Thành Phố Hoang Vắng
Chương 31
Thực ra hai người ở cạnh nhau chẳng qua cũng chỉ vì mấy chuyện như chấm bài thi, thảo luận về bài luận, uống trà, ăn cơm trưa, chỉ thế thôi. Hai người đều không thuộc dân văn phòng, phải trực ban, thời gian cùng xuất hiện trong khoa không nhiều. Bất luận là bộ môn Lý luận của Quý Hoàng hay bộ môn Văn học hiện đại và đương đại của cô, tỷ lệ nữ giảng viên rất ít, mọi người chuyện ai người nấy làm, nên cũng chẳng có gì để đồn thổi.
Một cú đả kích xíu xiu không là gì. Hai người cùng nhau đến căng tin ăn trưa, sau đó ra phía sau vườn trường, mỗi người cầm một chai nước khoáng, ở đó có con đường mòn do dấu chân người đi đường tạo nên, hai người tản bộ trên con đường đó.
Trời đã vào cuối thu, lá phong đỏ rực một góc trời, xa xa thấp thoáng từng dãy kiến trúc giả cổ của khu ký túc xá dành cho giáo viên hướng dẫn tiến sĩ. Những mái ngói màu xanh lam cong cong tựa như đàn chim én bay qua tán cây đang xào xạc. Những người yêu thích phong thủy nói rằng khu ký túc xá đó ở thế tựa núi hướng sông, hướng Nam đón nắng, chính là vùng đất lành hiếm có của trường F, trước giờ chỉ dành cho những học giả ưu tú nhất, những người đại diện cho thực lực của trường. Thuở còn làm nghiên cứu sinh, Thái Hồng từng đến đó vài lần. Khu ký túc xá này tuy thiết kế đẹp nhưng không quá lộng lẫy như người ta vẫn tưởng. Hành lang hơi tối vì ánh sáng không tốt lắm, nhưng phía sau tòa nhà có con đường đi thẳng vào rừng cây, có thể nói là ngập tràn hương đồng nội, không khí trong lành.
Thái Hồng vỗ vỗ vai Quý Hoàng: “Quý Hoàng, có thấy mấy tòa nhà màu đỏ kia không?”
“Thấy rồi. Sao?”
“Anh hãy cố gắng để được vào trong đó, lúc đó em sẽ có căn hộ tốt để ở rồi.”
“Đó là tòa nhà gì mà em lại mong ngóng thế?”
“Ký túc xá dành cho giáo viên hướng dẫn tiến sĩ đấy! 4-2LDK, còn có thêm một vườn hoa nhỏ nữa.”
“Căn nhà to thế em ở được không đấy?” Quý Hoàng tìm một tảng đá to rồi ngồi xuống, hờ hững nói.
“Ở được chứ sao không, càng to càng tốt! Khu vườn ở phía sau, em sẽ trồng một cây quế, rồi trồng thêm một dãy thủy tiên. Ở giữa đặt chiếc bàn, hai cái ghế mây, những khi rỗi rãi chúng ta có thể ngồi đó hóng gió, uống trà, còn có thể nằm xuống cùng nhau ngắm mưa sao băng…”
Quý Hoàng đang uống nước, suýt nữa phun ra hết vì sặc: “Cô Hà, cô nghiên cứu cả buổi chủ nghĩa nữ quyền, nghiên cứu tới nghiên cứu lui, vẫn là gửi gắm hy vọng trở nên giàu sang phú quý lên vai người đàn ông. Chẳng lẽ thứ mà em nghiên cứu không gợi mở chút gì cho nhân sinh quan của em sao?”
“Không có. Cũng giống bà Virginia Woolf đó, một mặt viết những tiểu thuyết tràn ngập ý thức nữ quyền, một mặt không hề ngại ngùng sai khiến mấy người giúp việc nữ. Đấy gọi là theo nghề chủ nghĩa nữ quyền. Nói cách khác là những người nghiên cứu cái này đều không tin vào nó, em chẳng qua là buôn bán các lý luận, kiếm tiền nuôi nhà mà thôi.”
“Thế những thứ em tin có khác gì với tiểu thuyết ngôn tình hả?”
Thái Hồng sững người, nín lặng. Thực ra cô chỉ nói đùa cho vui, nhưng Quý Hoàng lại tưởng thật. Thái Hồng nghĩ thầm, nếu em tin vào cái đó thì sao còn đi yêu anh làm gì? Không cầm lòng được, cô trêu anh tiếp: “Không có gì khác. Này, có phải anh cảm thấy em rất thực dụng, khiến anh thất vọng không?”
“…” Quý Hoàng không đáp.
“Nói đi chứ, anh tin vào cái gì?” Mắt cô đảo quanh, rồi ném câu hỏi về lại phía anh.
“Anh tin vào lao động. Anh thích hoạt động thể lực, từng có một thời gian anh rất muốn làm công nhân xây dựng.” Câu trả lời của anh rất kỳ quặc. “Khi lao động có thể khiến người ta quên đi rất nhiều chuyện.”
Ánh mặt trời xuyên qua tán cây, đọng lại trên gương mặt anh một bóng râm nơi hốc mắt. Nhìn nghiêng, trông gương mặt anh như một bức ảnh trắng đen có chút gì đó giống phong cách của những năm 30. Thái Hồng luôn cảm thấy Quý Hoàng nên cười nhiều hơn, khi cười, trông anh trong sáng đơn thuần làm sao! Nhưng hầu hết thời gian trông anh đều có vẻ u uất, tựa như đang cất giữ biết bao tâm sự trong lòng.
Ý nghĩ thoáng qua trong đầu, cô lại cảm thấy xót xa.
Cổ họng khát khô, cô lục tìm nước trong ba lô của anh, nhưng lại sờ thấy một cái lọ tròn tròn, lấy ra xem, là bình xịt thuốc hen suyễn lần trước.
“Lúc nào anh cũng mang theo thứ này sao?” Cô tò mò hỏi. “Anh rất ít khi lên cơn hen suyễn rồi, đúng chứ?”
“Hơn ba năm nay không tái phát rồi, từ khi anh trưởng thành, hiếm khi phát bệnh lắm.”
“Nhưng anh vẫn mang theo nó mỗi ngày để đề phòng ư?”
“Mẹ anh bắt anh lúc nào cũng phải mang theo nó.” Anh nói. “Nếu như biết anh không mang theo, bà sẽ căng thẳng và tức giận vô cùng.”
“Thật sao?”
Trong đầu Thái Hồng lập tức hiện lên hình ảnh người phụ nữ với sắc mặt xanh xao, nét u sầu vương trên khuôn mặt. Cô để ý thấy mỗi khi Quý Hoàng nhắc đến bà, giọng anh rất dịu dàng, trên mặt sẽ nở một nụ cười hiếm hoi. Tình cảm giữa mẹ con anh hẳn là sâu nặng lắm.
“Ừ. Ngày còn bé, mẹ anh luôn lo rằng anh sẽ chết yểu… Bây giờ cũng như thế. Mỗi lần gọi điện cho mẹ, mẹ đều không quên hỏi anh có mang thuốc dự phòng bên người không…”
“Thế mẹ đã từng đánh anh bao giờ chưa?”
“Chưa.”
“Mẹ em từng đánh em một lần, đến bây giờ em vẫn nhớ. Hồi nhỏ em rất bướng, không chịu nghe lời, là đứa bé nghịch ngợm, bướng bỉnh nổi tiếng trong khu nhà, ban ngày chẳng thấy bóng dáng em đâu, ban đêm thì không chịu đi ngủ. Cha mẹ em đều đi làm, với số tiền lương ba cọc ba đồng đó, họ phải dốc sức làm việc, khi về đến nhà thì đã mệt lử, ngặt nỗi em lại không chịu yên lặng, cứ quậy phá khiến hai người rất mệt mỏi. Mẹ em từng nhờ một cụ già ở tầng dưới trông chừng em, trông được ba ngày thì đình công, nói em lén lút chơi quẹt diêm suýt nữa đốt luôn nhà. Mẹ em nổi cơn tam bành, đè em ra đánh một trận tơi bời. Đó là lần đầu tiên em bị đánh.”
“Em đúng là nghịch quá!” Quý Hoàng nói. “Có lẽ chọc mẹ em giận điên rồi.”
“Còn anh? Anh có nghịch không?”
Trong ấn tượng của cô, Quý Hoàng rất hiếm khi nhắc đến chuyện nhà, anh nhanh chóng bác bỏ: “Nhà anh có đến ba thằng con trai liệu có thế không nghịch được sao?”
“Mẹ anh lại không đánh con cái, làm sao mà quản được?”
“Ai nói quản con cái nhất định phải dùng đòn roi nào?”
“Xử phạt về thể xác với con trẻ đúng là không tốt, nhưng vào thời gian đó mọi người đều bận rộn, lại quá nghèo, không đối xử nhẹ nhàng với con cái hoặc dạy bảo những thứ tốt đẹp đâu.” Thái Hồng thở dài nói.
“Mỗi thế hệ đều có khó khăn riêng, chúng ta nên cố gắng lý giải chứ đừng ôm hận trong lòng.”
“Mẹ em cưng em lắm chứ, thực ra tính khí bà nóng nảy, nhưng vì em mẹ đã thay đổi rất nhiều. Em chưa bao giờ vì điều đó mà trách mẹ.”
Sự im lặng đột ngột bao trùm lên hai người. Đề tài liên quan đến gia đình và tuổi thơ xem ra khó mà bàn sâu.
“Quý Hoàng, anh kể về cha anh có được không?” Thái Hồng đánh bạo. “Em muốn hiểu hơn về anh.”
“Cha anh mất sớm.” Giọng anh rất bình thản, tựa như đang thuật lại một tin tức đã lỗi thời. “Ông chết trong một tai nạn hầm mỏ.”
“Anh… ưm… đau lòng lắm đúng không?” Cô dè dặt hỏi.
Anh không trả lời, bỗng nói: “Anh đói rồi.”
“Anh đói rồi?” Thái Hồng ngơ ngác.
“Chúng ta quay về đi.”
Ba tháng thấm thoắt trôi qua.
Cả nhà Thái Hồng bước vào tình trạng chiến tranh lạnh, hình thức cụ thể của chiến tranh lạnh là “phủ tuyết”, không ai nhắc đến Quý Hoàng thêm lần nào, chàng trai mà Thái Hồng đang hẹn hò và yêu say đắm này dường như không hề tồn tại trên cõi đời. Cuộc sống sinh hoạt hằng ngày tiếp diễn như cũ, Hà Đại Lộ ngày ngủ, đêm lái taxi, Lý Minh Châu sáng đi làm chiều về nhà. Thái Hồng cũng dốc toàn tâm toàn sức vào kỳ thi tiến sĩ đang tới gần. Thực ra chuyện thi tiến sĩ tại chức này là sự bồi dưỡng có định hướng của khoa, chỉ cần Anh văn qua ải thì chắc chắn sẽ đỗ. Thái Hồng vốn cầm chắc chín phần mười sẽ đỗ, nhưng vì người ra đề là Thôi Đông Bích được mệnh danh là “bom cay” nên cô không dám khinh suất.
Quả nhiên không sai, đề thi lý luận thi ba tiếng đồng hồ, cô ngồi thi mà muốn cắn đứt cả lưỡi, cả phòng thi ai ai cũng vò đầu bứt tai, càng sốt ruột thì lại càng viết không ra, chỉ thiếu điều lấy sợi dây thắt cổ cho xong. Vừa bước ra phòng thi, Thái Hồng liền chửi trời với Quý Hoàng: “Chết tiệt! Lão Thôi đại tiên năm nay ra đề chắc chắn là đệ nhất khó từ trước đến giờ. Chỉ riêng phân tích đề thi đã mất một tiếng đồng hồ, lão còn bắt em kết hợp Habermas, Derrida, Foucault để bàn về tính biểu diễn của Butler, hỏi “biểu diễn” và “tính biểu diễn” có gì khác nhau, có ý nghĩa đặc biệt gì trong phê bình chủ nghĩa nữ tính không? Khó chết đi được, cả phòng thi người nào người nấy đơ ra, cả hội trường rộng lớn đầy tiếng thở ngắn than dài. Năm nay đúng là năm hạn, sao số em lại xui xẻo thế này không biết!”
Quý Hoàng nhìn cô, vẻ nhàn nhã: “Đâu đến nỗi nghiêm trọng thế? Cho dù không biết trả lời, nhưng viết đầy cả tờ giấy thi chắc em làm được mà!”
“Yên tâm, yên tâm!” Thái Hồng đáp. “Em giỏi nhất là chém gió, Habermas chưa đọc qua nhưng mấy người kia thì biết đại khái. Nhưng mà, câu này em thực sự không biết trả lời ra sao, trong bài thi toàn viết lan man tản mạn không đi vào vấn đề chính. Người khác còn có thể đánh lừa, Thôi đại tiên thì chắc không lừa nổi rồi, đoán chừng sẽ trừ mất bốn mươi điểm của em. Hu hu hu! Em chắc rớt rồi!”
Càng nghĩ càng chán nản, cô giơ chân đá mạnh, cả một chùm cỏ trên đất bị cô đá bay.
“Thế thì bây giờ em biết trả lời như thế nào chưa?” Quý Hoàng hỏi.
“Haizz! Thi xong rồi ai còn lo đáp án nữa. Tốt hay xấu gì cũng xong hết rồi, em không thèm quan tâm đáp án.” Thái Hồng lầm bầm. “Đừng có nhắc thi cử với em nữa.”
“Thế sao được, thực ra đây là một câu hỏi rất cơ bản, em lại là người nghiên cứu về phương diện này, em nói không biết đến anh nghe cũng giật mình.”
“Anh có ý gì đây hả? Em đâu phải dân lý luận chuyên nghiệp đâu chứ? Câu hỏi đó lại quá thâm sâu.” Thái Hồng không kiềm được muốn chửi trời tiếp. “Em nghiên cứu về Beauvoir, chứ có phải là Butler đâu. Em nào biết được ông thầy điên đó lại cho thi Butler chứ!”
“Anh tưởng rằng em ít nhiều gì cũng biết chút ít về Butler.” Quý Hoàng nói. “Tính “biểu biễn” của Butler là một khái niệm quan trọng trong nghiên cứu giới tính. Bài cô Quan Diệp dạy không thể nào không nhắc đến.”
“Nhắc thì cũng có nhắc”, Thái Hồng cúi gằm mặt, tựa như bị người khác nắm thóp. “Em cũng có ghi chép lại, nhưng đó là chuyện của hai năm trước, quên sạch từ lâu rồi. Nhưng mà, anh đừng lo! Em viết rất nhiều, rất dài… chỉ là không chắc lắm… có lẽ đã lạc đề đến tận đẩu tận đâu rồi.”
Đến phiên Quý Hoàng sốt ruột: “Rốt cuộc em trả lời như thế nào? Nói anh nghe xem, để anh biết rốt cuộc em chạy lạc đến bao xa rồi.”
Thái Hồng tìm một chiếc ghế đá rồi ngồi xuống, nghĩ ngợi, nói: “Trước tiên, em phân tích một đống cái gì là “biểu diễn”, biểu diễn là một người dùng hành vi diễn dịch “cái tôi” lý tưởng nhất của mình đến trạng thái lý tưởng nhất, thực ra cũng gọi là “biểu hiện”. “Biểu diễn” cũng là một người đóng vai một người khác, là sự biểu đạt trạng thái nội tâm bằng hành động. “Tính biểu diễn” là chỉ sự thuật lại quyền lực và kết cấu trên người của một người, cho nên nó không phải là sự biểu đạt tự do dục vọng cá nhân, mà là những truyền thống và quy tắc xã hội thông qua cá nhân để tiến hành sao chép cái tôi. Cho nên điểm khác biệt lớn nhất của “biểu diễn” và “tính biểu diễn” là, khi biểu diễn, cá nhân ít nhất có thể ý thức được có một chủ thể nào đó đang biểu diễn, còn “tính biểu diễn” lại mang ý nghĩa chủ thể biến mất, cá nhân bị các quy tắc bắt trở thành người phát ngôn thay cho nó. Ví dụ như em đóng vai Trương Phi, đó chính là biểu diễn, bởi em biết em không phải Trương Phi. Còn nếu như em trông thấy anh tô son môi rồi trêu cười anh, thì đó là “tính biểu diễn”, bởi vì quy tắc xã hội ám chỉ làm như thế không giống một người đàn ông, và trong tiềm thức của em mặc định ngầm quy tắc này. Cho nên hành vi của em chính là thuật lại quy tắc một lần trước mặt anh…”
“Câu hỏi sáu mươi điểm mà em chỉ nói có bấy nhiêu thôi?” Quý Hoàng nhướn mày.
“Đương nhiên là không chỉ có bấy nhiêu, mấy cái như quyền lực của Foucault, chủ thể của Lacan, dấu hiệu của Derrida em đều mang vào chém gió hết… Tuy không diễn đạt hết ý nhưng chắc chắn nội dung trong đó rối tung rối mù, dám cá có thể ru ngủ Thôi đại tiên luôn, ngủ một giấc tỉnh dậy thấy em viết nhiều như thế không có công lao cũng có khổ lao, nói sao cũng phải cho em một nửa số điểm. Hi hi!”
Quý Hoàng phì cười, vỗ vỗ đầu cô: “Cô nhóc cũng thông minh đấy chứ. Thực ra em trả lời cũng không tính là lạc đề, một nửa số điểm chắc chắn là lấy được.”
Thái Hồng mừng rỡ: “Thật hả? Ý anh nói em là thiên tài đúng không?”
“Không dám khen bừa em là thiên tài”, đôi mày anh dãn ra. “Nhưng cũng rất có thực lực đấy.”
“Nếu người chấm bài là anh thì hay quá rồi. Gặp phải ông thầy Thôi đại tiên đó, có trời mới biết kết quả sẽ như thế nào!”
“Bài thi chắc chắn là thầy Thôi chấm.” Anh ngại ngùng cười cười. “Nhưng mà đề thi là anh ra.”
“Oa! Hu hu hu… Anh chơi em! Anh đừng có mà chơi người ta thế chứ!” Thái Hồng nhảy bổ vào, ra thế bóp cổ anh.
Thái Hồng trải qua một buổi chiều vui vẻ trong căn hộ của Quý Hoàng. Mấy tháng nay ôn tập căng thẳng, về nhà còn phải đối diện với vẻ mặt lạnh như tiền của Minh Châu và những ánh mắt dò xét của các bà dì, cô thím trong tòa nhà, ấy thế mà đúng lúc này Tô Đông Lâm, tấm bia đỡ đạn cao cấp của cô lại ra nước ngoài bàn chuyện dự án.
Khi ánh mặt trời uể oải từ ngoài cửa sổ chiếu vào, làn gió nhẹ lướt qua ban công thổi rơi đóa hải đường trên ban, Thái Hồng sực nhớ đến một câu trong Lậu Thất Minh: “Núi dẫu không cao, có tiên nên danh”, nhà này tuy nhỏ, cũng đủ gửi gắm một đời người. Tiện tay với lấy một cuốn tạp chí, cô nhàn nhã ngồi trên ghế mây, lắng nghe Quý Hoàng tất bật dưới bếp. Lật được hai trang, cô chạy xuống bếp từ sau lưng vòng tay ôm anh.
“Chuyện gì đấy?” Anh rải một chút hành tây thái nhỏ vào nồi canh cá đang sôi sùng sục. Giơ một tay ra, siết chặt lấy cô.
“Để em giúp anh nhé?” Cô nói.
“Không phải đã giúp anh thái dưa leo rồi sao?”
Cô vùi mặt vào bờ lưng anh, tay bóp mạnh ba cái vào lòng bàn tay anh: “I love you.”
Vài đĩa thức nhắm bình thường, thông qua bàn tay kỳ diệu của Quý Hoàng liền trở thành món khai vị thượng hạng. Thái Hồng ăn ngon lành, còn uống hết một chai bia to. Trước khi màn đêm buông xuống, cô tạm biệt anh ra về, biết rằng ở nhà mẹ chắc cũng đã làm xong một bàn thức ăn chờ cô về.
Bởi thái độ kiên quyết của Minh Châu, để giảm thiểu xung đột, mỗi tối Thái Hồng đều về nhà trước chín giờ đêm. Nếu không về thì chẳng khác nào tự tìm phiền phức, vì Minh Châu sẽ liên tục dội bom điện thoại cho cô. Khi về đến nhà cô không những phải nhìn nét mặt hầm hừ của bà, mà còn phải khai báo đã đi đâu, làm gì…. Dù cô có giải thích thế nào, cuối cùng bà vẫn dồn sự hoài nghi về phía Quý Hoàng, sau đó là một trận quở trách cộng thêm nói bóng nói gió…
Thái Hồng ngao ngán nói với Quý Hoàng: “Thứ em nghiên cứu là chủ nghĩa nữ quyền, nhưng chủ nghĩa nữ quyền trên người em thực sự lại là một trò cười.”
Cô không nhắc đến cách nhìn của nhà cô đối với anh, thứ nhất, Quý Hoàng là người thông minh, thứ hai, thế giới của Quý Hoàng là một thế giới trong trẻo, mớ lý luận trần tục của cha mẹ cô sẽ chỉ làm vấy bẩn anh mà thôi.
Cứ từ từ, cô có thời gian, rồi tất cả mâu thuẫn sẽ được giải quyết, bởi vì không có ai là người xấu cả. Thái Hồng luôn tự nhủ với lòng mình như vậy.
Cô không thể ngờ rằng mình và Quý Hoàng lại kết thúc một cách chóng vánh đến thế.
Hai tuần sau khi kết thúc kỳ thi, Quý Hoàng từ trước đến giờ chưa từng nghỉ tiết bất ngờ xin nghỉ phép ba tuần.
Mẹ anh lâm bệnh nặng.
Biền biệt năm ngày không điện thoại, Thái Hồng thấy ngày dài đằng đẵng. Mãi đến cuối tuần mới nghe Quý Hoàng bảo bệnh thận của mẹ anh chuyển nặng, dạ dày và phổi đều xuất hiện dấu hiệu lây nhiễm, đang tiến hành trị liệu thẩm tách.
Thực ra so với những người cùng tuổi, thu nhập của Quý Hoàng không phải là thấp. Dù mỗi tháng phải đóng hơn một nghìn tệ tiền nhà, anh độc thân đơn chiếc, tiết kiệm chi tiêu cũng đủ sống qua ngày. Sở dĩ anh phải đi làm thêm là vì sức khỏe mẹ anh không tốt, lại không có bảo hiểm y tế. Ngoài ra hai đứa em trai đều theo học trường trung học trọng điểm của Trung Bích, tiền sinh hoạt, tiền học và tiền ăn ở đều do một mình anh gánh vác.
“Đủ tiền dùng không?” Thái Hồng hỏi.
“Anh có tiết kiệm được một số tiền, tạm thời không sao.” Chăm sóc người bệnh rất vất vả, giọng của anh khàn hẳn đi.
“Hay là anh đưa bác gái lên đây điều trị đi? Bệnh viện ở đây lớn, nhiều bác sĩ giỏi, điều kiện lại tốt.” Thái Hồng đề nghị. “Hơn nữa em lại có nhiều thời gian rảnh hơn anh, có thể giúp anh chăm sóc cho bác.”
“Cảm ơn em. Anh khuyên mẹ rồi”. Quý Hoàng nói. “Nhưng bà lo tiền viện phí đắt quá, kiên quyết không đi.”
“Thế có ảnh hưởng đến việc điều trị không?”
“Anh đang suy nghĩ cách khác.”
Không thể vắng tiết quá lâu, khi quay về, trông Quý Hoàng hốc hác hẳn đi. Anh bảo, bệnh viện mẹ anh đang nằm tuy điều kiện không tốt lắm nhưng thuốc thang cần dùng đều có đủ. Anh thuê y tá chăm sóc bà, nên tạm thời không có vấn đề gì. Có thể thấy anh đang rất lo lắng, nhưng anh cũng không nói cụ thể về bệnh tình của mẹ.
Mấy ngày sau, anh bắt đầu đi làm thêm không ngừng nghỉ, tất cả các buổi tối đều đi làm đến tận mười hai giờ đêm. Thái Hồng hỏi anh có cần giúp đỡ không, anh lắc đầu. Bao nhiêu năm nay cuộc sống của anh đều trôi qua như thế, mẹ thường xuyên lâm bệnh, phải nằm viện nhiều, bắt đầu từ năm nhất anh đã quen với cuộc sống bận rộn và vất vả này rồi…
Con nhà nghèo quả nhiên ý chí kiên cường…
Thái Hồng nhẩm tính, một ngày Quý Hoàng nhiều nhất cũng chỉ ngủ được khoảng bốn tiếng đồng hồ. Vốn có thể ngủ thêm một tiếng nữa, nhưng anh dùng thời gian đó để chạy bộ buổi sáng, cho nên khi thầy Quý xuất hiện trước mặt sinh viên, trông anh tràn trề sinh lực, thần sắc rạng rỡ, chỉ có Thái Hồng là đau thắt trong lòng, vì cô biết anh đã sức cùng lực kiệt, tựa như cánh cung sắp hết đà vì quá lao lực.
Chắc chắn anh đang rất cần tiền.
Mấy ngày sau, suy đoán của cô đã được chứng thực. Một buổi chiều, Thái Hồng gặp Quan Diệp, trong lúc tán gẫu có nhắc đến Quý Hoàng, Quan Diệp nói: “Bệnh của mẹ cậu ta không nhẹ, nghe nói là suy thận, một tháng gần đây toàn dựa vào trị liệu thẩm tách để duy trì sống.”
Không ngờ lại nghiêm trọng đến thế, Thái Hồng ớ lên một tiếng: “Có biện pháp chữa trị nào không?”
“Cô có nhờ người quen tìm một chuyên gia về thận dò hỏi giúp cậu ta rồi, với tình hình trước mắt, biện pháp duy nhất là thay thận.” Quan Diệp nói. “Nguồn thận hạn hẹp, nhà cậu ta cũng chẳng mua nổi, cho nên cậu ta định hiến thận của mình. Dù như thế, tiền phẫu thuật cũng phải đến trăm nghìn.”
Thái Hồng nuốt nghẹn: “Cái gì? Một trăm nghìn? Đắt thế sao?”
“Em đừng quên đó là phẫu thuật hai người. Tiền thuốc sau phẫu thuật cũng rất đắt, một tháng cũng phải tốn khoảng bốn nghìn. Bản thân cậu ta có tiết kiệm được một khoản tiền, cô cho cậu ta vay thêm một ít, nhưng chắc vẫn còn thiếu, chỉ không biết là bao nhiêu.”
Thái Hồng cảm thấy hơi bực tức, chuyện lớn thế này mà Quý Hoàng không nói gì với cô, chẳng lẽ anh sợ cô lo lắng sao? Ngẫm nghĩ lại, bản thân cô cũng làm gì có tiền, tiền lương chưa đến cuối tháng đã tiêu hết sạch, bất đắc dĩ còn đến chỗ Quý Hoàng ăn cơm chùa, việc đến nước này cũng chỉ có thể lo suông mà thôi.
“Thế thì… thiếu một quả thận có ảnh hưởng gì đến sức khỏe của anh ấy không?” Thái Hồng lại hỏi. Tuy cũng nghe nói người khỏe mạnh chỉ cần một quả thận là đủ rồi, nhưng dù sao cũng là động đến dao kéo, là cắt nội tạng chứ có phải chuyện đùa đâu!
“Cậu ta làm xét nghiệm ở bệnh viện rồi. Cậu ta có chung nhóm máu với mẹ mình, nội tạng cũng tương thích, về phía Quý Hoàng thì tỷ lệ thành công rất cao, hồi phục cũng sẽ tốt. Nhưng bệnh tình của mẹ cậu ta tương đối phức tạp, ghép thận xong rồi liệu có thể bình phục hay không vẫn còn chưa biết. Hơn nữa, mất một quả thận vẫn có ảnh hưởng đối với cơ thể, sau phẫu thuật phải đặc biệt chú ý đến vấn đề ăn uống, không được để bị cảm, cũng không được làm nhiều việc nặng…”
Đêm đó, Thái Hồng đã mất ngủ.
Mấy năm nay cô cũng tiết kiệm được một số tiền, cộng lại chắc cũng được mười nghìn, toàn bộ đều giao cho mẹ gửi vào ngân hàng hết. Chuyện tiền bạc Thái Hồng không rành mấy, cũng chẳng bao giờ bận tâm, Minh Châu là nhân viên tài vụ, đương nhiên để bà lo liệu cho. Sau đó Minh Châu bảo, trừ mười nghìn kia ra, mỗi năm bà đều gửi một số tiền vào tài khoản đó, tuy không nhiều, nhưng tích tiểu thành đại, còn hơn để Đại Lộ lấy đi mua rượu. Đợi sau này cô đi lấy chồng rồi cũng có cái làm bệ đỡ khi về nhà chồng.
Thế là vào buổi trưa ngày hôm sau, Thái Hồng giả vờ lơ đãng hỏi dò Minh Châu: “Mẹ ơi, số tiền mà con để dành, có thể lấy ra một ít không?”
Minh Châu đang xào đồ ăn, gương mặt hơi biến sắc: “Con cần tiền à?”
“Không phải, Hàn Thanh nói dạo này ngân hàng trung ương điều chỉnh lãi suất, muốn trả nợ sớm trước thời hạn, đi xoay xở, gom góp tiền cũng gần đủ rồi, hỏi con có thể giúp cô ấy một chút không… Bây giờ tiền lương của cô ấy cao lắm, có lẽ không lâu sau là có thể trả con rồi.”
Minh Châu đưa mắt nhìn cô một cái, phán đoán xem những lời nói đó là thật hay giả, rồi cười nhạt: “Lương nó cao như thế, sao lại có thể để tâm đến chút tiền tiết kiệm còm cõi của con?”
“Tiền lương cao nhưng để trả góp cũng cao mà, lãi suất cũng cao nữa.” Nói đến trình độ đặt ra mấy lời nói dối vô hại để đánh lừa người khác, đẳng cấp của Thái Hồng không phải là thấp, nếu không thì thời đại học cô cũng chẳng thể ăn không nói có, viết được biết bao nhiêu bức thư tình. Ngặt nỗi Minh Châu lại là tử huyệt của cô, mẹ cô cười một tiếng, cô tức thì chột dạ, giữa chừng bất giác chùng giọng.
“Một tháng lương của nó hơn mười nghìn con có biết không hả? Không nhắc đến chuyện này thì thôi, nhắc đến là mẹ lại bực mình! Con đúng là đồ đầu đất! Công việc tốt như thế tại sao con không làm? Giới thiệu cho nó làm gì? Hả? Con là cái đồ chân đèn đế cao, chỉ rọi được người khác mà chẳng rọi được chính mình! Đầu óc lú lẫn rồi!”
Thái Hồng sượng trân: “Con? Con đi làm gì? Con đâu có thiếu việc làm?”
“Con không thiếu việc làm nhưng con thiếu tiền, con biết không hả? Hai đứa con tốt nghiệp cùng một khoa, trình độ con còn cao hơn nó, công việc nó làm được, con cũng làm được. Một tháng người ta kiếm được bằng nửa năm tiền lương của con, một cơ hội tốt như thế, sao lại nhường cho nó chứ? Xem người ta kìa, nhờ vào quan hệ của con mà trở nên khá giả rồi đấy, thấy chưa? Căn hộ mấy trăm nghìn cũng sắp trả xong rồi. Con nhìn lại nhà mình đi… muốn đổi sang tầng khác cũng chẳng được. Tiểu thư của tôi ơi! Sao con lại không bớt ngốc nghếch một chút hả?”
“Mẹ, tiền lương của Hàn Thanh sao mẹ lại biết?” Đây là con số mới nhất về lương của Hành Thanh, còn cao hơn cả mức lương hướng dẫn tiến sĩ, Thái Hồng nghe mà giật nẩy mình.
“Nó gọi điện thoại tìm con mấy lần con đều không có nhà, mẹ bèn ngồi nói chuyện với nó một chút, hỏi mấy câu là nó khai hết, còn không ngừng cảm ơn con nữa kìa!”
“Ồ!”
“Số tiền còm cõi đó của con chỉ là hạt muối bỏ biển, đừng có ở đó tự làm mất mặt mình. Nó thiếu tiền, có ông chủ lớn là Tô Đông Lâm ở đó không mượn, mượn con làm gì?”
“Mẹ à!” Thái Hồng nói, vẻ nghiêm túc. “Đông Lâm là bạn tốt của tụi con, nhưng bọn con không bao giờ mượn tiền của anh ấy. Đông Lâm có bao nhiêu tiền chẳng liên quan đến tụi con. Nếu suốt ngày chỉ nhắm vào tiền của anh ấy, quan hệ giữa bọn con với anh ấy đã biến chất mất rồi.”
“Quan hệ giữa con với cậu ta đúng là nên thay đổi đi!” Minh Châu phẩy tạp dề một cái, hai tay chống nạnh, trưng ra tư thế bắt đầu tranh luận. “Nói thật đi, có phải con và Quý Hoàng vẫn còn qua lại với nhau không? Đừng có nghĩ bà già này không biết! Đông Lâm không gọi điện đến nhà chúng ta là một chứng cứ rõ ràng.”
Bị Minh Châu khí thế bừng bừng trách móc, Thái Hồng cũng mất hết bình tĩnh: “Quý Hoàng là thầy hướng dẫn của con, cũng là đồng nghiệp của con, ở trường làm sao mà không chạm mặt nhau được, sao có thể không qua lại cơ chứ? Hơn nữa, cũng không đáng để mẹ phải gọi điện lên tận lãnh đạo khoa để phá hoại thanh danh của người ta vì chuyện đó chứ! Mẹ à, có phải mẹ làm hơi quá rồi không? Con thật sự không dám tin mẹ lại có thể làm chuyện như thế!”
“Quá đáng ư? Chẳng quá đáng tí nào cả!” Giọng của Minh Châu bỗng chốc vút cao. “Nếu con còn không chịu cắt đứt với gã họ Quý đó, Lý Minh Châu này quyết sẽ đối đầu với hắn đến cùng!” Dứt lời, bà cầm con dao lên, “phập” một cái, chém đứt đôi củ cà rốt trên thớt.
Thái Hồng chỉ cảm thấy sống lưng lạnh toát, bèn quay đầu bỏ đi.
Ra đường rẽ phải, lại rẽ qua vài con phố, có một trung tâm giao dịch đá quý nổi tiếng của thành phố nằm ở đó.
Trên cổ Thái Hồng luôn đeo một mặt ngọc phúc lộc thọ nhân sinh như ý, là của bà ngoại để lại cho cô. Phỉ thúy của Myanmar, có màu xanh dịu nhẹ, màu sắc trong suốt, không vương chút tạp chất nào. Nghe Minh Châu nói, mặt ngọc này bà ngoại có rất nhiều, tiếc là thời Cách mạng văn hóa bị bà ném hết xuống sông Trường Giang. Mảnh ngọc này luôn được Minh Châu mang bên mình nên mới không bị vứt xuống sông. Cho nên mỗi lần nhắc đến của hồi môn của Thái Hồng, Minh Châu đều tỏ vẻ rất tự hào. Mặt ngọc này là phỉ thúy hảo hạng nhờ những người chuyên nghiệp trong giới xem, ai cũng nói nó đáng giá hơn hai trăm nghìn. Khi nhà hết tiền cũng từng nghĩ đến việc mang đi bán, có hỏi qua vài người nhưng họ ra giá thấp vô cùng, ai cũng nói nghề làm ngọc này trông thì có giá đấy, nhưng lại không dễ chuyển đổi thành tiền mặt như vàng, một miếng ngọc để trong tiệm những mấy năm vẫn không bán được là chuyện bình thường. Minh Châu bèn từ bỏ ý nghĩ đó, để Thái Hồng đeo, coi như bảo bối gia truyền.
Thái Hồng đi thẳng lên “Bích Ngọc Hiên” trên tầng hai, chủ tiệm là bạn thời trung học của cô, Thái Tiểu Huy.
Tháo mặt ngọc ra, nắm trong lòng bàn tay, cảm nhận sự ấm áp, nhẵn mịn của nó lần cuối, Thái Hồng quyến luyến đặt nó vào tay Tiểu Huy. Tiểu Huy dùng kính phóng đại và đèn pin tụ quang xem xét kỹ lưỡng, gật đầu một cách hài lòng: “Ừm, là hàng tốt. Tuy không to nhưng rất dày, chất địa cũng rất thuần.”
“Là bà ngoại để lại cho mình. Ông ngoại mình trước giải phóng là hội trưởng thương hội của thành phố này, tên Lý Sĩ Khiêm, cậu từng nghe qua chưa?”
“Lý Sĩ Khiêm, mình biết đấy!” Ánh mắt Thái Tiểu Huy long lanh ngời sáng. “Là nhà đại tư bản ấy chứ! Nghe nói lần đầu tiên thành phố mình lắp đèn đường là ông ấy làm đó.”
“Mình thiếu tiền, muốn bán miếng ngọc này, cậu ra giá đi.”
“Hả? Người ta vẫn nói vàng bạc có giá ngọc vô giá, nếu mua vào, giá cả không thể bẳng giá bán được đâu.” Cậu ta cầm trên tay nghiên cứu một hồi, lại bước vào phòng trong dùng máy móc chuyên dụng kiểm tra, một lúc sau bước ra, nói. “Thế này đi, nể tình mình và cậu quen biết nhau, mình trả cậu mười lăm nghìn.”
Thái Hồng vừa nghe xong, cảm thấy hơi buồn: “Ít vậy sao? Mẹ mình nói miếng ngọc này đáng giá hai trăm nghìn cơ.”
“Đó là trước kia. Bây giờ trên thị trường, phỉ thúy cũng nhiều, làm ăn không dễ. Miếng ngọc này á, mình thấy có thể bán được giá một trăm hai mươi nghìn, nhưng phải xem cái duyên đã, trong thời gian ngắn chắc chắn không bán được, để trong tủ trưng vài năm cũng là chuyện thường. Chỗ này bọn mình thống nhất giá mua hết, đều là một phần mười của nguyên giá, vả lại chỉ giới hạn mua loại ngọc cao cấp, hàng bình thường bọn mình không nhận. Trả cậu mười lăm nghìn là nhiều hơn ba nghìn rồi.”
Thái Hồng ngẫm nghĩ, ngước nhìn cậu ta, mặt tiu nghỉu đến tội nghiệp, nói: “Nể tình bọn mình là bạn học cũ, cậu trả mình hai mươi nghìn được không? Nếu không phải cần tiền gấp mình cũng chẳng nỡ bán nó đâu.”
Thái Tiểu Huy đưa mắt quan sát cô một cái, Thái Hồng vội trưng ra vẻ mặt sầu thảm, cậu thở dài, nói: “Thế này đi, nể tình xưa kia cậu chịu cho mình chép bài tập, mười tám nghìn. Mình chỉ có thể trả bấy nhiêu thôi. Không tin cậu có thể mang nó đi một vòng tầng hai hỏi người khác, giá này thực sự là giá cao nhất rồi.”
“Thôi cũng được.”
Thái Hồng rút ra hai nghìn cuối cùng trong thẻ của mình, góp lại thành hai mươi nghìn, bỏ vào trong một phong bì, nhắm thời gian rảnh hẹn Quý Hoàng ra đưa cho anh: “Anh này, mẹ anh bệnh nặng, cần tiền đúng không? Đây là hai mươi nghìn, anh mang về dùng tạm đi.”
Anh không chịu nhận, cô cứ dúi vào tay anh, hào phóng nói: “Cũng chẳng phải tặng không anh đâu, cái này coi như của hồi môn của em, tạm để ở chỗ anh trước.”
Quý Hoàng cười khổ: “Quả là một cô nhóc ngốc nghếch! Người ta mà biết thế nào cũng cười em thối mũi, người chưa gả vào nhà, của hồi môn đã gửi trước rồi.”
Thái Hồng vòng tay ôm cổ anh, không ngượng ngùng hôn anh một cái: “Trông thấy anh mệt như thế em đau lòng lắm. Đừng đi làm thêm nhiều vậy nữa, được không anh?”
Quý Hoàng ngẫm nghĩ, cầm lấy phong bì, nghiêm túc nói: “Cám ơn em, tiền này coi như anh mượn em. Cho anh thời gian một năm, ngày này năm sau anh nhất định sẽ trả lại em.”
Dứt lời, anh kéo ngăn bàn ra tìm giấy bút.
“Ôi trời! Anh làm gì thế?” Thái Hồng ngăn anh lại.
“Anh viết giấy nợ.”
“Nợ cái đầu anh ấy! Với em mà cũng phải nghiêm chỉnh đến thế sao? Nếu em không tin anh, liệu em có thể cho anh mượn không? Anh coi em là con ngốc à? Nếu còn khách khí với em như thế, em trở mặt bây giờ đấy.” Nói rồi, cô cầm giấy bút ném lại vào ngăn bàn, rồi đưa tay vuốt ve gương mặt anh, gương mặt ấy đã hốc hác đến nỗi xương gò mà nhô lên, lại dùng ngón tay khẽ miết nếp nhăn trên trán anh. “Em bây giờ không có bệnh tật hay tai nạn gì, tiền không cần trả gấp đâu, anh đi làm thêm ít thôi, nghỉ ngơi nhiều vào anh nhé!”
Quý Hoàng ngồi xuống, cầm lấy tay cô, nói: “Về bệnh tình của mẹ anh, có vài điều anh muốn nói cho em biết… Mẹ anh bị suy thận giai đoạn cuối, rất nghiêm trọng, cần phải thay thận. Anh…”
“Cái này là phẫu thuật lớn lắm, đúng không anh?” Thái Hồng có một người bạn thời tiểu học, cha của người đó từng phẫu thuật thay thận, lúc đó nghe nói nếu phải mua thận rất tốn kém, chỉ một quả thận thôi giá đã là hai trăm nghìn, chưa kể chi phí phẫu thuật. May mà nhà bạn đó giàu có, cuộc phẫu thuật thành công, cha cậu ta vẫn khỏe mạnh sống đến tận bây giờ.
“So với các loại phẫu thuật cấy ghép nội tạng khác, nó tương đối đơn giản.”
“Thế thì… đã tìm được thận chưa?” Cô hỏi.
“Bác sĩ nói nếu là người thân trực hệ có nội tạng tương thích thì càng tốt, tỷ lệ thành công càng cao.” Anh đáp. “Hơn nữa… có thể tiết kiệm tiền.”
Mặt cô thoáng tái đi, khẽ cầm lấy tay anh: “Em hiểu, cô Quan đã kể cho em nghe rồi.”
Anh lặng lẽ ngồi đó, một lúc lâu không nói gì. Hồi sau, đang định cất lời, Thái Hồng liền đưa tay chặn môi anh: “Anh cứ yên tâm làm phẫu thuật, em sẽ chăm sóc anh và bác gái thật tốt.”
Trên mặt anh hiện lên nét cười khổ: “Sau khi cắt đi một quả thận, có thể sẽ có di chứng… anh muốn nói là cuộc sống sau này. Chẳng hạn như không được uống rượu, không được uống cà phê v.v… Nếu như…”
“Thế thì không uống.” Thái Hồng nói. “Đâu phải là em không được uống, nên em sẽ không khó chịu đâu.”
Anh thoáng ngập ngừng, nói tiếp: “Đương nhiên còn có những cái khác nữa…”
Thái Hồng ngượng ngùng: “Đừng nói là không thể làm… chuyện đó nhé? Thế thì em thực sự phải bỏ cuộc rồi.”
“Cái đó thì không ảnh hưởng.” Anh vội đính chính, sau đó phì cười. “Xem em nghĩ đến chuyện gì kìa.”
Thái Hồng vỗ vỗ vai anh, nói: “Thế thì không sao. Cùng lắm sau này không để anh làm việc nặng, em kiếm tiền nhiều chút, thuê người thay bình ga thôi!”
Anh siết chặt cô vào lòng, nhẹ nhàng đặt một nụ hôn lên môi cô, nói: “Thực sự rất xin lỗi em, anh cũng không nghĩ sự việc lại đến nước này.”
Thái Hồng lại hỏi: “Tiền phẫu thuật có đủ không anh? Nếu không đủ, em có thể mượn một số bạn bè, chắc chắn có thể gom đủ.”
“Đã đủ rồi.” Anh nói. “Anh đã liên hệ được một chuyên gia phẫu thuật thận rồi, mấy ngày nữa sẽ đi làm vài xét nghiệm.” Anh thoáng ngừng, rồi lại thở dài: “Vấn đề là mẹ anh kiên quyết không chịu phẫu thuật. Anh vừa nhắc chuyện này mẹ liền nổi giận, nhất định không đồng ý.”
“Vì sao? Đây là chuyện tốt cơ mà!”
“Mẹ bệnh từ rất lâu rồi, bị trầm cảm nhẹ, gần đây cảm xúc không ổn định lắm.” Có thể thấy rõ nét âu sầu, lo lắng trên gương mặt anh.
“Đừng lo. Sau phẫu thuật, sức khỏe của bác gái sẽ hồi phục, mọi chuyện rồi sẽ ổn thôi.”
“Thực ra tình trạng của mẹ không lạc quan đến thế, chỉ là… anh không muốn từ bỏ hy vọng, dù chỉ là một tia hy vọng mong manh anh cũng muốn nắm lấy. Chuyện phẫu thuật anh định giấu mẹ. Nói với mẹ rằng bệnh tình mẹ không nghiêm trọng đến mức phải thay thận, chỉ cần cắt bỏ một quả thận hỏng là được rồi.”
Thái Hồng gật đầu, tỏ ý hiểu: “Khi nào tiến hành phẫu thuật?”
“Bác sĩ nói càng nhanh càng tốt, anh định vào mùng Một tháng sau.”
“Lịch dạy của anh thì sao?”
“Cô Quan sẽ giúp anh đứng lớp một tuần, sau khi phẫu thuật một tuần là anh có thể xuất viện rồi.”
Xem ra mọi việc đã được sắp xếp xong xuôi hết. Cô nhìn anh, cảm thấy có chút bi thương: “Dù sao cũng là cuộc phẫu thuật lớn, xem anh nói đơn giản chưa kìa!”
Cụp mắt hồi lâu, anh nắm tay cô, dáng vẻ áy náy như có lỗi: “Xin lỗi em, trước giờ anh không kể cho em nghe nhiều chuyện. Không phải anh cố ý giấu em, mà thực sự anh không ngờ bệnh tình của mẹ lại đột ngột xấu đi như vậy, cầm bệnh án của mẹ đến đây tìm bác sĩ để hỏi thăm anh mới dám tin… Bệnh của mẹ vì lao lực mà ra, cuộc đời mẹ chưa sống được ngày nào sung sướng. Anh luôn nghĩ rằng, sau này cuộc sống ổn định, anh sẽ hiếu thảo phụng dưỡng mẹ thật chu đáo, không biết ước nguyện này có thể thực hiện được không.”
“Yên tâm! Bác gái ở hiền ắt gặp lành, chắc chắn bác sẽ vượt qua cửa ải này!”
“Quả thận này… không còn cách nào khác… anh chỉ có thể dâng hiến cho mẹ mà thôi.” Anh nghiêm túc nói. “Thế nhưng em hãy yên tâm, sau phẫu thuật, anh sẽ chăm sóc sức khỏe của mình thật tốt, không để xảy ra chuyện gì đâu…”
Thái Hồng ngượng chín người. Cảm giác anh như đang lo lắng điều gì đó, và muốn cố gắng chứng minh điều gì, nhưng đến giờ cô vẫn ngây ngô không hề nghĩ sẽ có hậu quả đáng sợ nào xảy ra. Nghe anh nói như thế, bất chợt một cảm giác sợ hãi dâng lên trong lòng cô.
Phẫu thuật liệu có thất bại không?
Mất một quả thận, quả thận còn lại liệu có đủ để duy trì nửa đời sau của anh? Lỡ như quả thận duy nhất ấy của anh cũng mắc chứng viêm thận thì sao? Đến lúc đó, ai sẽ hiến thận cho anh đây?
“Hôm nay có món cật heo mà con thích đấy.” Minh Châu cười tươi, nói. “Thái Hồng à, mẹ đã hẹn cho con ba giờ chiều thứ Bảy tuần này rồi, dì Chu nói sẽ giới thiệu một chàng trai cho con… con đừng có đánh trống lảng với mẹ và dì nữa đấy.”
Nhìn những món ăn nóng hổi đang bốc khói nghi ngút trên bàn, đột nhiên cô cảm thấy buồn nôn.