Trường An Loạn

Chương 1


Chương tiếp

Tôi thấy rất lạ, thời điểm tôi có thể nhớ được tới giờ là hồi tôi 5 tuổi. Năm tuổi tôi đã ở trong Thiếu Lâm tự. Vai vế của sư phụ tôi ở đó chắc rất cao, tôi tưởng ông chỉ có hai đồ đệ. Một là Thích Không – sư huynh tôi, hai là tôi – Thích Nhiên.

Những năm ấy, Thiếu Lâm hết sức hưng thịnh, thịnh đến nỗi chữ Thích đã chẳng còn cách nào để đặt thêm pháp danh nữa, bản thân sư phụ tôi lén giữ lại mấy chữ nghe hay hoặc giả có ý nghĩa, dành cho những người có quan hệ với ông, những người đó thường cho người khác xem thẻ bài pháp danh của mình để họ biết rằng chỗ dựa đằng sau mình rất vững, nếu không phải người cai quản sự vụ chung của cả chùa thì cũng là người có quan hệ với các vị đại quan bên ngoài, cho nên hễ đưa thẻ bài pháp danh ra, thông thường đi đến đâu cũng không có ai ngăn trở, trên đường muốn cưỡi ngựa thế nào thì cưỡi, có lấn vượt ngựa, tạt đầu lừa trên phố, phóng ngược chiều, chạy quá tốc độc, cột ngựa sai quy định, húc nhẹ đuôi nhau, nha môn cũng làm ngơ. Một số người vì gia cảnh nghèo nàn mà muốn xuất gia, đã từ bỏ ý định đến Thiếu Lâm, chuyển sang nghề hành khất, chỉ vì pháp danh của họ quả thực quá khó nghe.

Hồi sáu tuổi, tôi nghe sư phụ nói với một người quỳ trước cửa chùa bảy ngày rằng, ngươi chỉ có thể có pháp danh là Thích Phóng thôi. Tôi thấy cái tên này còn lọt tai đôi chút.

Năm bảy tuổi, tôi nghe sư phụ nói với một người quỳ trước cửa chùa mười ngày rằng: ta rất cảm động, nhưng pháp danh không còn nhiều nữa, ta thấy cái tên nghe hay nhất còn lại cũng chỉ có Thích Vú thôi.

Người ấy nói: Đa tạ sư phụ, song đệ tử đường đường là một nam tử hán, chỉ cần không gọi pháp danh này, chứ gọi là gì cũng được.

Sư phụ tôi nói: Vậy thì chỉ có tên Thích Cứt.

Người ấy có lẽ vì đã quỳ đã lâu nên choáng, dám công khai bày tỏ ý nghĩ xấc xược với sư phụ tôi: Thưa sư phụ, vì sao pháp danh chỉ có thể là hai chữ? Ba chữ cũng được chớ.

Sư phụ tôi nói, ông thích nhất chữ “Nhiên”, những thứ bao hàm trong chữ “Nhiên” khó nói rõ được nhất. Ông tặng chữ Nhiên cho tôi. Tôi bấy giờ chưa hiểu được ý nghĩa hàm chứa trong pháp danh hay ho này, thực ra tôi thích cái tên “Thích Không” hơn, sư huynh tôi cũng đồng ý để chúng tôi đổi pháp danh, nhưng sau khi chúng tôi bày tỏ ý nghĩ này, cả hai đều bị phạt quỳ một ngày một đêm, sư phụ tôi nói, những thứ đó, không phải muốn đổi là đổi được đâu. Những thứ đó là do số mạng đem lại, con không thể thay đổi được số, trừ phi đem mạng ra đổi.

Theo đó tôi dần dần lớn lên, ngày càng phát hiện ra mình có khả năng mà người khác không có. Võ thuật giang hồ, chẳng qua chỉ thế mà thôi, một cao thủ võ lâm có thể địch được mười người, ám khí dùng chuẩn xác, nhãn lực cực tốt, dù chạy rất nhanh, nhảy rất cao, song có nhanh cũng chẳng thể nhanh hơn ngựa, có cao cũng chẳng thể cao hơn tường, so với người thường chẳng qua chỉ chạy nhanh hơn, nhảy cao hơn một chút xíu mà thôi, còn sự phát triển của võ lâm thì cuối cùng cũng sẽ quy tập về ám khí, chỉ vậy mà thôi. Nhưng chỉ cần tôi muốn, thì dù động tác có nhanh hơn nữa, tôi vẫn có thể nhìn thấy rõ mồn một, vả lại còn giống y như đang quay chậm, ám khí có nhanh hơn nữa, từ ngoài mười trượng phóng đến mặt tôi, tôi cảm thấy chỉ cần trong một cái ngáp hơi đã thừa sức đỡ được. Song tôi cũng cảm thấy động tác của tôi ngày một mau lẹ hơn thôi.

Sư phụ tôi nói, con đã mù suốt ba kiếp, cho nên kiếp này được đền bù.

Tôi đáp, vậy thì tốt quá, kiếp này chắc con sẽ rất hạnh phúc.

Sư phụ nói: Nhưng con đâu biết được nỗi khổ ở kiếp trước của con.

Tôi trả lời, vậy kiếp sau của con thì thế nào.

Sư phụ nói: Vẫn là một thằng mù. Khả năng này của con, cứ ba kiếp lại một vòng luân hồi.

Tôi đáp, vậy thì cứ ba trăm năm mới tái xuất một người như con rồi.

Sư phụ nói: Không phải là ba trăm năm mà là một trăm năm, ba kiếp của con cộng lại có một trăm năm thôi.

Bấy giờ, sư phụ vẫn chưa dạy tôi phép chia.

Hồi bảy tuổi, hễ trời sáng là tôi trở dậy, ra đứng ở giữa sân, không biết từ lúc nào ai đó ném từ đâu ra một cái chổi, tôi không được để nó rơi xuống đất, bằng không tôi sẽ phải trồng cây chuối một tiếng đồng hồ. Tôi sợ nhất là trồng cây chuối. Khi quét sân, mỗi nhát chổi của tôi đều không được để bụi bặm vẩn lên, cho nên cứ quét một nhát xuống ngay lập tức phải lật chổi dìm lại, cứ lặp đi lặp lại như thế, hết sức khổ sở, sư phụ tôi làm vậy chắc chắn nhằm khiến động tác của tôi nhanh nhẹn hơn. Phần lớn thời gian tôi cảm thấy mình rất thông minh, song mười năm sau một câu nói của sư phụ khiến tôi sực tỉnh. Sư phụ nói, con không cần phải vất vả như vậy, nếu mỗi nhát chổi quét thật chậm, bụi bặm sẽ không vẩn lên được.

Ngày qua ngày đều như vậy, nhưng tôi lại muốn sống một cuộc sống ở ngoài chùa. Thiếu Lâm quản tôi rất ngặt, đi đâu cũng có người bám theo, mà rất nhiều người là đằng khác. Kỳ thực bất kỳ việc gì họ làm, bất kỳ chiêu thức gì họ tung ra, tôi đều nhìn thấy rõ ràng, tôi chỉ muốn một mình ra ngoài chơi một lúc thôi, rồi tự khắc sẽ quay về.

Nhưng trước khi lên năm, tôi làm những gì nhỉ? Tôi hỏi sư phụ, sư phụ nói trước năm tuổi tôi chơi đủ rồi, đến lúc phải học hành, nhưng kỳ lạ là, vì sao trí nhớ của tôi trong năm năm ấy lại trống rỗng.

Mùa hè năm lên bảy, tôi và sư huynh Thích Không cuối cùng cũng được phê chuẩn cho ra ngoài chùa tắm, chùa xây trên núi, cách đó không xa có một con sông nhỏ vắt ngang, trên bờ sông có rất nhiều cây táo. Lần tắm sông ấy, từ trên cây rơi xuống cả thảy ba mươi mốt quả táo.

Thích Không nói, đệ có biết huynh là ai không?

Tôi nói, đệ còn chẳng biết đệ là ai nữa là.

Sư huynh Thích Không lớn hơn tôi ba tuổi, huynh nói, chúng ta đã có võ nghệ cao cường, chi bằng hãy lén xuống núi tìm hiểu xem chúng ta là ai, rồi chơi mấy trò thật vui!

Tôi biết, trong có mấy ngày mà làm rõ được thân thế của mình hẳn là điều không thể, nhưng đúng là được đi chơi thật.

Tôi lập tức bày tỏ sự đồng tình.

Thích Không nói, chúng ta không thể đi đường xuống núi được, phải men theo con sông này xuôi xuống.

Cả hai còn chưa tỏ thái độ gì, chân đã bất giác men theo bờ sông đi xuống dưới, cứ thế đi mãi đi mãi, đột nhiên phát hiện ra ven sông có một sơn động. Ở trong chùa chúng tôi được nghe rất nhiều truyền thuyết, đồng thời phát hiện ra hễ là các nhân vật trong truyền thuyết, họ chỉ có được sức mạnh thần bí để thay đổi số mệnh khi ở trong sơn động mà thôi. Tôi từng buông lời cảm khái rằng, ở trong chùa mười năm chẳng bằng vào trong động một lúc, sư phụ nói, đó là định mệnh, những việc trước đó chỉ là sự chuẩn bị tiền đồ để định mệnh xảy ra, là cái tất yếu dẫn dắt cuộc đời con đi theo định mệnh, bởi định mệnh không phải là số mệnh của cuộc đời con, mà là vận mệnh của cả một thời đại, nhưng lại vừa khéo xảy ra với một sinh mạng. Tôi tỏ ra không thể lý giải. Sư phụ nói, tức là, hiện giờ con không tập luyện võ công trong Thiếu Lâm cho cẩn thận, dẫu trước mắt có một vạn cái sơn động đi nữa cũng vô ích thôi.

Nhưng hôm ấy, cuối cùng thì tôi cũng nhìn thấy sơn động. Thích Không hết sức phấn khích, lao ngay về phía cửa hang. Trong hai người đã có một người rất hưng phấn, cho nên tôi bắt buộc phải tỏ ra thật bình tĩnh, bởi trong các câu chuyện truyền thuyết, nhân vật đều rất ít khi bị kích động, nhưng cuối cùng tôi cũng không thể nhẫn nại được hơn, bởi từ kích cỡ, vị trí hang cho đến cả hình dạng của cửa hang đều quá chuẩn xác, quá truyền thuyết. Nét mặt tôi nghiêm lại, chạy nhanh hơn cả sư huynh tôi.

Cũng giống như trong truyền thuyết, chưa đến cửa hang, hai chúng tôi đều đã bất tỉnh nhân sự.

Khi tỉnh dậy chúng tôi đã ở trong chùa, giọng sư phụ văng vẳng: “Cuối cùng thì con cũng tỉnh rồi.”

Mở mắt ra, ngay câu đầu tiên tôi liền hỏi cái hang đó thế nào.

Sư phụ lắc đầu.

Tôi lại hỏi: Sư huynh sao rồi ạ?

Sư phụ nói, nó tỉnh sớm hơn con, đang bị phạt đứng tấn mã bộ, đã đứng được một ngày rồi.

Phản ứng đầu tiên tức thì của tôi là muốn hôn mê tiếp.

Sư phụ nói: Con không bị phạt.

Tôi hỏi: Sao vậy ạ?

Sư phụ nói: Các con vào động phen này, chắc chắn là chủ ý của con. Nhưng sư huynh con tỉnh dậy sớm hơn con, cho nên đã gánh hết tội rồi, nó bảo đã ép con vào. Nếu đã là vậy, thì ta không phạt con nữa.

Tôi nói: Rốt cuộc là sao ạ?

Sư phụ nói: Con nghe ta nói đã, con phải nhớ rằng con chắc chắn không phải người bình thường, về sau làm việc gì nhất định phải ghi nhớ, những việc con càng cảm thấy không làm được, thì lại càng phải thận trọng. Con còn nhỏ, chưa chắc đã hiểu được. Nhưng con nhất định nhớ được, rồi hỏi đến sư huynh, chứng tỏ con hiểu rất rõ những gì con cần hiểu rõ. Vả lại thứ tự trong tâm con cũng rất rõ ràng. Nhớ rằng việc gì cũng đều phải tuân theo thứ tự trong tâm mình nghe chưa.

Tôi nói: Vậy câu nói đầu tiên sau khi sư huynh tỉnh lại là gì ạ?

Sư phụ nói: Ta không nói đâu. Song, sau này con sẽ biết, hai đứa chúng bay, suy cho cùng vẫn chẳng thể nào cùng chung sống được.

Ngày hôm sau, tôi gặp Thích Không, từ đầu chí cuối tôi vẫn không biết câu đầu tiên huynh ấy nói sau khi tỉnh dậy là gì, sư huynh bảo: Đứng lâu quá nên quên rồi.

Tôi hỏi: Sao đang yên đang lành lại ngất xỉu?

Sư huynh nói: Huynh mà biết vì sao lại ngất xỉu thì liệu có ngất xỉu không.

Tôi nói: Đệ muốn tới hang động đó một lần nữa.

Sư huynh nói: Đi như thế nào, đây là ngôi chùa thâm nghiêm nhất trong số mười chùa chín núi ở Trung nguyên, không thể trốn ra được đâu.

Tôi đáp: Cái động kia... tiếc thật đấy.

Sau đó, tôi quyết định đi tìm sư phụ để giải quyết vấn đề.

Sư phụ nói: Ta cũng biết cái động ấy, thực ra cũng rất muốn nói cho các con biết, nhưng giờ chưa phải lúc, các con cảm thấy trong chùa quá vô vị, vậy ta giữ lại bí mật này, đợi sang năm vào ngày này, tự ta sẽ nói cho các con biết.

Phương trượng đứng một bên cười. Sau khi chúng tôi rời bước, phương trượng nói: Hai đứa bé này, một cái hang lại có thể kêu suốt một năm sao, đúng là một hang một thế giới. Nhưng mà bé thế đã ở trong chùa rồi, ít nhiều cũng nhàm chán nhỉ.

Sư phụ nói: Chỉ có một tuổi thơ nhợt nhạt, mới có thể có một tuổi trẻ vô tình. Giang hồ chắc chắn sẽ ngày một tanh uế, chúng sẽ là cao thủ của những cao thủ, những kẻ đối địch với chúng cũng đều là cao thủ, cao thủ xuất chiêu với nhau, thì phải xem tâm ai không ngổn ngang, bởi một chiêu là một mạng, trong lòng có quá nhiều ký ức, ắt sẽ có vô số tạp niệm.

Phương trượng nói: Ta mặc kệ việc này vậy.

Sư phụ nói: Khi nào giang hồ mới có thể thống nhất đây!

Phương trượng nói: Không thống nhất được đâu. Không thống nhất thì bên ngoài loạn, có cách gì được. Việc trong tâm thì chẳng có cách gì hết.

Mùa đông năm tôi chín tuổi.

Khí trời chuyển lạnh, tuyết lớn dày dần. Thế giới bên ngoài xảy ra nạn đói, hằng ngày ngoài chùa đều có hàng ngàn người ngồi đó. Năm ấy hoàng thất xảy ra nội loạn không liên quan tới triều chính. Đồn rằng đó chỉ là ân oán của mấy bà quý phi và hoàng hậu trong cung, song lại khiến nhà vua không còn tâm trí trị nước. Mà không còn tâm trí trị nước cũng chẳng sao, cái quán tính quyết định quốc gia càng lớn, chính quyền duy trì càng lâu, không thì cũng vẫn vậy, buông tay một hai năm, rồi giải quyết mấy việc nhập nhằng, cộng thêm một vài thiên tai, một vài cuộc nổi loạn nhỏ diễn ra ở địa phương, các bộ xem rôm rả cho vui, rồi lại bàn mưu tính kế trong bụng, ấy mới là kế trị nước lâu dài. Không có thiên tai, không dẹp loạn, không tiễu binh, chẳng hóa ra vua chúa chỉ có mỗi cuộc sống tình dục thôi sao. Song hoàng đế triều ta cũng rõ ghê gớm, chỉ riêng cuộc sống tình dục thôi đã có thể gây ra loạn lớn rồi, hoàng hậu muốn phế quý phi, quý phi lại có bản lĩnh dấy binh bao quanh thành Trường An, bấy giờ đúng đợt ôn dịch hoành hành trong dân gian, may sao Trường An bị bao vây nên chẳng ai có thể lọt vào, thành thử không ai lây nhiễm.

Trong chùa tuy rất thanh tịnh, nhưng ngoài chùa luôn rất ồn ào, hằng ngày đều có người chết, hằng ngày đều có vô số người đập cửa chùa, sư phụ tôi cả ngày rầu rĩ, không biết cửa nẻo nên đóng hay nên mở; không mở thì mất hết nhân tâm; còn nếu mở, sẽ phải chết cả lũ. Quả thực rất phiền phức khi sự việc nhất định phải thực hiện theo nguyên tắc lại vượt qua ngưỡng cho phép của nguyên tắc, sư phụ tôi mâu thuẫn đến lú lẫn.

Tối hôm đó, phương trượng cho gọi tất cả mọi người lại, hỏi: Mở cửa hay không?

Tôi nói: Mở ạ!

Sư phụ tôi nói: Con muốn chuồn ra ngoài nhân lúc náo loạn phải không?

Tôi đáp: Con không có ý đó, dân... dân chúng chịu khổ, Thiếu Lâm chúng ta...

Sư phụ nói: Mở cũng được, nhưng cột thằng nhóc này lên mai hoa thung đã.

Bấy giờ, bên ngoài lại bắt đầu vẳng đến những tiếng đập cửa.

Sư phụ nói: Ta coi quản chùa này hai mươi năm nay, đây là lần đầu tiên cảm thấy đau lòng đến vậy, người ngoài kia chắc hẳn bất đắc dĩ quá nên mới lấy đầu đập cửa, nếu chúng ta tiếp tục không mở, vậy có khác gì đương kim triều đình đâu.

Lúc này, phía ngoài kia vang lên một tiếng “uỳnh”.

Tất cả mọi người đều rùng mình. Đập đầu gì mà lại vang lớn đến thế, chắc phải có dũng khí lắm.

Có người hỏi: Thưa sư phụ, liệu có phải Tung Sơn phái người tới báo tin không nhỉ, Tung Sơn chẳng phải đang luyện Thiết đầu công sao?

Sư phụ nói: Không phải đâu, nếu là đệ tử cấp cao, chắc chắn sẽ đi cửa sau, cửa sau của chúng ta luôn mở mà.

Lúc này, ngoài cửa lại dội lại một tiếng “uỳnh” vang to hơn nữa.

Mọi người nói: Chết rồi chết rồi, lần này chắc đau đấy.

Vừa nói dứt, ngoài cửa lại kêu “uỳnh” một tiếng, vang hơn nữa.

Mọi người kinh ngạc kêu lên: Chết rồi, chết thật rồi!

Vẻ mặt của sư phụ và phương trượng đều rất nghiêm nghị.

Thinh lặng, trầm ngâm một lúc lâu. Đột nhiên, một tiếng “uỳnh” vang dội nhất trong lịch sử ập tới.

Sắc mặt mọi người dịu lại: Vẫn chưa chết!

Phương trượng hô: Mở cửa chùa!

Sư phụ tôi truyền lời xuống nói: Chuẩn bị mở cửa chùa! Tất cả đệ tử Thiếu Lâm, mau cầm chắc gậy gộc, đề phòng hỗn loạn, chắc chắn phải giữ yên trật tự, cho người vào từng tốp, mỗi tốp một trăm người, cái tên lấy đầu đập cửa kia phải cho vào trước tiên, chữa trị khẩn cấp, nó tuy vũ dũng, nhưng cũng là nhân tài. Ta sẽ chủ trì việc mở cửa.

Nói đoạn mọi người tức khắc xếp thành hàng, tôi và Thích Không đứng trên điện quan sát, bên ngoài tiếng người sôi sục, sắc mặt sư phụ nặng trĩu, ông từ từ mở cửa.

Trong chớp mắt, tôi thấy sự việc bất chắc xảy ra. Cùng lúc, có tiếng người bên ngoài vọng đến: Mấy cú vừa rồi đá nhỏ quá, mỗi lần đập đều lấy hòn to hơn mà ích gì đâu, chẳng thà lấy tảng to nhất nện đi!

Trong khi đó, sư phụ tôi vừa mở cửa, đang định đón tiếp với vẻ mặt hiền từ.

Tôi vừa nhìn thấy một đám hỗn loạn, đệ tử cấp cao của bản chùa đứng đằng sau đã tức tốc đẩy cửa lại, sư phụ tôi ngã đánh rầm xuống đất, đám người đói khát bên ngoài ồ ạt xông lên, hơn một vạn cánh tay và cẳng chân khua khoắng trước mắt tôi. Trong cơn hoảng loạn, không ai để ý tới một tiểu cô nương đã bị đẩy vào chùa qua khe cửa. Thế rồi cửa chùa đóng chặt lại, tiểu cô nương đưa mắt nhìn tôi. Tiểu cô nương ấy rất xinh, tôi mường tượng được bộ dạng của cô năm mười tám tuổi. Lẽ nào tôi không chỉ có thể nhìn mọi thứ như đang quay chậm, mà còn có khả năng mường tượng ra tương lai! Ngỡ như một sự an bài, câu chuyện thanh mai trúc mã sắp sửa xảy ra.

Sư phụ tôi từng nói, mọi việc có chừng mực, muôn vật không mất đi, ví dụ như, mọi hạnh phúc đều mang tính cục bộ, hạnh phúc của một bộ phận người này tất yếu sẽ dẫn đến sự đau khổ của một bộ phận người khác. Cho nên, hạnh phúc trên đời này chỉ là sự hoán đổi mà thôi.

Hôm nay cuối cùng tôi cũng hiểu rõ, ý của sư phụ là lần mở cửa này, tôi sẽ có một cô bạn gái để bầu bạn, sẽ rất hạnh phúc, mà khi tôi hạnh phúc chắc chắn sẽ có một người đau khổ, người đó chính là sư phụ tôi.

Tôi rất lấy làm lạ vì sao tôi không những có thể nhìn mọi thứ một cách chậm rãi, mà còn có thể nhìn thấy hình dạng trong tương lai của mọi sự việc, nếu được như vậy, tôi đã là thầy bói lâu rồi. Tôi chỉ có thể nhìn thấy bộ dạng trong tương lai của một người nào đó, hay phải chăng tương lai đó đã xảy ra, và ở đây đang diễn ra lại một vòng luân hồi? Trong mơ tôi thường xuyên thấy một cảnh tượng kỳ lạ, sư phụ bảo, mộng cảnh chỉ là sự hồi tưởng của tương lai. Tương lai còn chưa xảy ra, vậy hồi tưởng thế nào. Tôi hỏi sư phụ. Sư phụ nói: Chính vì tương lai còn chưa xảy ra trong hiện thực, cho nên mới có thể hồi tưởng nó trong mộng cảnh. Mọi sự đã được an bài, con đừng cảm thấy phải chịu đựng sự an bài của chúng ta khi ở trong chùa. Cuối cùng con sẽ tự do, nhưng con vẫn phải chịu sự an bài của số phận.

Bất kỳ một sự tự do nào cũng đều là khởi đầu cho một sự an bài khác.

Mùa đông, tuyết tan gió nhẹ, mặt trời đỏ hồng.

Cuối cùng cửa chùa không được mở ra thêm lần nào nữa, với thời tiết thế này, nên ra ngoài vui chơi mới phải. Trong những ngày âm u, mỗi buổi chỉ là nỗi buồn, trong những này nắng ráo, nỗi buồn lại là sự đau khổ. Sư phụ nói: Ta thà để người bên ngoài kia chết hết cả.

Tôi nói, thực ra bất kỳ ai cũng có thể biết trước được tương lai. Tương lai chẳng phải đều chết hết cả sao.

Sư phụ nói: Không phải, chết là kết quả, không phải tương lai, tương lai là kết quả trước khi chết.

Tôi nói: Bên ngoài đông người như thế, đã chết ngót một nửa rồi, dù sao cũng đều chết, có đem vào cứu cũng chết, ngộ nhỡ bệnh dịch truyền vào, thì mọi người sẽ chết cùng nhau, có cứu sống được, cuối cùng cũng vẫn chết, sư phụ chớ buồn.

Sư phụ nhìn tôi chằm chằm, nói: Ta mà nghĩ như vậy, thì ta chết từ lâu rồi. Con không được nghĩ như thế, nghĩ nhiều con sẽ tin đấy.

Ngoại trừ tiếng rên xiết, ngoài cửa đã không còn bất kỳ động tĩnh nào. Chúng tôi theo lệ, hằng ngày leo lên tường cao ném bánh bao ra ngoài. Lương thực dự trữ trong chùa chỉ có thể dùng trong ba ngày nữa mà thôi, sau ba ngày, mọi người sẽ hết thức ăn.

Tôi chưa bao giờ ngờ rằng một nạn đói lạ thường kèm theo ôn dịch lại có thể kéo dài đến vậy. Bạn cứ tưởng tượng xem, gió nhẹ mơn man da mặt như thế, bên ngoài tường kia chắc hẳn sẽ ngập trời những cánh hoa mai.

Hôm nay cuối cùng tôi cũng có thể gặp lại tiểu cô nương duy nhất lọt vào chùa trong cơn hỗn loạn hôm mở cửa. Bởi bên ngoài nạn ôn dịch hoành hành dữ dội, sau khi tiểu cô nương vào chùa đã bị nhốt lại mười ngày. Mọi người muốn biết chắc chắn tiểu cô nương đó không bị nhiễm bệnh rồi mới thả ra. Chập tối, tất cả cũng bàn bạc xem có nên giữ tiểu cô nương này lại không.

Sư phụ còn chưa cất lời, Tiểu cô nương đó đã nói: Sao các vị không cứu người khác?

Một vị sư huynh nói: Muội tưởng chúng ta nhấc một mình muội ra khỏi đám người kia, cứu riêng muội chắc? Muội bị đẩy lọt vào chùa, đó là một sơ suất.

Tiểu cô nương lại nói: Vậy tại sao các vị không ra cứu người?

Một vị sư huynh khác nói: Cứu cái gì mà cứu, bọn ta cũng sắp chết đói cả đây này.

Tôi an ủi: Thức ăn trong chùa chỉ ăn được hai hôm nữa thôi.

Bấy giờ tôi cảm thấy, việc cứu giúp người khác chỉ là một thú tiêu khiển khi bản thân đã đủ đầy.

Một vị sư huynh nói: Xử lý tiểu cô nương này ra sao?

Có người đề nghị thả ra ngoài chùa. Mọi người nhất trí phản đối, cảm thấy làm như vậy quá vô nhân đạo, việc Thiếu Lâm tự đóng cửa chùa lần này đã rất quá đáng rồi, giờ cứu người xong lại bỏ người ta ra bên ngoài, thì thật quá đáng quá, lại nữa, triều đình dạo này hay viện vào các tấm gương điển hình để hành sự, quả nhiên rất hiệu quả, Thiếu Lâm tự cũng cần có một tấm gương điển hình, để về sau có thể đem ra tuyên truyền rộng khắp. Ông tuần phủ chẳng đã nói rồi sao, tấm gương điển hình không phải một đại diện trong số một vạn người, mà là trong một vạn người chỉ có một người như thế.

Sư phụ nói: Để cô bé ở lại trong chùa đi.

Một vị sư huynh khác vẫn có ý kiến: Vậy thì mấy việc tắm táp, chúng ta phải làm thế nào?

Phương trượng nói: Mười chùa chín núi ở Trung nguyên, đứng đầu về quy mô chính là bản tự, chùa ta thì lớn bằng này, tiểu cô nương nhỏ bằng này, lại cứ phải tắm trước mặt người ta mới được sao?

Sư huynh ấy nói: Nhưng suy cho cùng bao nhiêu năm nay trong chùa chưa từng có cô nương nào lui tới. Nay thoắt một cái, chúng đệ tử thật khó mà...

Phương trượng hơi bực mình, cúi đầu hỏi tiểu cô nương: Tiểu muội muội, cháu mấy tuổi rồi?

Tiểu cô nương đáp: Cháu tám tuổi.

Phương trượng nói: Cháu có biết cháu được sinh ra thế nào không?

Tiểu cô nương đáp: Mẹ cháu sinh ra cháu.

Phương trượng hỏi tiếp: Sinh như thế nào vậy?

Tiểu cô nương đáp: Cháu không biết. Mẹ cháu chưa nói.

Phương trượng nói với mọi người: Các người xem, cô bé ấy còn chưa hiểu biết gì cả, các người thấy có gì bất tiện nào.

Phương trượng tiếp tục nói: Cháu xem bao nhiêu người đứng xung quanh cháu, bọn họ có điểm gì khác với cháu nào?

Tiểu cô nương đáp: Bọn họ có cái ấy còn cháu không có cái ấy.

Phương trượng sa sầm nét mặt, bất giác kêu: “Ố” lên một tiếng. Hỏi: “Cái ấy là cái gì?”

Tiểu cô nương đáp: Là tràng hạt, cái đeo trên cổ ấy.

Phương trượng không dám hỏi thêm nữa, nói với chúng tôi: Các ngươi xem, còn kẻ nào thấy thẹn thùng nữa không? Đệ tử Thiếu Lâm trải qua biết bao sóng gió, ai đời lại sợ một tiểu cô nương còn... hết sức khờ khạo, đúng thật là!

Thế rồi chùa cũng giữ tiểu cô nương này lại. Một ngày sau, rắc rối đã xảy ra, tiểu cô nương một mực không chịu nói cho mọi người biết tên thật của mình, mọi người cảm thấy không thể nào gọi là “con bé ấy” mãi được, tối đến, sư phụ bèn triệu tập nhiều người lại, bàn hai việc đại sự, thứ nhất, lương thực trong chùa chỉ có thể duy trì được hai hôm nữa thôi, tiếp sau đây phải làm thế nào; thứ hai, mọi người hãy đặt cho tiểu cô nương này một cái tên.

Việc đặt cho tiểu cô nương một cái tên trong thời buổi loạn lạc này có lẽ không nên coi là đại sự, vả lại càng không nên đưa ra, song dường như mọi người lại rất có hứng thú với việc này. Dạo gần đây ngày nào cũng có bao nhiêu người chết, dân chúng bên ngoài khổ sở khốn cùng, chẳng ai còn hơi sức đâu làm việc gì, cứ vui chơi đâm ra lại hay.

Vấn đề nghiêm trọng thứ nhất mọi người chỉ thảo luận chừng năm phút, kết quả sau thảo luận là phải ăn dè một chút, như vậy còn có thể kéo dài tới bốn hôm, đợi đến khi nào chỉ có thể kéo dài được hai hôm hẵng nghiên cứu tiếp. Nhưng vấn đề thứ hai mọi người thảo luận đúng hai tiếng đồng hồ, đệ tử Thiếu Lâm xưa nay đoàn kết là thế, cũng có thể bề ngoài đoàn kết là thế, vậy mà suýt đánh nhau trước mặt phương trượng, tình hình rất chi quyết liệt. Cuối cùng, trong tiết trời se sắt, giữa thời buổi nhiễu nhương, trong ngôi chùa khốn khổ và cái không khí bi đát này, mang trên mình niềm trông đợi của mọi người đến một cuộc sống tốt đẹp, tiểu cô nương chính thức được đặt tên là “Hỷ Lạc”.

Tôi nhớ rằng Hỷ Lạc rất có tài bếp núc, tài năng này ngay ngày hôm sau liền được mọi người khai quật. Sư phụ bếp trưởng trong chùa tuy tài nghệ không tồi, nhưng rõ ràng không hề nhiệt tình trong việc bếp núc, lại càng thiếu tìm tòi và sáng tạo đối với các món ăn, cứ rau xanh với cà chua ăn cả năm. Tôi ghét nhất là ăn ớt xanh, nhưng món nào của sư phụ ấy cũng đều có ớt xanh. Sau khi vào chùa, Hỷ Lạc cảm thấy không giúp được gì cho mọi người cả, bèn hỏi xem có thể làm gì, kết quả là bị điều vào nhà bếp, nhưng ngay ngày hôm đó, cô bé đã làm một mâm thức ăn mà cả chùa xưa nay chưa thấy bao giờ, rau chân vịt luộc với cải xanh, cà chua trộn màn thầu, khiến các món sư phụ bếp trưởng nấu hôm đó đều bị vứt ra ngoài chùa cứu tế, còn mấy trăm người chúng tôi thì xúm quanh đồ ăn của Hỷ Lạc.

Sau khi ăn no vừa khéo gặp Hỷ Lạc, tôi nói: Hỷ Lạc muội muội, vì sao không có ớt xanh?

Hỷ Lạc nói: Muội không thích ăn ớt xanh.

Tôi nói: Huynh cũng không thích ăn ớt xanh.

Tôi nói: Muội thích ăn gì vậy?

Hỷ Lạc nói: Muội thích cà, còn huynh?

Tôi nói: Huynh thích ăn màn thầu.

Hỷ Lạc nói: Sư huynh màn thầu ơi, huynh tên gì vậy?

Tôi nói: Huynh tên là Thích Nhiên.

Hỷ Lạc nói: Vậy muội sẽ gọi huynh là Thích ca ca.

Tôi nói: Không được, ở đây bất kỳ sinh vật nào muội có thể nhìn thấy đều là Thích ca ca. Hãy gọi huynh là Nhiên ca ca.

Tôi hỏi: Muội thích làm gì nhất?

Hỷ Lạc nói: Muội thích rửa bát nhất.

Tôi mừng ra mặt, nói: Vậy bát của Nhiên ca ca này...

Hỷ Lạc nói: Không được, sư phụ bảo không được rửa bát cho huynh. Sư phụ hỏi muội thích làm gì nhất, muội trả lời muội thích rửa bát nhất, sư phụ nói, được, về sau hãy rửa bát của sư phụ, vả lại con thích rửa bát của ai cũng được, nhưng không được rửa bát cho người tên là Thích Nhiên, nó gặp con chắc chắn sẽ nhờ con rửa bát.

Tôi hết sức ngỡ ngàng, sư phụ quả là một nhà tiên tri, đành nói tiếp: Được rồi, vậy không cần rửa bát của huynh, còn nữa, sau này muội có gặp một người tên là Không ca ca, muội cũng không được rửa bát cho huynh ấy đâu nhé.

Hỷ Lạc nói: Vì sao huynh không thích rửa bát vậy?

Vấn đề này tôi không hiểu rõ mấy, bèn trả lời: Muội cũng có thể coi là một người kỳ lạ, lẽ nào muội cũng thích đổ bô sao? Về sau muội rửa hết bô trong chùa ta nhé.

Hỷ Lạc khóc òa lên, chạy thẳng vào phòng sư phụ.

Rất nhanh sau đó, sư phụ bước ra, Hỷ Lạc lẽo đẽo theo sau. Sư phụ nói giọng nghiêm khắc: Nghe nói con vừa làm quen với Hỷ Lạc đã bắt em nó đi đổ bô hử? Nếu vậy, con đổ bô một tháng đi nhé!

Đây là lần đầu tiên trong đời tôi cảm thấy suy sụp. Bởi vì tôi ghét nhất dọn vệ sinh và ăn ớt xanh. Trong khi đổ bô là một hạng mục mất vệ sinh nhất trong các công việc dọn vệ sinh. Sư phụ bảo tôi: Làm như vậy để rèn luyện ý chí của con. Chỉ những ai có ý chí mạnh mẽ mới thực sự mạnh mẽ.

Tôi bấy giờ rất không đồng ý với cách nói ấy, nếu nói như thế, người mạnh mẽ nhất trong cái chùa này chính là sư huynh Thích Bô, người phụ trách đổ bô thường xuyên cho chùa còn gì. Tôi cảm thấy ý chí chỉ là một ước vọng. Sự mạnh mẽ của ước vọng mới thực sự là mạnh mẽ. Cũng như việc tôi nhìn thấy có người đấm tôi với tốc độ rất nhanh, ngay cả động tĩnh nơi lỗ chân lông của người ta tôi cũng nhìn thấy rõ mồn một, đồng thời có thể nhìn thấy rõ ràng những tia nước bọt bắn vào người tôi cùng lúc với tiếng hô “hây a” của người đó, nhưng lại không thể nào né tránh được, thoạt tiên bị tia nước bọt bắn trúng, sau đó bị ăn một quả đấm. Đó mới là sự đau khổ tột cùng.

Tôi đã nói như vậy với sư phụ. Nhưng sư phụ nói, con lạc đề rồi, ta hoàn toàn không hiểu gì hết.

Tóm lại, tôi đã giải phóng cho sư huynh Thích Bô. Về sau mỗi ngày tôi phải dậy sớm quét sân trước tiên, sau đó đi đổ bô, rồi nghe những tiếng rên rỉ bên ngoài tường. Hỷ Lạc và tôi dậy sớm như nhau. Bất kể tôi đi đâu Hỷ Lạc cũng luôn bên cạnh tôi – cũng không thể nói như vậy, nói vậy cứ như tôi bôn ba kinh lắm, thực ra bất kể tôi có đi đến đâu cũng chỉ quanh quẩn trong sân mà thôi. Dù tôi quét ở đâu, Hỷ Lạc cũng đi theo tôi. Mọi người đều rất ngưỡng mộ tôi, cảm thấy có thể có được lý do chính đáng để ở bên một cô nương trong Thiếu Lâm tự là một kỳ tích.

Hai ngày sau đó, tôi nhớ rằng phương trượng lại chủ trì một cuộc họp, nội dung là lương thực dự trữ mà chúng tôi ăn dè hà tiện bấy lâu, hiện giờ chỉ còn đủ dùng cho hai ngày thôi. Không biết tiếp sau đây phải làm thế nào?

Có người đề nghị chùa cắt cử một số huynh đệ ra ngoài tìm kiếm thức ăn. Quan hệ giữa Thiếu Lâm và triều đình xưa nay vẫn rất tốt, tất cả số lương thực của nhà chùa thực ra đều do triều đình cấp phát, song tình hình hiện nay quả thật rất khó khăn, ngay cả huyện lão gia cũng đã ba ngày nay không được ăn yến sào rồi, nói vậy đủ hiểu trăm họ khổ cực đến nhường nào, kho lương trống rỗng từ lâu, chúng tôi ở Trung nguyên là tâm điểm của tai họa lần này, đương nhiên càng không có lương thực. Sư phụ đưa ra ý kiến có thể tới chùa khác tìm sự giúp đỡ, người nói: Hiện giờ ngoài kia lòng người bấn loạn, bệnh tật hoành hành, tình hình tai ương đỡ hơn một chút thì có chùa Thông Quảng, chắc chùa ấy còn chút lương thực dự trữ, cả đi lẫn về là bảy trăm dặm, ai tình nguyện đi nào?

Mọi người đều tỏ ý sẽ cùng sống chết với chùa. Chùa còn ta còn. Cho nên, kết quả của cuộc họp lần này là, tất cả tiếp tục thắt lưng buộc bụng, lương thực của hai ngày chia ra trong bốn ngày, hai ngày sau tiếp tục bàn cách đối phó.

Sư phụ nói: Sự việc lần này cho chúng ta thấy rằng, chỉ cần khống chế ham muốn của bản thân lại thì những thứ vốn thiếu thốn cũng có thể trở nên thừa thãi.

Tôi nói: Chúng ta có thể gửi thư đến chùa khác.

Sư phụ nói: Hiện giờ ngoài kia quá loạn, rất khó chuyển phát thư từ.

Tôi nói: Dùng chim bồ câu ạ, chùa mình nuôi rất nhiều bồ câu đưa thư mà.

Sư phụ nói: Ăn hết lâu rồi.

Tôi sững người kinh ngạc, bởi tôi đã có ý chén thịt chim bồ câu lâu rồi, nhưng cảm thấy người xuất gia không được ăn thịt, nào ngờ đến lúc tinh thần tôi lung lạc, lại có người xuống tay trước. Tôi hỏi sư phụ người đó là ai?

Sư phụ nói: Là phương trượng.

Tôi lại sững người kinh ngạc, vì sao phương trượng không làm gương cơ chứ.

Sư phụ nói: Mấy hôm trước cơ thể của phương trượng suy nhược, ngài chỉ đích danh là muốn ăn canh bồ câu. Huống hồ nề nếp quy củ chỉ là thú tiêu khiển khi đã no ấm, giờ đến việc no ấm còn không lo nổi, thì cần đến quy củ nề nếp làm cái gì?

Hai hôm sau, phương trượng lại mở một cuộc họp, nội dung cuộc họp là, lương thực trong chùa chỉ có thể dùng trong hai ngày, tiếp theo phải làm sao? Họp đến giữa buổi, có tin tức truyền tới, ngoài chùa đã không còn một bóng người. Phương trượng sững sờ, đích thân trèo lên tường xem xét, phát hiện ra quả nhiên không còn ai thật, ngay cả xác chết cũng không thấy đâu, chỉ có gió bấc thổi trên đất lạnh, cỏ dại nép vào cây khô. Phương trượng tự nhiên nhạt nhòa nước mắt, nói: A Di Đà Phật! Họ chết thật sạch sẽ. Người chết đi rồi, người sống chôn vùi, người sống sắp đi, bầu bạn cho vui.Nhưng mà, người cuối cùng tự chôn mình như thế nào nhỉ?

Tôi nghĩ, chắc phương trượng ăn chim bồ câu nhiều, bồi bổ hơi thái quá rồi, chứ nhìn thế này là biết ngay, trong thành hẳn đã có phát đồ ăn.

Đúng như dự đoán, tin tức lại được truyền đến, kho lương của nhà vua đã mở, các nơi đang phát chẩn. Bạn có biết trong quốc khố có bao nhiêu lương thực không? Nhiều đến nỗi, mở kho cứu thiên hạ ba ngày cũng chưa vơi được một nửa số dự trữ của kho nhỏ. Kho này đủ cho cả nước ăn trong một tuần. Cả nước là khái niệm thế nào, bao nhiêu nhân khẩu? Nếu mọi người đoàn kết thống nhất một cách tích cực giống như việc tranh ăn, thì chắc chắn niên hiệu của vua đã đổi từ lâu.

Tôi từng ngờ vực, vì sao khi cơn nguy nan vừa ập tới, kho lương Trường An không mở ra cứu dân ngay, mà nhất định phải đợi sau khi vô số bá tánh chết đói, ngay cả sư sãi cũng gần chết đói, kho lương mới được mở ra một cách trễ nải, nhà vua đưa ra một quyết định lẽ nào phải đắn đo một thời gian dài đến thế sao?

Thực ra bất kỳ quyết định nào cũng đã được đưa ra từ rất sớm, chỉ có điều thời cơ chưa đến mà thôi. Kho lương mở ra sớm, bá tánh có khi chưa chết đói lên tới con số mấy chục vạn, ta mở kho lương ta phát chẩn thì tất cả đều đội ơn cảm kích. Bản tính của con người thực ra có thể hình dung bằng một từ “bần tiện”, vì sao nghe bọn tiện nhân lọt tai hơn thằng ngu, thằng ngốc, thằng đần? Là bởi vì con người ta vốn dĩ bần tiện.

Thoáng một cái, dường như không có vấn đề gì nữa, nạn đói đã qua đi, chúng tôi vui vì Thiếu Lâm cuối cùng cũng được giữ vững, chúng tôi buồn vì Võ Đang không chết đói đứa nào. Cho nên mọi người đều ngỡ rằng chúng tôi cấu kết với triều đình. Song suy cho cùng ai nấy đều vui vẻ. Sư phụ cũng rất vui. Nhân khi cao hứng, tôi lại hỏi sư phụ một vấn đề hoàn toàn lạc đề: Rốt cuộc con là ai?

Sư phụ nói, chúng ta đều là người trần tục, còn con thì không, con có năng lực đặc biệt, con là THE ONE, con là chúa cứu thế.

Tôi nói, không thể nào như vậy được. Người thiên hạ trong mắt con, chưa có ai thú vị bằng Hy Lạc.

Sư phụ nói: Đúng. Con cần phải ghi nhớ, những việc con có thể mở miệng nói, vĩnh viễn là những việc từng xảy ra. Những việc từng xảy ra là những việc của quá khứ. Còn điều ta nói là tương lai của con kia.

Mùa xuân, sau tai ương lớn là cuộc chấn hưng lớn, thiên hạ phồn thịnh.


Bình luận
Sắp xếp
    Loading...