơi chốn này.”

Henry nghiêm trang đáp, “Vì thế gian và thời gian”, tim tôi trật nhịp, tôi tự hỏi làm sao anh ấy biết, nhưng rồi tôi nhận ra Marvell là một trong những nhà thơ ưa thích của anh ấy và anh ấy chẳng ám chỉ gì khác ngoài tương lai.

“Vì tuyết, vì Chúa, vì mẹ, vì bố và vì dây đàn vi-ô-lông, vì đường và vì đôi giày Converse cao cổ màu đỏ của con”, Alicia nói, và mọi người bật cười.

“Vì tình yêu”, Nell nói, nhìn thẳng vào tôi, nở nụ cười hết cỡ của bà. “Và vì Morton Thomposon, nhà sáng chế món gà tây ngon nhất quả đất này.”

HENRY: Trong suốt bữa tối, Lucille cứ không ngừng chao đảo từ buồn rầu sang phấn chấn rồi tuyệt vọng. Cả gia đình bà rất cẩn thận thăm dò tâm trạng của bà, đưa bà quay trở lại với trạng thái cân bằng hết lần này đến lần khác, đỡ cho bà, che chở cho bà. Nhưng khi chúng tôi ngồi xuống và bắt đầu ăn điểm tâm, bà khụy ngã và lặng thinh nức nở, hai vai bà run rẩy, bà quay đầu đi như thể chuẩn bị rúc nó sau một đôi cánh như một con chim đang liu riu ngủ. Lúc đầu chỉ có tôi để ý thấy, và tôi ngồi đó, kinh hãi, chẳng biết nên làm gì. Rồi Philip nhìn thấy, và rồi căn phòng chìm trong im lặng. Philip đứng dậy đi về phía bà. “Lucy?” ông ấy thì thầm. “Lucy, có chuyện gì vậy?” Clare hối hả chạy lại, nói, “Thôi mà, mẹ, sẽ ổn thôi, mẹ…” Lucille lắc đầu, không, không, và khóc ướt hai bàn tay. Philip lùi lại; Clare nói, “Suỵt”, và Lucille hấp tấp nói không rõ ràng. Tôi nghe những câu vội vã khó nghe, rồi “Sai lầm hết cả”, và rồi “Phá hủy cuộc đời nó”, và cuối cùng là “Ta hoàn toàn bị ngó lơ trong cái gia đình này”, và “Giả nhân giả nghĩa”, rồi sụt sùi. Tôi ngạc nhiên khi bà dì Dulcie là người phá vỡ im lặng. “Con à, nếu có ai giả nhân giả nghĩa ở đây thì đó là con. Con đã trải qua việc y hệt và ta không thấy nó phá hủy cuộc đời Philip một chút nào. Theo ta, còn khiến nó tốt hơn.” Lucille ngừng khóc và nhìn dì, sững sờ đến rơi vào yên lặng. Mark nhìn bố, người đang gật đầu, và rồi nhìn Sharon, đang mỉm cười như thể cô ấy vừa trúng số. Tôi nhìn Clare, cô ấy chẳng có vẻ ngạc nhiên, và tôi tự hỏi làm sao cô ấy biết mà Mark lại không, rồi lại tự hỏi còn điều gì cô ấy biết mà không nói ra, rồi nó giáng xuống tôi rằng Clare biết mọi thứ, tương lai của chúng tôi, quá khứ của chúng tôi, tất cả mọi thứ, và tôi rùng mình trong căn phòng ấm áp. Etta mang cà phê vào. Chúng tôi không nán lại vì nó.

CLARE: Etta và tôi đưa mẹ về giường. Bà cứ không ngừng xin lỗi, như cách bà vẫn luôn luôn làm, và gắng thuyết phục chúng tôi rằng bà đủ khỏe để đi dự lễ mi-sa, nhưng cuối cùng chúng tôi cũng đặt được bà nằm xuống và bà chìm vào giấc ngủ gần như ngay lập tức. Etta nói bà sẽ ở nhà phòng khi mẹ tỉnh giấc, tôi bảo bà đừng ngớ ngẩn, tôi sẽ ở lại, nhưng Etta rất khó bảo nên tôi để bà ngồi bên cạnh giường của mẹ, đọc St.Matthew. Tôi đi xuống hành lang và nhìn vào trong phòng Henry, nhưng nó tối om. Khi tôi mở cửa phòng mình, tôi thấy Henry đang nằm uể oải trên giường của tôi và đọc Nếp gấp thời gian. Tôi khóa cửa và lên nằm cùng anh ấy.

“Mẹ em bị sao vậy?” anh ấy hỏi trong lúc tôi đang cẩn thận nằm xuống cạnh anh, cố không để bị đâm bởi cái váy của mình.

“Mẹ mắc chứng hưng trầm cảm.”

“Bà luôn bị vậy sao?”

“Khi em còn nhỏ, bà có khá hơn. Một đứa con khác của bà qua đời, khi em bảy tuổi, đó là quãng thời gian tồi tệ. Mẹ đã tìm cách tự tử. Em tìm thấy bà.” Tôi vẫn còn nhớ máu chảy khắp nơi, một bể tắm đầy máu loang trong nước, những chiếc khăn tắm ướt sũng vì máu và nước. Tôi hét lên tìm sự giúp đỡ, nhưng chẳng có ai ở nhà. Henry không nói một lời, và tôi nghển cổ lên, anh ấy đang nhìn đăm đăm lên trần nhà.

“Clare”, cuối cùng anh ấy lên tiếng.

“Vâng?”

“Tại sao em không nói với anh? Ý anh là, có rất nhiều chuyện đang xảy ra trong gia đình em mà sẽ tốt hơn nếu anh được biết trước.”

“Nhưng anh đã biết…” tôi ngẩn người. Anh ấy không biết. Làm sao anh ấy có thể biết? “Em xin lỗi. Em đã kể cho anh nghe khi nó vừa xảy ra, và em quên mất rằng lúc này đang là thời điểm trước đó, em đã nghĩ anh biết hết mọi chuyện…”

Henry ngập ngừng, rồi nói, “Anh đã lột sạch những gì thuộc về gia đình anh, tất cả những bí mật và những việc xấu xa đã được vạch trần cho em thấy, anh chỉ ngạc nhiên khi…”

“Nhưng anh chưa giới thiệu em với ông.” Tôi rất nóng lòng được gặp bố của Henry, nhưng tôi ngại không dám đề cập đến.

“Phải, anh chưa.”

“Anh có định sẽ?”

“Một ngày nào đó.”

“Khi nào?” Tôi trông đợi Henry sẽ nói với tôi rằng tôi đang đòi hỏi quá mức, như anh ấy vẫn thường nói khi tôi hỏi quá nhiều, nhưng thay vào đó anh ấy ngồi dậy và đu chân xuống giường. Lưng áo của anh ấy nhàu nhĩ hết cả.

“Anh không biết, Clare. Có lẽ khi anh có thể chịu được điều đó.”

Tôi nghe có tiếng chân dừng lại ngoài cửa, và tay nắm xóc nhẹ qua lại. “Clare?” bố tôi nói. “Tại sao cửa lại khóa?” Tôi đứng dậy và mở cửa. Bố mở miệng định nói thì thấy Henry và ra hiệu cho tôi ra ngoài hành lang.

“Clare, con biết ta và mẹ con không cho phép con dẫn bạn vào phòng ngủ của mình”, ông nói khẽ. “Còn đầy những căn phòng trống khác trong nhà này…”

“Chúng con chỉ đang nói chuyện…”

“Con có thể nói chuyện trong phòng khách.”

“Con chỉ đang kể cho anh ấy nghe về mẹ và con không muốn nói về nó trong phòng khác.”

“Con yêu à, ta không nghĩ con cần phải nói cho cậu ta nghe về mẹ con…”

“Sau màn trình diễn vừa rồi của mẹ, con phải làm gì chứ? Henry có thể tự thấy rằng bà có vấn đề tâm thần, anh ấy đâu phải thằng ngốc…” tôi cao giọng và Alicia mở cửa phòng nó, đặt ngón tay lên miệng.

“Mẹ con chẳng có vấn đề tâm thần gì cả”, bố tôi nghiêm khắc nói.

“Phải, bà có”, Alicia khẳng định.

“Con đừng có xía vào…”

“Con cứ xía vào đấy…”

“Alicia!” Mặt bố tôi đỏ bừng lên, mắt ông lồi cả ra và ông lớn giọng. Etta mở cửa phòng mẹ và nhìn ba chúng tôi bực tức. “Xuống dưới nhà mà la hét”, bà rít khẽ rồi đóng cửa lại. Chúng tôi nhìn nhau bối rối.

“Không phải lúc này”, tôi bảo bố. “Bố có làm phiền con thì lúc khác hãy làm phiền”. Henry đang ngồi trên giường tôi suốt từ nãy đến giờ, giả vờ như anh ấy không có mặt ở đó. “Đi nào, Henry. Hãy sang phòng khác.” Henry, ngoan ngoãn như một cậu bé mắc lỗi, đứng dậy và đi theo tôi xuống dưới nhà. Alicia đắc thắng nhảy theo sau chúng tôi. Đứng dưới chân cầu thang, tôi nhìn lên và thấy bố đang nhìn xuống chúng tôi bất lực. Ông quay lưng bỏ đi và bước tới trước cửa phòng của mẹ rồi gõ cửa.

“Hãy xem Cuộc sống tươi đẹp đi”, Alicia nói, mắt nhìn vào đồng hồ của nó. “năm phút nữa sẽ chiếu trên kênh 60 đấy.”

“Lại nữa? Chẳng phải em đã xem nó cả hai trăm lần rồi sao?”

Alicia thích Jimmy Stewart.

“Anh chưa xem”, Henry nói.

Alicia có vẻ sốc. “Chưa bao giờ? Tại sao anh có thể?”

“Anh không có ti vi.”

Giờ thì Alicia thực sự sốc. “Ti vi của anh bị hỏng hay sao?”

Henry cười. “Không. Anh chỉ ghét chúng thôi. Chúng khiến anh đau đầu.” Chúng khiến anh ấy du hành thời gian. Vì sự nhấp nháy của màn hình.

Alicia thất vọng. “Vậy là anh không muốn xem?”

Henry nhìn tôi; tôi không phiền. “Dĩ nhiên rồi”, tôi nói. “Nhưng chúng ta sẽ không xem đoạn kết; chúng ta phải chuẩn bị cho lễ mi-sa.”

Chúng tôi kéo sang phòng chiếu phim, ngay bên cạnh phòng khách. Alicia bật máy. Dàn hợp ca đang hát It Came Upon the Midnight Clear. “Kinh”, con bé cười nhạo. “Nhìn đống áo choàng bằng nhựa vàng khè kìa. Chúng trông như những chiếc áo mưa.” Con bé rơi tõm xuống sàn nhà, còn Henry ngồi xuống ghế tràng kỉ. Tôi ngồi xuống bên cạnh anh ấy. Kể từ lúc về nhà, tôi cứ không ngừng lo nghĩ đến chuyện cư xử với Henry như thế nào trước mặt các thành viên đa chủng loại của gia đình tôi. Tôi nên ngồi gần đến mức nào? Nếu Alicia không ở đây, tôi sẽ nằm xuống ghế, tựa đầu lên đùi Henry. Henry giải quyết vấn đề của tôi bằng cách ngồi xích gần lại và quàng tay qua người tôi. Cánh tay ngượng nghịu e dè. Chúng tôi sẽ chẳng bao giờ ngồi như thế này trong hoàn cảnh khác. Dĩ nhiên, chúng tôi chẳng bao giờ xem ti vi cùng nhau. Có thể đây sẽ là cách chúng tôi ngồi gần nếu có lúc nào đó xem ti vi. Dàn đồng ca biến mất và một vài đoạn quảng cáo hiện lên. McDonald’s, đại lý phân phối Buick địa phương, Pillsbury, Red Lobster, họ đều chúc chúng tôi một Giáng Sinh an lành. Tôi nhìn Henry đang lộ vẻ sửng sốt tột độ trên mặt.

“Sao vậy?” tôi hỏi khẽ.

“Tốc độ hình ảnh. Chúng cứ thay phiên nhau nhảy sau vài giây; anh phát ốm mất.” Henry lấy ngón tay xoa mắt. “Anh nghĩ anh sẽ đi đọc sách một lát.” Anh ấy đứng dậy và bước ra khỏi phòng, sau một lát, tôi nghe tiếng bước chân anh ấy đi lên cầu thang. Tôi cầu nguyện nhanh: Chúa ơi, làm ơn đừng để Henry du hành vào lúc này, không phải lúc chúng con chuẩn bị đi lễ nhà thờ và con sẽ chẳng thể nào giải thích. Alicia trườn lên ghế trong lúc đoạn giới thiệu xuất hiện trên ti vi.

“Anh ấy không trụ được lâu cho lắm”, con bé nói.

“Anh ấy bị đau đầu ghê gớm. Cơn đau mà khiến em phải nằm yên trong bóng tối không động đậy, và nếu có ai đó la ó thì đầu em sẽ nổ tung.”

“Ồ.” James Stewart đang lôi ra một đống tờ rơi giới thiệu du lịch, nhưng sự khởi hành của anh ta sẽ sớm bị dập tắt bởi một điệu nhảy. “Anh ấy rất dễ thương.”

“Jimmy Stewart?”

“Anh ấy cũng dễ thương. Nhưng ý em là người đàn ông của chị. Henry.”

Tôi cười. Tôi tự hào như thể đã tạo ra Henry. “Phải.”

Donna Reed đang mỉm cười rạng rỡ với Jimmy Stewart ở bên kia căn phòng chật ních người. Giờ họ đang nhảy cùng nhau, và tình địch của Jimmy Stewart đã gạt cần khiến sàn nhảy tách đôi, lộ ra bể bơi bên dưới. “Mẹ rất thích anh ấy.”

“Tạ ơn chúa.” Donna và Jimmy đang nhảy giật lùi về phía bể; sớm thôi mọi người trong những bộ cánh dạ vũ cũng sẽ gia nhập cùng họ khi ban nhạc vẫn đang chơi.

“Nell và Etta cũng duyệt.”

“Tuyệt. Giờ thì bọn chị chỉ cần vượt qua 36 giờ đồng hồ tới mà không làm hỏng ấn tượng ban đầu.”

“Việc đó thì có gì khó? Trừ phi… không, chị đâu có ngốc đến mức đó…”

Alicia nhìn tôi nghi ngờ. “Có không?”

“Dĩ nhiên là không.”

“Dĩ nhiên là không”, con bé lặp lại. “Chúa ạ, em không thể tin được Mark. Ngu ngốc làm sao.” Jimmy và Donna đang hát Những cô gái Buffalo, sao cô không ra đây tối nay trong lúc đi dọc những con đường phố Bedford Falls chói lọi, trong bộ đồng phục bóng đá và áo choàng tắm.

Chị phải ở đây ngày hôm qua mới thấy. Em đã tưởng bố sẽ bị nhồi máu cơ tim ngay trước cây Giáng Sinh. Em đã tưởng tượng cảnh bố ngã xuống, cây đổ lên người và nhân viên cứu thương sẽ phải nhấc đống quà và đồ trang trí khỏi người ông trước khi họ có thể tiến hành CPR[2]…” Jimmy dâng tặng Donna mặt trăng, và Donna đồng ý.

[2] CPR: Cardiopulmonary resuscitation: Xoa bóp tim ngoài lồng ngực.

“Chị tưởng em đã học CPR ở trường.”

“Em sẽ rất bận rộn với việc hồi sức cho mẹ. Đã khủng khiếp lắm, Clare ạ. La hét suốt một hồi.”

“Sharon có ở đó không?”

Alicia cười lớn. “Chị giỡn hả? Em và Sharon đã ngồi đây và cố nói chuyện lịch sự với nhau, còn Mark và bố mẹ ở phòng khách hét vào mặt nhau. Sau một hồi bọn em chỉ ngồi đây và nghe ngóng.”

Alicia và tôi trao đổi cái nhìn như muốn nói, Có gì mới lạ? Chúng tôi đã dành cả cuộc đời này lắng nghe bố mẹ la hét, với nhau, với chúng tôi. Đôi khi tôi có cảm giác như nếu tôi phải nghe mẹ khóc thêm một lần nữa tôi sẽ bỏ đi và không bao giờ quay lại. Ngay lúc này đây tôi muốn túm lấy Henry và trở về Chicago, nơi không ai có thể la hét, không ai có thể giả vờ như mọi chuyện vẫn ổn và không có gì xảy ra. Một người đàn ông bụng phệ, giận dữ, trong chiếc áo ba lỗ đang hét với James Stewart rằng hãy thôi nói chuyện với Donna Reed đi và cứ thế mà hôn cô ấy. Tôi không thể đồng tình hơn, nhưng anh ta không làm theo. Thay vào đó, anh ta giẫm lên áo choàng của cô ấy và dĩ nhiên cô ấy bước ra khỏi áo, điều tiếp theo bạn nhận ra, cô ấy đang trần trụi trốn sau bụi tú cầu lớn.

Mẫu quảng cáo Pizza Hut hiện ra và Alicia tắt tiếng. “Clare?”

“Sao?”

“Henry đã từng đến đây bao giờ chưa?”

Bỏ xừ. “Không, chị không nghĩ vậy? Tại sao em hỏi thế?”

Con bé nặng nề chuyển tư thế và nhìn ra xa trong khoảnh khắc. “Chị sẽ nghĩ em bị khùng.”

“Sao?”

“Đã có chuyện rất kỳ quái xảy ra. Lâu lắm rồi… khi em chừng 12 tuổi. Hôm đó em phải đi tập đàn, nhưng em nhớ ra mình không có áo sơ mi sạch cho buổi diễn thử hay gì đó, Etta và mọi người đều đã ra ngoài, Mark đáng lẽ phải đi trông trẻ nhưng anh ấy trốn trong phòng và hút thuốc phiện. Em đi xuống dưới nhà, đến phòng giặt đồ. Khi đang tìm áo, em nghe thấy có tiếng động, như tiếng cửa phòng cuối tầng hầm, phòng chứa xe đạp, nghe như tiếng gió rít. Em đã nghĩ chắc hẳn là Peter. Nên em đứng ở ngưỡng cửa phòng giặt đồ và lắng nghe, rồi cánh cửa phòng để xe mở ra và Clare ạ, chị sẽ không tin đâu, đó là một người đàn ông trần như nhộng, trông giống hệt Henry.”

Tôi bật cười, tiếng cười nghe hoàn toàn giả tạo, “Ồ, thôi mà.”

Alicia cười theo. “Thấy chưa, em biết ngay chị sẽ nghĩ em bị khùng mà. Nhưng em thề, nó thực sự đã xảy ra. Người đàn ông này chỉ nhìn em hơi chút ngạc nhiên. Ý em là, em đứng ở đó, miệng há hốc và tự hỏi không biết người đàn ông trần truồng này sẽ cưỡng hiếp mình, hay giết mình gì đó, nhưng anh ta chỉ nhìn em và thản nhiên nói, “Ồ, xin chào, Alicia”, rồi đi vào phòng đọc và đóng cửa lại.”

“Hả?”

“Nên em chạy lên nhà và gõ cửa phòng Mark thình thịch, anh ấy bảo em biến đi, cuối cùng em cũng khiến được anh ấy mở cửa ra, anh ấy phê bí tỉ nên mất một lúc mới hiểu em nói gì, rồi, dĩ nhiên, anh ấy không tin lời em nói nhưng em cũng thuyết phục được anh ấy xuống dưới nhà, anh ấy gõ cửa phòng đọc, cả hai bọn em đều sợ mất vía, hệt như Nancy Drew, chị biết đấy, như lúc chị nghĩ. ‘Mấy đứa con gái đó thật ngu, đáng lẽ chúng nên gọi cảnh sát’, nhưng chẳng có gì xảy ra cả, rồi Mark mở cửa và chẳng có ai ở đó, anh ấy đã nổi giận với em vì cho rằng em đã bịa chuyện, nhưng rồi bọn em nghĩ người đàn ông đó đã đi lên nhà, nên bọn em bò đi và ngồi trong nhà bếp, bên cạnh chiếc điện thoại và con dao băm của Nell để trên bàn.”

“Sao chưa bao giờ em kể cho chị nghe chuyện này?”

“Thì, đến lúc mọi người về nhà, em cảm thấy thật ngu ngốc, và em biết chắc rằng bố sẽ nghĩ đó là chuyện lớn, nhưng chẳng có gì thực sự xảy ra cả… nhưng nó cũng không khôi hài một chút nào, vả lại em đã không muốn nói về nó.” Alicia cười. “Em đã từng hỏi bà ngoại xem trong nhà này có ma không, nhưng bà bảo không, ít nhất theo bà là không.”

“Và người đàn ông đó, hoặc con ma đó, trông giống hệt Henry?”

“Phải! Em thề đấy, Clare, suýt chút nữa em đứng tim mà chết khi bọn chị bước vào, ý em là, anh ấy là người đàn ông đó! Ngay cả giọng nói cũng giống hệt. Có điều, người đàn ông em thấy trong tầng hầm có tóc ngắn hơn, và già hơn, có lẽ khoảng 40 tuổi…”

“Nhưng nếu người đàn ông đó khoảng 40 tuổi, và chuyện này xảy ra đã 5 năm trước… Hiện nay Henry 28 tuổi, có nghĩa là lúc ấy Henry mới 23 tuổi, Alicia ạ.”

“Ừ nhỉ. Nhưng Clare, thật kỳ quái mà… Henry có anh trai nào không?”

“Không. Và anh ấy không giống bố nhiều lắm.”

“Có thể đó là một hiện tượng hồn lìa khỏi xác cũng nên.”

“Hoặc du hành thời gian”, tôi mỉm cười.

“Ồ, phải. Chúa ạ, quái dị làm sao.” Màn hình ti vi tối đi trong khoảng khắc, chúng tôi quay trở lại với Donna trốn sau bụi tú cầu và Jimmy Stewart đi vòng quanh với áo choàng tắm của cô ấy gọn lỏn trên tay. Anh ấy đang bỡn cợt với cô, nói với cô rằng anh ấy sẽ bán vé cho mọi người xem cảnh tượng này. Đồ đểu cáng, tôi nghĩ, mặc dù tôi đỏ mặt khi nhớ tới những chuyện còn tồi tệ hơn mà tôi đã nói và làm với Henry trong lĩnh vực quần áo và sự trần trụi. Rồi một chiếc xe chạy tới và Jimmy Stewart ném cho Donna chiếc áo choàng của cô. “Bố cậu bị đột quỵ!” người ngồi trong xe lên tiếng, và anh ta chạy đi mà không thèm ngoảnh lại, bỏ Donna Reed đứng hụt hẫng trong những tán lá. Mắt tôi ướt nhòe. “Chúa ạ, Clare, anh ta sẽ quay lại mà”, Alicia nhắc tôi. Tôi mỉm cười, và chúng tôi chỉnh đốn lại để xem ông Potter ép Jimmy Stewart phải từ bỏ việc học và điều hành văn phòng cho vay xây dựng đang bi đát của gia đình. “Đồ đáng ghét”, Alicia nói. “Đồ đáng ghét”, tôi đồng tình.

HENRY: Khi chúng tôi bước ra từ khí đêm lạnh lẽo đi vào cái ấm và những ngọn đèn nhà thờ, ruột gan tôi chao đảo. Tôi chưa từng đến dự lễ mi-sa của đạo Công giáo bao giờ. Lần cuối cùng tôi tham dự bất kể hoạt động tín ngưỡng nào là ở đám tang của mẹ. Tôi nắm lấy tay Clare như một người mù cần được cô ấy dẫn qua lối đi giữa các dãy ghế trung tâm, rồi chúng tôi an tọa tại một hàng ghế trống. Clare và gia đình cô ấy quỳ lên tấm đệm lót gối, còn tôi ngồi trên ghế, như lời Clare bảo. Chúng tôi đến sớm. Alicia đã biến mất, và Nell đang ngồi đằng sau chúng tôi cùng với chồng và con của bà, lính hải quân đang nghỉ phép. Bà dì Dulcie đang ngồi với các cụ đồng trang lứa khác. Clare, Mark, Sharon và Philip quỳ cạnh nhau với những thái độ khác nhau: Clare rất tự giác, Mark quỳ cho có, Sharon bình tĩnh và chăm chú, Philip kiệt quệ. Nhà thờ chứa đầy những cây trạng nguyên. Nó có mùi như mùi nến và những chiếc áo choàng ẩm ướt. Có một mô hình dàn dựng tỉ mỉ cảnh Mary và Joseph cùng những tùy tùng của họ bên phải án thờ. Mọi người dần kéo tới, chọn ghế và chào hỏi lẫn nhau. Clare khẽ ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh tôi, Mark và Philip cũng làm theo, chỉ có Sharon là vẫn quỳ thêm một vài phút rồi tất cả chúng tôi im lặng ngồi trong một hàng, chờ đợi. Người đàn ông mặc áo vét bước lên sân khấu...án thờ, gì cũng được… và thử chiếc mic được gắn vào một cái bục nhỏ, rồi lại biến mất vào phía sau. Đã có thêm rất nhiều người, chật cứng. Alicia và hai người phụ nữ cùng một người đàn ông xuất hiện bên phía cánh trái của sân khấu, mang theo nhạc cụ của họ. Người phụ nữ tóc vàng chơi violin, người phụ nữ tóc nâu xám chơi viola; còn người đàn ông, già đến nỗi lưng đã còng và chân lê từng bước nặng nhọc, cũng chơi violin. Tất cả bọn họ đều mặc quần áo màu đen. Họ ngồi trên những chiếc ghế gập, bật đèn trên giá đỡ bảng phổ, lật qua lật lại các tấm nhạc phổ, tạo ra tiếng kêu lanh canh trên những sợi dây đàn, và nhìn nhau, để tìm sự đồng nhất. Mọi người bỗng nhiên im lặng, và trong sự im lặng đó một nốt trầm, chậm, và dài ngân lên lấp đầy khoảng không, nó chẳng kết nối đến một bản nhạc phổ biến nào nhưng đơn giản tồn tại và kéo dài, âm thanh mà cô ấy tạo ra có vẻ như hiện lên từ một nơi bất chợt nào đó, có lẽ khởi nguồn từ giữa hai tai của tôi, vang dội trong hộp sọ của tôi như những ngón tay đang vuốt ve não bộ. Rồi cô ấy dừng lại. Sự tĩnh lặng kéo theo tuy ngắn ngủi nhưng cùng cực. Rồi cả bốn nhạc công dâng lên vào cuộc. Sau sự mộc mạc giản đơn của một nốt nhạc duy nhất hồi nãy đó, âm nhạc của họ bất hòa, hiện đại và chói tai, tôi nghĩ có lẽ một bản của Bartok? Nhưng rồi tôi phân tích những gì mình đang nghe và nhận ra họ đang chơi Silent Night. Tôi không thể hiểu vì sao nó nghe thật kỳ quái cho đến khi tôi nhìn thấy người phụ nữ tóc vàng chơi violin đá vào ghế Alicia, và sau một nhịp, bản nhạc trở nên hòa hợp. Clare liếc nhìn tôi và mỉm cười. Tất cả mọi người trong nhà thờ nhẹ nhõm hơn. Silent Night mở đường cho một bài thánh ca tôi không nhận ra. Mọi người đứng dậy. Họ quay về phía sau nhà thờ, và một mục sư bước trên lối đi chính với một đoàn tùy tùng đông đúc những cậu bé và một vài người đàn ông đóng bộ đĩnh đạc. Họ trịnh trọng diễu hành đến phía trước của nhà thờ và đứng vào vị trí của mình. Âm nhạc dừng lại đột ngột. Ối, không, tôi nghĩ, lại gì nữa đây? Clare nắm lấy tay tôi, và chúng tôi đứng cùng nhau, giữa đám đông, và nếu Chúa trời có tồn tại, thì Chúa ơi, hãy để tôi được đứng đây, trong yên lặng và kín đáo, ở đây ngay lúc này.

CLARE: Henry trông có vẻ như chuẩn bị lăn ra bất tỉnh. Chúa nhân từ, đừng để anh ấy biến mất vào lúc này. Cha Compton đang chào đón chúng tôi bằng giọng diễn thuyết phát thanh của ông. Tôi thò tay vào túi áo choàng của Henry, thọc qua cái lỗ ở đáy túi, tìm thằng nhỏ của anh ấy và bóp mạnh. Anh ấy nhảy dựng lên như thể tôi vừa sốc điện vào anh ấy. “Chúa ban phước lành cho con”, Cha Compton nói. “Và cho cả Cha”, tất cả chúng tôi đồng thanh đáp lại. Vẫn như vậy, mọi thứ vẫn như vậy. Thế mà, chúng tôi đang ở đây, cuối cùng cũng có thể, để mọi người cùng ngắm. Tôi có thể cảm nhận được cặp mắt buồn chán của Helen đang gắn chặt sau lưng tôi. Ruth đang ngồi ở năm hàng ghế phía sau chúng tôi, với anh trai và bố mẹ của cậu ấy. Nancy, Laura, Mary Christina, Patty, Dave và Chris, thậm chí cả Jason Everleigh; có vẻ như tất cả những ai đã từng đi học cùng tôi đều có mặt tại đây vào tối nay. Tôi nhìn sang Henry, người chẳng hiểu gì về tất cả những chuyện này. Anh ấy đang đổ mồ hôi ròng ròng. Anh ấy liếc nhìn tôi, nhướn một bên lông mày. Lễ mi-sa được bắt đầu. Những bài cầu nguyện, bài kinh, Cầu phước lành đến với con: và với Cha. Tất cả mọi người đứng dậy khi đọc Phúc m, Luca,… Henry đang lắc nhẹ hai chân xao nhãng. Mắt anh ấy nhắm nghiền, môi mím chặt. Nhiều thiên thần hơn. Cha Compton ngân nga, “Nhưng Mary giữ tất cả những đồ vật ấy, và trân quý chúng bằng cả trái tim” “Amen”, chúng tôi nói, và ngồi xuống nghe thuyết pháp. Henry nhoài người lại và thì thầm, “Nhà vệ sinh ở đâu vậy?”

“Đằng sau cánh cửa đó”, tôi bảo anh ấy, tay chỉ về phía cửa mà Alicia, Frank và những người khác đi qua. “Làm thế nào để có thể đến đó?”

“Đi ra phía sau của nhà thờ rồi qua lối đi bên kia.”

“Nếu anh không quay trở lại…”

“Anh phải quay trở lại.” Trong lúc Cha Thompton nói, “Trong buổi tối tràn ngập niềm vui này…” Henry đứng dậy và bước đi nhanh lẹ. Cha Compton đưa mắt dõi theo anh ấy đang bước ngược trở lại rồi quay lên và đi ra phía cửa. Tôi nhìn anh ấy mở cửa rồi đóng lại.

HENRY: Tôi đang đứng ở nơi trông có vẻ là hành lang của một trường tiểu học. Đừng hoảng hốt, tôi tự nhủ với chính mình. Không ai có thể thấy mày. Trốn đi. tôi dáo dác nhìn quanh, có một cánh cửa: BOYS. Tôi mở ra, và đứng giữa phòng vệ sinh nam nhỏ, lát gạch nâu, tất cả đồ vật đều nhỏ xíu và thấp sát mặt đất, lò sưởi làm tăng thêm mùi xà phòng. Tôi mở cửa sổ he hé và thò đầu ra ngoài. Những cây thường xuân chắn hết mọi lối nhìn vào, khiến không khí lạnh ngắt tôi đang hít vào có mùi nhựa thông. Sau một vài phút, tôi cảm thấy bớt mong manh. Tôi nằm xuống sàn nhà, cuộn tròn lại, gối chạm vào cằm. Rồi đấy, tôi đã chắc chắn.

Giờ thì. Nằm giữa sàn nhà lát gạch nâu này. Nó có vẻ là một điều thật nhỏ nhoi để đưa ra hỏi. Nếu Chúa có tồn tại, ngài sẽ muốn chúng ta làm người tốt, và sẽ thật vô lý khi trông đợi ai đó làm người tốt mà không có sự khích lệ, Clare là người rất, rất tốt, cô ấy thậm chí tin vào Chúa, vậy mà tại sao ngài lại quyết định làm bẽ mặt cô ấy trước bàn dân thiên hạ…

Tôi mở mắt. Tất cả những đồ vật bằng sứ nhỏ xíu đang sáng lên óng ánh, bầu trời xanh trong, tím ngắt, tôi cam chịu biến mất một lần nữa, đã chẳng thể nào dừng lại, tôi run rẩy, “Không!” nhưng tôi đã biến mất.

CLARE: Cha Compton đã kết thúc bài thuyết pháp về hòa bình thế giới, bố tôi nhoái người qua Sharon và Mark thì thầm, “Bạn của con không được khỏe hả?”

“Vâng”, tôi thì thầm đáp lại, “anh ấy bị đau đầu và đôi khi chúng làm anh ấy buồn nôn.”

“Ta có nên đi xem có giúp được gì không?”

“Không! Anh ấy sẽ ổn thôi.” Bố tôi có vẻ không được thuyết phục, nhưng ông vẫn ngồi lại ghế. Cha Compton đang chúc phúc. Tôi gắng gượng kìm nén nỗi thúc giục muốn tự mình chạy đi tìm Henry. Hàng ghế đầu đứng dậy đón nhận thánh thể. Alicia đang chơi một bản nhạc của Bach. Nó rất buồn và đáng yêu. Hãy quay trở lại, Henry. Hãy trở lại.

HENRY: Tôi đang trong căn hộ của mình ở Chicago. Căn phòng tối om, và tôi đang quỳ gối xuống sàn phòng khách. Tôi lảo đảo đứng dậy và huých cùi chỏ vào giá sách. “Chết tiệt!” Không thể tin được. Tôi thậm chí không thể trải qua một ngày trọn vẹn với gia đình Clare, bị hút đi và ném vào căn hộ chết tiệt của chính mình như một quả bóng…

“Này.” Tôi quay lại, và tôi đang ngái ngủ ngồi dậy, trên ghế sô-pha kiêm giường ngủ.

“Hôm nay là ngày bao nhiêu?” Tôi hỏi.

“28 tháng Mười Hai, năm 1991.” Bốn ngày sau.

Tôi ngồi uống giường. “Không thể chịu đựng nổi.”

“Bình tĩnh đi. Cậu sẽ quay lại sau vài phút nữa. Sẽ không ai để ý. Cậu sẽ an toàn trong suốt quãng thời gian còn lại của kỳ nghỉ.”

“Thật không?”

“Thật. Thôi than vãn đi”, tôi nói, bắt chước y hệt giọng của bố. Tôi muốn đấm cho cậu ta một cái, nhưng để làm gì chứ? Có tiếng nhạc êm ái đang cất lên.

“Bach hả?”

“Sao? Ồ, phải, nó ở trong đầu của cậu. Là Alicia.”

“Kì quái. Ôi!” Tôi chạy vào phòng tắm, và mém chút nữa thì đến nơi.

CLARE: Những người cuối cùng đang nhận thánh thể khi Henry bước qua ngưỡng cửa, hơi xanh xao, nhưng vẫn đi vững vàng. Anh ấy đi vòng ra sau rồi đi lên lối đi giữa các dãy ghế và nép vào bên tôi. “Lễ mi-sa đã kết thúc, hãy ra về trong bình an”, Cha Compton nói. “Amen”, chúng tôi đáp lại. Các cậu bé đoàn tùy tùng tụ quanh Cha như những con cá nhỏ theo đàn, họ thong dong bước dọc lối đi chính giữa và tất cả mọi người nối đuôi theo sau. Tôi nghe Sharon hỏi Henry có ổn không, nhưng tôi không kịp nghe câu trả lời vì Helen và Ruth đã chặn đầu chúng tôi và tôi giới thiệu Henry với họ.

Helen cười ý nhị. “Nhưng chúng ta đã gặp nhau rồi!”

Henry nhìn tôi cảnh giác. Tôi lắc đầu với Helen, người đang cười đắc thắng. “Có lẽ chưa”, cậu ấy nói. “Rất vui được gặp anh, Henry.” Ruth bẽn lẽn đưa tay cho Henry. Trước sự bất ngờ của tôi, anh ấy giữ nó một lúc rồi nói, “Xin chào, Ruth”, trước khi tôi kịp giới thiệu tên cậu ấy. Nhưng theo tôi biết, cậu ấy không nhận ra anh ấy. Laura gia nhập cùng chúng tôi đúng lúc Alicia chạy lại, va đập chiếc vi-ô-lông-xen của con bé vào đám đông. “Ngày mai ghé qua nhà tớ nhé”, Laura ngỏ ý. “Bố mẹ tớ sẽ đi Bahamas lúc bốn giờ.” Tất cả chúng tôi nhiệt tình đồng ý; cứ hàng năm bố mẹ Laura lại đi đến một địa danh nhiệt đới nào đó ngay khi các món quà đã được mở, và cứ hàng năm chúng tôi lại tụ tập ở nhà Laura ngay khi chiếc xe của bố mẹ cậu ấy khuất bóng khỏi lối đi. Chúng tôi chia tay trong tiếng đồng thanh “Chúc mừng Giáng Sinh!” và ngay sau khi chúng tôi ra khỏi cửa hông của nhà thờ để ra bãi đỗ xe, Alicia nói, “Khỉ, em biết ngay mà!” một lớp tuyết mới rơi phủ kín khắp nơi, thế giới đã được làm mới lại trong màu trắng tinh khôi. Tôi đứng yên nhìn những ngọn cây và những chiếc xe bên kia đường về phía hồ, mà đang đâm sầm, một cách vô hình, ra biển xa xa dưới nhà thờ bên kia con dốc. Henry đứng bên tôi, chờ đợi. Mark nói, “Đi thôi, Clare”, và tôi bắt đầu bước đi.

HENRY: Chúng tôi bước qua ngưỡng cửa căn nhà Sáo Bắc Mỹ lúc 1 giờ 30 sáng. Suốt quãng đường về, Philip đã không ngừng quở trách Alicia vì “lỗi lầm” của con bé ở đoạn đầu bản Silent Night, và con bé chỉ ngồi yên không nói nửa lời, nhìn ra ngoài cửa sổ tới những ngôi nhà tối om im lìm và những ngọn cây. Giờ thì mọi người đã lên nhà trở về phòng của mình sau khi nói “Chúc mừng Giáng Sinh” lần thứ 50, trừ Alicia và Clare, những người đã biến mất vào căn phòng cuối hành lang tầng một. Tôi tự hỏi mình nên làm gì, và trong một phút bốc đồng, tôi đi theo họ.

“... thật đáng ghét”, Alicia đang nói trong lúc tôi thò đầu vào cửa. Căn phòng bị chế ngự bởi chiếc bàn bi-a khổng lồ đang tắm trong ánh sáng huyền ảo của ngọn đèn treo lơ lửng phía trên. Clare đang xếp bóng trong lúc Alicia đi tới đi lui trong bóng tối bên cạnh bờ mép của chiếc bàn đầy ánh sáng.

“Nếu em cố tình khiến ông tức giận và ông đã tức giận, thì chị không hiểu tại sao em còn bực mình”, Clare nói.

“Ông ấy thật tự mãn”, Alicia nói, giơ tay đấm vào không khí. Tôi đằng hắng. Hai chị em bọn họ nhảy dựng lên, rồi Clare nói, “Ôi, Henry, Chúa ạ, em tưởng anh là bố.”

“Anh muốn chơi không?” Alicia hỏi tôi.

“Không, anh chỉ xem thôi.” Có một chiếc ghế đẩu cao bên cạnh bàn, và tôi ngồi lên nó.

Clare đưa cơ cho Alicia, Con bé xoa phấn rồi phá bóng, sắc lẹm. Hai bi sọc rơi vào lỗ góc. Alicia đưa thêm hai bị nữa vào lỗ trước khi đánh hụt, chỉ tí chút, một cú căn băng liên hoàn. “Chà”, Clare nói. “chị gặp thế khó rồi.” Clare dễ dàng đưa bi số 2 đang nằm sát cạnh bàn bên góc vào lỗ. Trong lượt cơ tiếp theo cô ấy để lọt bi cái vào lỗ sau bi số 3, Alicia nhặt cả hai bi lên và tìm vị trí cho cơ tiếp theo của con bé. Con bé ăn hết các bị sọc khác mà không gặp trở ngại nào. “Bi số tám, lỗ bên”, Alicia nói, và trận đấu kết thúc. “Ôi”, Clare thở dài. “Anh có chắc là không muốn chơi chứ?” Cô ấy đưa cơ của mình cho tôi.

“Chơi nào, Henry”, Alicia nói. “Mà anh chị muốn uống gì không?”

“Không”, Clare đáp.

“Em có gì?” tôi hỏi. Alicia bật đèn và một quầy bar cũ tuyệt đẹp xuất hiện cuối căn phòng. Alicia và tôi lọ mọ phía sau quầy, hầu như có đủ hết các loại rượu trên đời. Alicia pha cho mình một ly Rum Coke. Tôi ngần ngại trước đống đồ phong phú, rồi cuối cùng tự lấy cho mình một ly whiskey loại nặng. Clare quyết định cũng sẽ uống, và trong lúc cô ấy cạy đá từ khay vào cốc Kahlua của mình thì cửa phòng mở ra và tất cả chúng tôi giật nảy mình.

Là Mark. “Sharon đâu?” Clare hỏi anh ta. “Khóa cửa lại”, Alicia ra lệnh.

Mark quay người khóa cửa và bước tới quầy bar. “Sharon đang ngủ”, anh ta nói, lôi một chai Heineken từ trong chiếc tủ lạnh bé xíu ra. Anh ta vặn nút và thong dong đi về phía bàn. “Ai đang chơi?”

“Alicia và Henry”, Clare nói.

“Hừm. Đã có ai cảnh báo cậu ấy chưa?”

“Im đi, Mark”, Alicia nói.

“Con bé là Jackie Gleason giả trang đấy”. Mark nhắc nhở tôi.

Tôi quay sang Alicia. “Vậy thì hãy để trận đấu bắt đầu.” Clare lại xếp bóng. Alicia được quyền phá bóng. Whiskey đã lan ra khắp các tế bào trong tôi, mọi thứ trở nên sắc cạnh và rõ ràng. Những viên bi nổ ra như pháo hoa và trổ ra một đường nét mới. Bi 13 lảo đảo bên mép lỗ góc rồi rơi xuống. “Lại bi sọc”, Alicia nói. Con bé đưa thêm bi số 15, 12 và bi số 9 vào lỗ trước khi rơi vào thế bí khiến con bé phải thực hiện cú dội băng kép bất khả thi.

Clare đang đứng ngay rìa ánh sáng nên khuôn mặt của cô ấy chìm trong bóng tối, nhưng thân hình bồng bềnh ra khỏi màn đêm, hai tay khoanh trước ngực. Tôi hướng sự chú ý trở lại bàn. Đã được một lúc. Tôi dễ dàng đưa bi số 2, 3 và 6 vào lỗ, rồi tìm kiếm đường bi khác. Bi số 1 đang nằm ngay trước lỗ góc ở bên kia bàn, tôi đưa bi cái tới bi số 7 đập vào bi số 1 và đưa nó vào lỗ. Tôi lại đưa bi số 4 vào lỗ bên bằng một cú căn băng và đưa bi số 5 vào lỗ góc bằng một cú liên hoàn may mắn. Chỉ là tình cờ, nhưng Alicia vẫn huýt sáo thán phục. Bi số 7 vào lỗ mà không gặp rủi ro. “Bi số 8, lỗ góc”, tôi dùng cơ ra dấu, và bi vào lỗ. Một tiếng thở dài thốt ra đâu đó quanh bàn.

“Ồ, chơi tuyệt lắm”, Alicia nói. “Nữa đi.” Clare mỉm cười trong bóng tối.

“Không giống em hằng ngày chút nào”, Mark nói với Alicia.

“Em quá mệt để tập trung. Và bực mình nữa.”

“Vì bố?”

“Phải.”

“Nếu em thọc ông, ông phải thọc lại thôi.”

Alicia bĩu môi. “Ai chẳng có lúc mắc lỗi.”

“Đã có lúc nó nghe như Terry Riley”, tôi bảo Alicia.

Con bé mỉm cười. “Nó là Terry Riley. Trong album Salome Dances for Peace!”

Clare cười. “Làm thế nào mà Salome lại xuất hiện trong Silent Night?”

“Thì John the Baptist, em đã nghĩ như vậy là đủ liên quan rồi, và nếu chị hạ tông đoạn violin đầu đó xuống một quãng tám thì nó nghe sẽ khá tuyệt, la la la, LA…”

“Nhưng em không thể trách bố vì đã nổi giận”, Mark nói. “Ý anh là, ông biết em sẽ không đời nào chơi thứ gì nghe như vậy chỉ vì không may mắc lỗi.”

Tôi rót cho mình ly rượu thứ hai.

“Frank đã nói gì?” Clare hỏi.

“Ông ấy rất thích nó. Ông ấy đã tìm cách tạo ra một bản nhạc mới từ đó, như kiểu Silent Night kết hợp Stravinsky. Frank đã 87 tuổi, ông ấy chẳng bận tâm nếu em bày trò miễn sao ông ấy thấy thích thú. Còn Arabella và Ashley đã càu nhàu không ít.”

“Thì nó không được chuyên nghiệp cho lắm”, Mark nói.

“Ai thèm bận tâm? Đây chỉ là nhà thờ Thánh Basil.” Alicia nhìn tôi. “Còn anh nghĩ sao?”

Tôi ngần ngại. “Anh không thực sự bận tâm”, cuối cùng tôi nói. “Nhưng nếu bố anh nghe em chơi như vậy, ông ấy sẽ rất giận.”

“Thật ư? Tại sao?”

“Ông ấy có quan điểm rằng mọi bản nhạc cần phải được tôn trong, cho dù đó là bản nhạc ông ấy không thích. Ông ấy không thích Tchaikovsky hay Strauss, nhưng ông ấy sẽ chơi chúng rất nghiêm túc. Đó là lý do vì sao ông ấy tuyệt đến vậy. Ông chơi mọi bản nhạc như thể ông yêu chúng say đắm.”

“Ồ”, Alicia đi ra sau quầy bar, pha cho mình một ly rượu nữa và nghĩ về điều này trong giây lát. “Anh rất may mắn vì có được một ông bố yêu thứ gì đó ngoài tiền.”

Tôi đứng sau Clare, lướt các ngón tay dọc sống lưng cô ấy trong bóng tối. Cô ấy đưa tay ra phía sau và tôi siết chặt lấy nó. “Anh nghĩ em sẽ không nói như vậy nếu em biết đủ về gia đình. Vả lại, anh thấy bố em có vẻ rất quan tâm đến em.”

“Không”, con bé lắc đầu. “Ông chỉ muốn em phải hoàn hảo trước mặt bạn bè ông thôi. Ông chẳng quan tâm chút nào.” Alicia xếp bi và xoay cho chúng vào vị trí. “Ai muốn chơi?”

“Anh sẽ chơi”, Mark nói. “Henry?”

“Được thôi.” Mark và tôi thoa lơ rồi đứng đối mặt nhau hai bên bàn.

Tôi phá băng. Bi số 4 và số 15 vào lỗ. “Bi trơn”, tôi nói, nhìn thấy bi số 2 gần góc bàn. Tôi đưa nó vào lỗ, rồi trượt bi số 3. Tôi đang dần thấm mệt, sự tập trung đang loãng dần do whiskey. Mark chơi bằng sự quyết tâm mà không có sự tinh tế, và đưa bi số 10, rồi số 11 vào lỗ. Tôi sớm đưa tất cả bi trơn còn lại vào lỗ. Bi 13 của Mark đang nằm trên mép của lỗ góc. “Bi 8”, tôi nói và chỉ vào nó. “Anh không thể đưa bi của Mark vào lỗ, bằng không anh sẽ thua”, Alicia nói. “Không sao đâu”, tôi đáp. Tôi đánh bi cái nhẹ nhàng chạy dọc bàn, rồi nó hôn nhẹ vào bi số 8, đẩy mượt mà và dễ dàng về phía bi 13, trông gần như đi vòng quanh bi 13 trên đường ray, rồi lịch thiệp rơi tõm xống lỗ, Clare bật cười, nhưng rồi bi 13 lảo đảo và rơi theo xuống lỗ.

“Ừ thì”, tôi nói, “dễ ăn, dễ mất.”

“Ván đấu hay lắm”, Mark nói.

“Chúa ạ, anh học chơi như vậy ở đâu thế?” Alicia hỏi.

“Đó là một trong những điều anh học ở trường.” Đi kèm với nhậu nhẹt, thơ Anh và Đức, cả thuốc phiện nữa. Chúng tôi xếp cơ lại rồi nhặt cốc và chai lên.

“Chuyên ngành của cậu là gì?” Mark mở cửa và chúng tôi cùng nhau đi dọc hành lang về phía bếp.

“Văn học Anh.”

“Tại sao không phải là âm nhạc?” Alicia cầm cốc của mình và của Clare bằng một tay trong lúc đẩy cửa phòng ăn.

Tôi cười. “Em sẽ không tin anh mù âm nhạc đến mức nào đâu. Bố mẹ anh đã nghĩ họ đem nhầm con từ bệnh viện về.”

“Đó chắc hẳn là một gánh nặng”, Mark nói. “Ít nhất thì bố cũng không bắt em trở thành luật sư”, anh ấy nói với Alicia. Chúng tôi bước nhà bếp và Clare bật điện lên.

“Ông cũng đâu có bắt anh”, con bé vặn lại. “Anh thích nó.”

“Đó là ý anh muốn nói. Ông không bắt chúng ta phải làm điều chúng ta không muốn.”

“Đó có phải một gánh nặng không?” Alicia hỏi tôi.

“Trước khi mẹ anh mất, mọi thứ đang rất tuyệt. Sau đó thì thật khủng khiếp. Nếu anh đã là một thần đồng violin thì có thể… anh không biết”. Tôi nhìn Clare, và nhún vai. “Dù sao thì, bố anh và anh không hợp nhau một chút nào.”

“Tại sao?”

Clare nói, “Đến giờ đi ngủ rồi.” Ý cô ấy là, đủ rồi. Alicia đang đợi câu trả lời.

Tôi quay mặt về phía con bé. “Em đã nhìn thấy bức hình nào của mẹ anh chưa?” Con bé gật đầu. “Trông anh giống hệt mẹ.”

“Thì sao?” Alicia rửa cốc dưới vòi nước. Clare lau khô.

“Thì ông ấy không thể chịu được mỗi khi nhìn anh. Đó chỉ là một trong nhiều lý do.”

“Nhưng…”

“Alicia…” Clare cố gắng nhưng Alicia không phải người có thể bị ngăn lại.

“Nhưng ông ấy là bố của anh.”

Tôi mỉm cười. “Những việc em làm để khiến bố em bực mình chỉ là một cốc bia nhỏ so với những gì anh và bố anh đã làm với nhau.”

“Như điều gì?”

“Như vô số lần ông nhốt anh trong căn hộ, trong đủ loại thời tiết. Như lần anh ném chìa khóa xe của ông xuống sông. Đại loại vậy.”

“Tại sao anh làm thế?”

“Anh không muốn ông phá nát chiếc xe, ông đã say.”

Cả Alicia, Mark và Clare nhìn tôi gật đầu. Họ hoàn toàn hiểu.

“Đến giờ đi ngủ”, Alicia nói, rồi chúng tôi rời nhà bếp và đi về phòng mà không nói thêm một lời, ngoại trừ, “Chúc ngủ ngon.”

CLARE: Theo đồng hồ báo thức của tôi thì bây giờ đang là 3 giờ 14 phút sáng và tôi đang cảm thấy ấm dần lên trên chiếc giường lạnh lẽo khi cửa phòng mở ra và Henry im lặng bước vào. Tôi kéo chăn ra và anh ấy trèo lên. Chiếc giường kêu lên kẽo kẹt trong lúc chúng tôi chỉnh lại tư thế.

“Xin chào”, tôi thì thầm.

“Xin chào”, Henry thì thầm đáp lại.

“Đây không phải là một ý hay.”

“Phòng anh lạnh lắm.”

“Ồ”. Henry chạm vào má tôi, và tôi phải nén không xuýt xoa, những ngón tay của anh ấy lạnh buốt. Tôi xoa chúng giữa lòng bàn tay của mình. Henry chui sâu hơn vào trong chăn. Tôi tựa sát vào anh ấy, gắng tìm lại chút hơi ấm. “Em có đi tất không?” anh ấy hỏi khẽ.

“Có.” Anh ấy với xuống và cởi chúng ra. Sau một vài phút và rất nhiều kẽo kẹt cùng với tiếng Suỵt! cả hai chúng tôi đã trần trụi.

“Anh đã đi đâu khi biến mất khỏi nhà thờ?”

“Căn hộ của anh. Trong khoảng năm phút, bốn ngày sau.”

“Tại sao?”

“Mệt mỏi. Căng thẳng. Có lẽ vậy.”

“Không, tại sao lại ở đó?”

“Anh không biết. Chế độ mặc định chăng? Có lẽ người điều khiển giao thông du hành thời gian nghĩ trông anh sẽ bảnh chọe khi ở đó.” Henry vùi tay vào tóc tôi.

Trời đang sáng dần ngoài kia. “Giáng Sinh vui vẻ”, tôi thì thầm.

Henry không trả lời, tôi nằm thao thức trong tay anh ấy và nghĩ về các thiên thần, lắng nghe hơi thở nhịp nhàng của anh ấy và trân trọng nó bằng tất cả tấm lòng.

HENRY: Tôi thức dậy khi trời vừa sáng để đi vệ sinh; lúc tôi đang ngái ngủ đứng trong phòng tắm của Clare và tháo nước trong ánh sáng của chiếc đèn ngủ Tinkerbell thì nghe thấy tiếng con gái vang lên, “Clare?” Trước khi tôi có thể nhận ra tiếng nói này phát ra sau cánh cửa mà tôi đã nghĩ là cửa tủ quần áo đang mở thì tôi thấy mình đứng trần truồng trước mặt Alicia. “Ối”, cô bé thì thầm trong lúc tôi chụp lấy chiếc khăn tắm và che chính mình trong muộn màng. “Ồ, xin chào, Alicia”, tôi thì thầm, và cả hai chúng tôi nhe răng cười. Cô bé biến mất trở lại vào phòng của mình đột ngột như khi xuất hiện.

CLARE: Tôi gà gật lắng nghe căn nhà thức giấc. Nell đang ở dưới bếp, ngân nga hát và khua khoắng xoong chảo. Có ai đó đang đi ngoài hành lang, đi qua phòng tôi. Tôi nhìn lên và Henry vẫn đang say sưa ngủ, rồi tôi chợt nhận ra tôi phải đưa anh ấy ra khỏi đây trước khi có ai nó nhìn thấy. Tôi gỡ mình ra khỏi Henry và những lớp chăn rồi cẩn thận trèo xuống giường. Tôi nhặt áo choàng ngủ dưới sàn lên và choàng qua đầu trong lúc Etta nói, “Clare! Trời sáng rồi, Giáng Sinh đến rồi!” và thò đầu vào cửa. Tôi nghe tiếng Alicia gọi Etta, và trong lúc ló đầu ra khỏi áo choàng ngủ tôi thấy Etta chạy tới chỗ Alicia. Tôi quay trở lại giường và Henry không còn ở đó nữa. Quần ngủ của anh ấy đang nằm trên thảm và tôi đá chúng xuống dưới giường. Etta bước vào phòng tôi trong chiếc áo choàng tắm màu vàng của bà, tóc bà xõa xuống hai vai. Tôi nói, “Giáng Sinh vui vẻ!” và bà kể cho tôi nghe điều gì đó về mẹ, nhưng tôi không thể tập trung lắng nghe vì mải hình dung ra cảnh Henry hiện hình trước mặt Etta. “Clare?” Etta nhìn tôi lo lắng.

“Hả? Ồ, xin lỗi. Có lẽ cháu vẫn còn ngái ngủ.”

“Dưới nhà có cà phê đấy.” Etta đang dọn giường. Trông bà có vẻ lúng túng.

“Để cháu làm, Etta. Bác cứ xuống dưới đi.” Etta vòng sang bên kia giường. Mẹ tôi ló đầu vào cửa. Bà trông rạng rỡ, sáng sủa hơn sau cơn bão đêm qua. “Chúc mừng Giáng Sinh, con yêu.”

Tôi bước lại gần bà, hôn khẽ lên má. “Chúc mừng Giáng Sinh, mẹ.” Thật khó để tức giận với bà khi bà là người mẹ thân thiện đáng yêu của tôi.

“Etta, chị xuống dưới nhà với tôi nhé?” Mẹ hỏi. Etta lấy tay vỗ vỗ vào gối và các vết hằn song song của hai cái đầu của chúng tôi biến mất. Bà nhìn tôi, nhướn lông mày, nhưng không nói gì cả.

“Etta?”

“Đến đây…” Etta hối hả đi theo mẹ. Tôi đóng cửa lại và dựa người vào nó sau khi họ đi khỏi, chỉ vừa kịp lúc để thấy Henry lăn ra khỏi gầm giường. Anh ấy đứng dậy và mặc quần ngủ vào. Tôi khóa cửa lại.

“Anh đã ở đâu vậy?” Tôi thì thầm.

“Dưới gầm giường”, Henry thì thầm đáp, như thể đó là điều hiển nhiên.

“Từ nãy giờ?”

“Phải.” Chẳng hiểu sao tôi thấy điều này thật khôi hài, và tôi bắt đầu khúc khích. Henry đặt tay lên miệng tôi, và không lâu sau cả hai chúng tôi run lên vì cười, trong im lặng.

HENRY: Ngày Giáng Sinh yên tĩnh đến kỳ lạ sau những cơn giông bão đêm qua. Chúng tôi tập trung quanh cây thông, bồn chồn đứng trong những chiếc áo choàng tắm và dép lê, còn các bậc cha mẹ lo mở quà, và những tiếng kêu hồ hởi vang lên. Sau tràng cảm ơn dạt dào từ mọi phía, chúng tôi ăn sáng. Có một khoảng thời gian bình lặng rồi lại ăn bữa tối Giáng Sinh, với những lời khen nức nở dành cho Nell và những con tôm hùm. Ai cũng mỉm cười vui vẻ, cư xử phải phép và trông bảnh chọe. Chúng tôi là một gia đình hạnh phúc kiểu mẫu, một tấm áp phích quảng cáo cho giai cấp tư sản. Chúng tôi là tất cả những gì tôi đã luôn ước có được khi ngồi trong nhà hàng Lucky Wok với bố và ông bà Kim mỗi ngày Giáng Sinh, và giả vờ như đang vui vẻ trong lúc họ lo âu nhìn tôi. Nhưng ngay cả khi chúng tôi đang thư thả, ấm thân no bụng, ngồi trong phòng khách sau bữa tối, xem bóng đá và đọc những cuốn sách chúng tôi đã tặng nhau và gắng điều khiển những món quà cần sử dụng pin và/hoặc phải lắp ráp, vẫn có sự căng thẳng dễ dàng nhận thấy. Như thể ở đâu đó, tại một trong những căn phòng vắng vẻ trong căn nhà này, lệnh ngừng bắn đã được ban ra, và tất cả các bên đang cố gắng thực thi, ít nhất cho đến ngày mai, đến khi lô đạn dược mới được chuyển đến. Tất cả chúng tôi đang diễn kịch, đang giả vờ như thoải mái, khoác lên mình vai diễn của một người mẹ, người cha, anh trai, chị em gái, bạn trai và vị hôn phu lý tưởng. Bởi vậy nó là một sự giải thoát khi Clare nhìn đồng hồ của mình, đứng dậy khỏi ghế, và nói, “Đi nào, đã đến giờ ghé nhà Laura rồi.”

CLARE: Bữa tiệc của Laura đang náo nhiệt khi chúng tôi đến. Henry căng thẳng và xanh xao, đi liền tới quầy rượu ngay lúc chúng tôi cởi áo khoác ra. Tôi vẫn còn cảm thấy buồn ngủ do rượu uống trong bữa tối, nên tôi lắc đầu khi anh ấy hỏi tôi muốn uống gì, và anh ấy mang cho tôi một ly cô-ca. Henry nắm chặt lấy chai bia của mình như thể nó là phao cứu sinh. “Trong bất kì hoàn cảnh nào, đừng bỏ anh lại chống đỡ một mình”, Henry đòi hỏi, mắt nhìn qua vai tôi, và trước khi tôi kịp quay đầu lại Helen đã ở trước mặt. Chúng tôi im lặng ngượng ngùng trong chốc lát.

“Henry”, Helen nói, “bọn em nghe nói anh là thủ thư. Nhưng trông anh không giống thủ thư chút nào.”

“Thực ra, anh là người mẫu đồ lót cho Calvin Klein. Chức thủ thư chỉ là vỏ bọc mà thôi.”

Chưa bao giờ tôi thấy Helen bối rối như lúc này. Giá mà tôi có mang theo máy ảnh. Cậu ấy nhanh chóng lấy lại bình tĩnh, nhìn Henry từ trên xuống, rồi mỉm cười. “Được rồi, Clare, cậu có thể giữ anh ấy”, Helen nói.

“Thật nhẹ nhõm khi nghe cậu nói vậy”, tôi bảo cậu ấy. “Tớ đã đánh mất biên lai rồi.” Laura, Ruth và Nancy kéo lại chỗ chúng tôi, mặt mày quả quyết, và tra khảo chúng tôi: chúng tôi đã gặp nhau như thế nào, Henry làm gì, anh ấy học đại học gì, đủ thứ trên trời dưới biển. Tôi chưa bao giờ nghĩ rằng khi Henry và tôi cuối cùng cũng xuất hiện giữa đám đông cùng nhau lại có thể vừa đau đầu vừa nhàm chán đến thế. Tôi giật mình khi Nancy nói, “Thật kỳ lạ khi tên anh cũng là Henry.”

“Ồ?” Henry nói, “Tại sao vậy?”

Nancy kể cho anh ấy nghe về bữa tiệc ở nhà Mary Christina, bữa tiệc mà tấm cầu cơ đã phán rằng tôi sẽ cưới một người tên Henry, Henry lộ vẻ ấn tượng. “Thật sao?” anh ấy hỏi tôi.

“Ừm, phải.” Đột nhiên tôi cần phải đi vệ sinh gấp. “Xin lỗi”, tôi nói, tự tách mình ra khỏi nhóm và lờ đi vẻ mặt nài nỉ của Henry. Helen bám theo gót tôi trong lúc tôi đi lên cầu thang. Tôi phải đóng sầm cửa vào mặt cậu ấy để ngăn cậu ấy khỏi đi theo vào.

“Mở cửa ra, Clare”, cậu ấy nói, lắc lắc tay nắm cửa. Tôi thong thả đi vệ sinh, rửa tay và tô lại son môi. “Clare”, Helen càu nhàu, “Tớ sẽ đi xuống nhà và kể cho bạn trai cậu mọi điều xấu xa cậu đã từng làm trong đời nếu cậu không mở cửa ra ngay lập…” tôi mở toang cánh cửa và Helen chút nữa ngã lăn ra sàn.

“Được lắm, Clare Abshire”, Helen nói hăm dọa. Cậu ấy đóng cửa lại, Tôi ngồi xuống thành bể tắm còn cậu ấy tựa lên bồn rửa mặt, oai vệ trước mặt tôi với mưu đồ moi móc thông tin của cậu ấy. “Khai mau. Chuyện gì đang diễn ra giữa cậu và anh chàng Henry này? Ý tớ là, cậu đứng giữa thanh thiên bạch nhật và xổ ra một tràng dối trá. Không phải cậu mới gặp anh ta ba tháng trước, cậu đã biết anh ta hàng năm trời rồi. Bí mật lớn này là gì?”

Tôi thực sự không biết phải bắt đầu từ đâu? Tôi có nên nói cho Helen biết sự thật? Không.

Tại sao không? Theo tôi biết, Helen chỉ mới gặp Henry một lần duy nhất, và anh ấy đã không khác bây giờ là mấy. Tôi quý Helen. Cậu ấy mạnh mẽ, cậu ấy điên loạn, cậu ấy không dễ bị lừa. Nhưng tôi biết cậu ấy sẽ không đời nào tin nếu tôi nói, du hành thời gian, Helen ạ. Bạn phải chứng kiến mới có thể tin.

“Được rồi”, tôi nói, tự trấn tĩnh lại mình. “Phải, tớ đã biết anh ấy từ rất lâu.”

“Lâu đến mức nào?”

“Từ khi tớ sáu tuổi.”

Mắt Helen trợn tròn lên như một nhân vật hoạt hình. Tôi phì cười.

“Tại sao… làm thế nào… cậu đã hẹn hò với anh ta được bao lâu rồi?”

“Tớ không biết. Đã có một khoảng thời gian mối quan hệ của bọn tớ mập mờ không xác định, nhưng chẳng có gì xảy ra cả. Henry kiên quyết rằng anh ấy sẽ không lả lơi với một đứa trẻ, nên tớ chỉ yêu anh ấy vô vọng…”

“Nhưng… làm thế nào mà bọn tớ chưa từng biết gì về anh ta? Tớ không hiểu tại sao cậu phải giữ bí mật. Cậu có thể nói với tớ.”

“Cậu cũng lờ mờ đoán được mà.” Câu này thật dở, đến tôi cũng biết vậy.

Helen có vẻ tổn thương. “Đâu có giống với cậu kể tớ nghe.”

“Tớ biết. Tớ xin lỗi.”

“Hừm. Vậy lý do là gì?”

“Anh ấy lớn hơn tớ tám tuổi.”

“Thì sao?”

“Thì khi tớ 12 tuổi, anh ấy đang 20, đó là vấn đề.” Chưa kể khi tôi 6 tuổi, anh ấy đang 40.

“Tớ vẫn không hiểu. Ý tớ là, tớ biết tại sao cậu không muốn bố mẹ cậu biết cậu đang chơi trò Lolita và Humbert với anh ta, nhưng tớ không hiểu tại sao cậu không thể nói với bọn tớ. Bọn tớ sẽ hoàn toàn ủng hộ. Ý tớ là, bao lâu nay bọn tớ cảm thấy ái ngại cho cậu, lo lắng cho cậu, và tự hỏi tại sao cậu cư xử như một bà sơ…” Helen lắc đầu. “Trong khi thực tế thì cậu đang chơi trò người lớn với anh thủ thư suốt từ đó đến giờ…”

Tôi không thể nhịn được, tôi đỏ mặt. “Tớ không có chơi trò người lớn với anh ấy suốt từ đó đến giờ.”

“Ôi, thôi đi.”

“Thật đấy! Bọn tớ đã đợi cho đến khi tớ 18 tuổi. Vào sinh nhật của tớ.”

“Kể cả vậy đi nữa, Clare”, Helen bắt đầu, nhưng có tiếng gõ cửa thình thịch, và một giọng nam ồm ồm hỏi, “Các cô xong chưa?”

“Cậu chưa xong với tớ đâu”, Helen rít lên khi chúng tôi ra khỏi nhà tắm trong tiếng vỗ tay của năm gã thanh niên đứng xếp hàng trong hành lang.

Tôi tìm thấy Henry trong bếp, đang kiên nhẫn lắng nghe một trong những cậu bạn vận động viên của Laura ba hoa về bóng đá. Tôi bắt gặp ánh mắt của cô bạn mũi khoằm tóc vàng của cậu ta, và cô ấy kéo cậu ta đi lấy thêm đồ uống.

“Henry nói, “Clare, nhìn này, Baby Punks[3]!” Tôi nhìn theo hướng anh ấy chỉ, đó là Jodie, cô em gái 14 tuổi của Laura, và bạn trai cô ấy, Bobby Hardgrove. Bobby có kiểu tóc Mohawk xanh và chiếc áo phông rách rưới gắn đầy kim băng, còn Jodie đang gắng để trông như Lydia Lunch, nhưng thay vào đó, cô bé chỉ giống một con gấu trúc Mỹ xù lông. Trông chúng như đang tham dự lễ hội Halloween thay vì tiệc Giáng Sinh. Chúng như bị mắc kẹt, lạc lõng và đầy cảnh giác. Nhưng Henry lại hăng hái. “Ồ! Chúng bao nhiêu tuổi? Mười hai?”

[3] Punks: Những người cuồng nhạc rock thập niên 70.

“Mười bốn.”

“Xem nào, 14 tuổi, năm 1991, có nghĩ là… ôi trời, chúng sinh năm 1977. Anh thấy mình già cỗi quá. Anh cần một li nữa.”

Laura đi qua nhà bếp, tay bưng khay Jell-O. Henry lấy hai ly và liên tiếp uống cạn chúng một cách nhanh chóng, rồi nhăn mặt. “Ôi, thật kinh khủng làm sao.” Tôi cười. “Em nghĩ bọn chúng nghe gì?” Henry nói.

“Em không biết. Sao anh không lại gần và hỏi chúng?”

Henry có vẻ cảnh giác. “Ồ, anh không thể, anh sẽ làm chúng sợ.”

“Em nghĩ anh sợ chúng.”

“Có lẽ em nói đúng. Trông chúng thật mỏng manh và trẻ trung, và xanh lè như những hạt đậu non.”

“Đã bao giờ anh ăn mặc như vậy chưa?”

Henry khịt mũi chế nhạo. “Em nghĩ sao? Dĩ nhiên là chưa. Bọn trẻ này đang bắt chước dân rock Anh. Còn anh là rock Mỹ. Anh thường ăn vận như Richard Hell hơn.”

“Sao anh không lại nói chuyện với chúng? Chúng có vẻ cô đơn.”

“Em phải đi cùng và giới thiệu anh, nắm tay anh.” Chúng tôi đi dọc nhà bếp vẻ cảnh giác, như Levi-Strauss đang lại gần bộ đôi ăn thịt người. Jodie và Bobby toát ra vẻ chiến đấu hoặc bỏ chạy mà bạn thường thấy ở loài hươu trên kênh Thế giới Động vật.

“Chào, Jodie, Bobby.”

“Chào chị Clare”, Jodie nói. Tôi biết Jodie từ khi con bé còn nằm nôi, nhưng nó có vẻ ngượng ngùng bất chợt, tôi cược rằng trang phục rock này chắc hẳn là ý tưởng của Bobby.

“Trông bọn em có vẻ buồn chán nên chị dẫn anh Henry qua nói chuyện với bọn em. Anh ấy thích trang phục của bọn em.”

“Xin chào”, Henry nói, ngượng ngùng. “Anh chỉ đang thắc mắc bọn em thường nghe gì.”

“Nghe?” Bobby hỏi lại.

“Em biết đấy, âm nhạc. Bọn em thích nghe nhạc gì?”

Bobby tươi tỉnh hẳn ra. “Sex Pistols”, thằng bé nói, rồi ngập ngừng.

“Hẳn rồi”, Henry nói, gật đầu. “Và The Clash?”

“Vâng. Và Nirvana…”

“Nirvana khá được”, Henry nói.

“Blonde?” Jodie nói như thể câu trả lời của con bé có thể sai.

“Chị thích Blondie”, tôi nói. “Còn anh Henry thích Deborah Harry.”

“Ramones?” Henry nói. Chúng cùng nhau gật đầu. “Còn Pattie Smith thì sao?”

Jodie và Bobby nhìn ngơ ngác.

“Iggy Pop?”

Bobby lắc đầu. “Pearl Jam?”

Tôi ngắt lời. “Ở đây không có nhiều kênh radio lắm”, tôi bảo Henry. “Bọn chúng không thể biết những nghệ sĩ đó được.”

“Ồ”, Henry nói. Anh ấy ngập ngừng. “Bọn em có muốn anh liệt kê ra một số thứ không? Để nghe?” Jodie nhún vai. Bobby gật đầu, có vẻ nghiêm túc, và hứng khởi. Tôi lục trong túi ra một mẩu giấy và bút. Henry ngồi xuống bàn ăn, và Bobby ngồi đối diện với anh ấy. “Được rồi”, Henry nói. “Phải quay lại với những năm 60 trước, phải không? Bắt đầu với Velvet Underground, ở New York. Rồi ngay ở Detroit này, có MC5, và Iggy Pop, Stooges. Rồi trở lại New York, có The New York Dolls, và The Heartbreakers…”

“Tom Petty?” Jodie nói. “Bọn em có nghe nói về anh ấy.”

“Không, đây là ban nhạc hoàn toàn khác”, Henry nói. “Hầu hết bọn họ đã chết trong những năm 80.”

“Tai nạn máy bay?” Bobby hỏi.

“Thuốc phiện”, Henry đính chính. “Dù sao thì, có Television, Richard Hell, Voidoids và Patti Smith.”

“Talking Heads”, tôi nói thêm.

“Anh không chắc. Em có thực sự coi họ là nhóm punk rock?”

“Họ đã từng.”

“Được rồi”, Henry ghi tên vào danh sách, “Talking Heads. Và rồi, nó chuyển qua nước Anh…”

“Em tưởng punk rock bắt đầu từ nước Anh? Bobby hỏi.

“Không. Dĩ nhiên”, Henry nói, đẩy lùi ghế ra sau, “một số người, trong đó có anh, tin rằng punk rock chỉ là sự biểu thị gần đây nhất của cảm giác, của niềm tin rằng mọi việc không đúng đắn, thậm chí là cực kỳ sai lầm, rằng việc duy nhất chúng ta có thể làm là nói quên mẹ nó đi hết lần này đến lần khác, to hết sức, cho đến khi có ai đó ngăn chúng ta lại.”

“Đúng vậy”, Bobby nói khẽ, khuôn mặt thằng bé bừng sáng trong sự hăng hái gần như tín ngưỡng dưới mái tóc tua tủa. “Đúng vậy.”

“Anh đang đầu độc bọn trẻ đấy”, tôi bảo Henry.

“Ồ, đằng nào nó cũng sẽ đến được đó mà không có anh. Phải không?”

“Em đang cố, nhưng ở đây, nó không dễ dàng.”

“Anh có thể hiểu điều đó”, Henry nói. Anh ấy ghi thêm vào danh sách. Tôi nhìn qua vai anh ấy. Sex Pistols, The Clash, Gang of Four, Buzzcocks, Dead Kennedys, X, The Mekons, The Raincoats, The Dead Boys, New Order, The Smiths, Lora Logic, The Au Paors, Bog Black, PiL, The Pixies, The Breeders, Sonic Youth…

“Henry, chúng sẽ không thể nào kiếm được những thứ này ở đây.” Anh ấy gật đầu, rồi viết số điện thoại và địa chỉ của Vintage Vinyl xuống dưới tờ giấy. “Em có máy nghe đĩa chứ?”

“Bố mẹ em có”, Bobby nói. Henry nhăn mặt.

“Em thực sự thích gì?” Tôi hỏi Jodie. Tôi có cảm giác như con bé đã bị bật ra khỏi cuộc hội thoại của hai người đàn ông mà Henry và Bobby đang làm chủ.

“Prince” con bé thừa nhận. Henry và tôi thốt lên một tiếng Ồ! lớn và tôi bắt đầu hát 1999 to hết mức có thể, Henry nhảy dựng lên và chúng tôi bám sát vào nhau nhảy điệu lắc mông giữa bếp. Laura nghe thấy chúng tôi và chạy đi bật đĩa nhạc thực sự vào, rồi như thế, bữa tiệc trở thành vũ hội.

HENRY: Chúng tôi đang trên đường trở về nhà Clare sau khi rời bữa tiệc nhà Laura. Clare nói, “Anh im lặng quá đấy.”

“Anh đang nghĩ đến những đứa trẻ đó. Baby Punks.”

“Ồ. Chúng thì sao?”

“Anh đang tự hỏi điều gì khiến cậu bé đó…”

“Bobby.”

“... Bobby, trở lại và theo đuổi dòng nhạc được sinh ra trước cả khi nó ra đời.”

“Em đã rất thích The Beatles”, Clare chỉ ra, “và họ đã tan rã trước cả khi em ra đời.”

“Phải rồi, tại sao vậy? Đáng lý em phải ngất ngây với Depeche Mode, hay Sting hay ai đó khác. Bobby và bạn gái của nó phải nghe The Cure nếu chúng muốn ăn vận theo thần tượng. Nhưng thay vào đó, chúng vùi đầu vào punk, thứ mà chúng không biết là gì…”

“Em chắc rằng chủ yếu chỉ để chọc tức bố mẹ chúng. Laura đã nói với em rằng bố cậu ấy không để Jodie ăn mặc như vậy ra khỏi nhà. Con bé nhét quần áo vào ba lô rồi thay đồ trong phòng vệ sinh nữ ở trường”, Clare nói.

“Nhưng đó là việc ai cũng làm hồi đó. Ý anh là, đó là vấn đề của việc đòi hỏi quyền cá nhận, anh có thể hiểu, nhưng tại sao chúng lại đòi hỏi quyền tự do cá nhân của năm 1977? Đáng lẽ chúng nên mặc áo ca rô vải dệt.”

“Tại sao anh lại quan tâm đến điều đó?” Clare hỏi.

“Nó khiến anh chán nản. Nó gợi nhớ rằng khoảnh khắc anh thuộc về là cái chết, và không chỉ cái chết, mà còn bị lãng quên. Những thứ này không được chơi trên radio nữa. Anh không thể hiểu vì sao. Như thể nó chưa bao giờ tồn tại. Đó là lý do vì sao anh cảm thấy hứng thú khi nhìn thấy những đứa trẻ này ăn vận như những người cuồng punk rock, vì anh không muốn tất cả những thứ đó dễ dàng biến mất.”

“Anh luôn có thể quay trở lại”, Clare nói. “Hầu hết mọi người bị gắn chặt vào hiện tại; anh lại được quyền xuất hiện ở đó hết lần này đến lần khác.”

Tôi nghĩ về điều đó. “Như vậy càng buồn thêm, Clare ạ. Kể cả khi anh có thể làm việc gì đó thú vị, như đi đến buổi nhạc hội mà anh từng bỏ lỡ, nhưng có thể ban nhạc đã tan rã hoặc có ai đó đã chết, như vậy sẽ thật buồn khi xem họ biểu diễn vì anh đã biết chuyện gì sẽ xảy ra.”

“Nhưng vậy thì có gì khác so với những việc còn lại trong cuộc sống của anh?”

“Chúng không khác.” Chúng tôi về đến con đường riêng dẫn tới nhà Clare. Cô ấy rẽ vào.

“Henry?”

“Sao?”

“Nếu bây giờ anh có thể dừng lại… nếu anh không thể du hành thời gian nữa, và sẽ không có hậu quả gì, liệu anh có dừng lại?”

“Nếu anh có thể dừng lại mà vẫn được gặp em?”

“Anh đã gặp em rồi.”

“Có. Anh sẽ dừng.” Tôi nhìn Clare mờ ảo trong bóng tối.

“Nếu vậy sẽ rất khôi hài,” cô ấy nói, “em sẽ có tất cả những ký ức mà anh sẽ chẳng bao giờ được trải nghiệm. Nó sẽ giống như ở bên người mắc hội chứng quên. Em đã cảm thấy như vậy kể từ khi chúng ta đặt chân đến đây.”

Tôi cười. “Vậy trong tương lai em sẽ có thể nhìn anh rơi vào từng ký ức một, cho đến khi anh gom đủ từng mảnh ký ức vào nhau trọn vẹn.”

Cô ấy cười. “Có lẽ vậy.” Clare rẽ vòng xuyến trước nhà. “Về tới tổ ấm rồi đây.”

Chúng tôi rón rén trở về phòng riêng của mình, tôi mặc quần áo ngủ, đánh răng, rồi lại lẻn vào phòng Clare, và lần này nhớ khóa cửa lại. Chúng tôi nằm ấm áp trên chiếc giường hẹp, cô ấy thì thầm. “Em không muốn anh bỏ lỡ chúng.”

“Bỏ lỡ gì?”

“Tất cả những gì xảy ra, khi em còn là một đứa trẻ. Cho đến giờ chúng mới đang trên đường diễn ra, vì anh chưa từng xuất hiện nơi đó. Nên khi chúng xảy ra với anh, đó sẽ là thực.”

“Anh đang trên đường đến.” Tôi vuốt tay qua bụng Clare, rồi xuống giữa hai chân cô ấy. Clare kêu ré lên.

“Suỵt!”

“Tay anh lạnh như đá”

“Anh xin lỗi.” Chúng tôi cẩn thận quan hệ, trong im lặng. Khi cuối cùng cũng đến đỉnh, nó mãnh liệt đến độ đầu tôi đau như búa bổ, và trong một thoáng, tôi sợ rằng mình sẽ biến mất, nhưng không. Thay vào đó, tôi nằm trong vòng tay Clare, nhắm nghiền mắt vì đau. Clare đang ngáy, tiếng ngáy nhẹ nhàng mà ngỡ như những chiếc xe ủi chạy qua đầu tôi. Tôi muốn chiếc giường của riêng mình, trong căn hộ của riêng mình. Tổ ấm thân yêu. Không có nơi nào như nhà. Hãy đưa tôi trở về, hỡi những con đường làng. Nhà là nơi trái tim tôi ngự trị. Nhưng trái tim tôi đang ở đây. Vậy đây chắc hẳn là nhà. Clare thở sâu, quay đầu lại, rồi im lặng. Chào em thân yêu, anh đã về. Anh đã về nhà.

CLARE: Buổi sáng trong veo và lạnh giá. Điểm tâm sáng đã được ăn. Xe đã được chất đồ. Mark và Sharon đã đi cùng bố đến sân bay ở Kalamazoo. Henry đang trong hành lang nói lời tạm biệt tới Alicia; tôi chạy lên lầu vào phòng của mẹ.

“Ồ, đã muộn rồi sao?” bà hỏi khi nhìn thấy tôi đang mặc áo choàng và đi ủng. “Mẹ tưởng con sẽ ở lại ăn trưa.” Mẹ tôi đang ngồi tại chiếc bàn mà thường xuyên chất đầy những mẩu giấy chi chít chữ viết tay của bà.

“Mẹ đang viết gì vậy?” Bất kể nó là gì, nó chằng chịt những nét chữ nguệch ngoạc và gạch xóa.

Mẹ tôi úp tờ giấy xuống bàn. Bà rất bí mật về những gì mình viết. “Chẳng có gì cả. Chỉ là một bài thơ về khu vườn dưới tuyết. Nó chẳng hay chút nào.” Mẹ tôi đứng dậy, đi về phía cửa sổ. “Thật buồn cười khi thơ chẳng bao giờ đẹp như khu vườn thật. Ít nhất thơ của mẹ là vậy.”

Tôi không thể nhận xét gì về điều này, vì mẹ chưa bao giờ để tôi đọc một bài thơ nào của bà, nên tôi nói, “Khu vườn đẹp tuyệt vời”, và bà xua tay gạt đi lời tán dương. Khen ngợi chẳng ích gì với mẹ tôi, bà không tin vào chúng. Chỉ sự chỉ trích là có thể khiến má bà đỏ ửng và thu hút được sự chú ý của bà. Nếu tôi nói gì không phải phép là bà sẽ nhớ mãi không thôi. Chúng tôi yên lặng ngượng ngùng trong giây lát. Tôi nhận ra rằng bà đang đợi tôi rời khỏi để có thể quay trở lại với việc viết lách của mình.

“Tạm biệt mẹ”, tôi nói. Tôi hôn lên khuôn mặt mát lạnh của bà, rồi trốn chạy.

HENRY: Chúng tôi đã lên đường được gần một tiếng đồng hồ. Suốt nhiều dặm, đường cao tốc được bao quanh bởi những ngọn cây thông; giờ chúng tôi đang ở trong một vùng phẳng lặng vây kín bởi những hàng rào thép gai. Đã một lúc không ai trong chúng tôi lên tiếng. Ngay khi nhận ra sự im lặng này là kỳ lạ, tôi mở miệng nói.

“Kỳ nghỉ cũng không tệ nhỉ?” Giọng tôi quá hồ hởi, quá to trong chiếc xe nhỏ. Clare không trả lời, tôi quay sang nhìn cô ấy. Cô ấy đang khóc; những giọt nước mắt chảy xuống hai bên má trong lúc lái xe và giả vờ như mình đang không khóc. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy Clare khóc trước đây, và có điều gì đó trong những giọt nước mắt im lặng chịu đựng của cô ấy khiến tôi trở nên yếu đuối. “Clare. Clare, có lẽ… em có thể dừng xe một lúc chăng?” Vẫn không nhìn vào tôi, cô ấy giảm tốc độ và tấp vào lề đường rồi dừng lại. Chúng tôi đang ở đâu đó ở Indiana. Bầu trời xanh trong và có nhiều quạ trên cánh đồng bên đường. Clare gục đầu xuống tay lái và hít một hơi dài.

“Clare.” Tôi nói chuyện với cái gáy của cô ấy. “Clare, anh xin lỗi. Có phải anh đã làm sai điều gì? Có chuyện gì vậy? Anh…”

“Không phải tại anh”, cô ấy lên tiếng dưới làn tóc. Chúng tôi cứ ngồi vậy trong vài phút.

“Vậy thì có chuyện gì?” Clare lắc đầu, và tôi cứ ngồi vậy nhìn đăm đăm vào cô ấy. Cuối cùng tôi cũng gom đủ cam đảm để chạm vào cô ấy. Tôi vuốt tóc, và cảm nhận những lóng xương trên cổ và xương sườn cô ấy. Clare quay lại; tôi lóng ngóng ôm cô ấy qua hai chiếc ghế tách biệt và giờ Clare khóc to hơn, run rẩy.

Rồi cô ấy im lặng. Rồi cô ấy nói, “Chỉ tại mẹ hết.”

Lát sau, khi đang tắc đường trên xa lộ Dan Ryan, và lắng nghe Irma Thomas, Clare hỏi, “Henry? Nó có… anh có thấy phiền không?”

“Phiền gì cơ?” tôi hỏi, nghĩ tới lúc Clare khóc.

Nhưng cô ấy lại nói, “Gia đình em. Họ có… có phải họ…”

“Họ chẳng sao cả, Clare. Anh thực sự thích họ. Nhất là Alicia.”

“Đôi lúc em chỉ muốn ném tất cả bọn họ xuống hồ Michigan và đứng nhìn họ chìm.”

“Anh hiểu cảm giác đó. Mà này, anh nghĩ bố em và Mark đã thấy anh trước đó. Và Alicia có nói điều gì đó rất kỳ quái lúc chúng ta ra về.”

“Em đã từng nhìn thấy anh với bố và Mark. Alicia chắc chắn đã nhìn thấy anh ở dưới tầng hầm khi con bé 12 tuổi.”

“Liệu nó có là vấn đề?”

“Không, vì sự lý giải kỳ quái để có thể tin.” Cả hai chúng tôi bật cười, và sự căng thẳng đã đi cùng chúng tôi suốt quãng đường đến Chicago biến mất. Giao thông đã thông thoáng hơn. Không lâu sau Clare dừng lại trước cửa tòa nhà của tôi. Tôi lấy đồ đạc trong cốp xe, nhìn Clare lùi lại và lướt đi về phía Dearbon, cổ họng tôi nghẹn lại. Vài tiếng sau đó tôi nhận ra cảm giác mà mình đang cảm nhận là nỗi cô đơn, và một Giáng Sinh nữa đã chính thức khép lại.



Bình luận
Sắp xếp
    Loading...