Tay Súng Cuối Cùng
Chương 3
Cove cúi thấp người trong xe và theo dõi nhóm người kia bước vào xe của chúng và lái ra ngoài. Ngay khi chúng vừa lái qua, Cove ngồi dậy, chờ một lát rồi lặng lẽ bám theo. Anh kéo sụp chiếc mũ lưỡi trai trên quả đầu mới xén của mình, vĩnh biệt nhé, những lọn tóc dài lãng tử, nhưng cũng đến lúc rồi, anh đã quyết định là phải thế. Mấy chiếc xe phía trước dừng lại và Cove cũng phải đạp phanh. Khi nhìn thấy những tên kia bước ra khỏi xe, Cove vội rút chiếc máy ảnh từ trong balô ra và bấm lia lịa. Lát sau anh bỏ chiếc Nikon qua một bên, lấy ra chiếc ống nhòm hồng ngoại, và điều chỉnh độ phóng đại. Cove gật gù với chính mình và lần lượt điểm mặt từng tên một.
Anh hít thật sâu và thở ra nhẹ nhõm. Nhóm kia đã biến vào trong một toà nhà. Cove lặng lẽ ngồi chờ và nghĩ ngợi mông lung, bất giác cả cuộc đời anh từ trước đến giờ chợt hiện lên trong tâm trí như một cuốn phim tiểu sử. Hồi học đại học, Cove đã từng được xem là một phiên bản bự hơn, nhanh hơn cả Walter Payton ([9]); hồi còn chơi cho giải nghiệp dư các trường đại học toàn Mỹ, anh đã là một cầu thủ mà tất cả các đội bóng của giải NFL ([10]) đều sẵn sàng bỏ ra cả đống tiền để có được. Mọi chuyện đều tốt đẹp cho đến khi anh phải phẫu thuật vì đứt dây chằng cả hai đầu gối sau một chấn thương chết tiệt lúc đang thi đấu trận thuộc giải sát hạch hỗn hợp ([11]) . Tai nạn dở hơi này đã biến anh từ siêu nhân số một thành một tay chơi nghiệp dư tầm thường mà chẳng huấn luyện viên nào ở NFL thèm để ý. Vậy là giấc mơ hàng triệu đô la phút chốc tan tành mây khói và lối sống duy nhất mà anh biết cũng không còn. Anh sống dặt dẹo, bất cần đời vài năm, tìm kiếm sự thương hại của người đời, và tự thanh minh cho thất bại của mình, cứ như thế, cuộc đời anh đã tụt dốc không phanh đến nỗi hoàn toàn mất phương hướng, và đúng lúc đó anh đã gặp nàng. Cove vẫn luôn tin rằng vợ anh là sự can thiệp của Chúa, được cử xuống thế gian để cứu rỗi thân xác tàn tạ của anh khỏi sự lãng quên của số phận. Với sự giúp đỡ của nàng, anh đã lại đứng thẳng lên và thực hiện được giấc mơ bí mật của mình là trở thành một đặc vụ thực sự.
Anh đã bị bắn đi hết nơi này đến nơi khác trong Cục FBI. Đó là thời kỳ cơ hội dành cho những người da đen vẫn còn cực kỳ hạn chế. Cuối cùng thì người ta hầu như ép anh phải nhận công việc làm đặc vụ chìm về ma túy, vì cấp trên của anh đã bảo anh không thèm úp mở rằng hầu hết những “bọn xấu đều có cùng màu da như anh. Anh có thể đi lại ăn nói và hòa lẫn vào bọn chúng một cách dễ dàng. Mà thực sự thì anh cũng chẳng biết cãi thế nào. Công việc quá thừa nguy hiểm nên không còn thời gian mà buồn chán nữa. Đó là điều an ủi rất nhiều vì Randall Cove không bao giờ chịu được cảnh buồn tẻ, ăn không ngồi rồi. Và chỉ trong một tháng anh đã loại được số lượng tội phạm nhiều hơn hầu hết các đặc vụ khác từng làm trong suốt cả sự nghiệp của họ, mà lại toàn là những con cá lớn chứ, những tên đầu sỏ, những thằng trùm làm tiền thực sự, chứ không phải loại tép riu bán lẻ trên phố, những thằng nghiện sắp chết. Anh và vợ đã có hai nhóc tì đẹp như thiên thần và anh bắt đầu suy nghĩ nghiêm túc đến việc giải nghệ thì đột nhiên cả thế giới tươi đẹp cửa anh bỗng sụp đổ tan tành, anh mất hết cả vợ lẫn con.
Anh giật mình trở lại với thực tại khi nhìn thấy bọn kia bước ra, trèo vào xe và tiếp tục lái đi và Cove lại bám theo.
Cove đã mất đi điều quý giá nhất mà anh không bao giờ lấy lại được nữa. Sáu người đã chết chỉ vì sai lầm tệ hại của anh, chỉ vì anh đã bị xỏ mũi như một tay lính mới chưa ráo máu đầu. Lòng tự trọng của anh bị tổn thương, nỗi thù hận lúc nào cũng sôi sục. Và thành viên thứ bẩy của cái đội đột kích tan tành ấy khiến Cove phải đặc biệt đau đầu. Người này đã sống sót trong khi lẽ ra anh ta cũng đã phải chết mà không ai hiểu tại sao, hay ít nhất thì cũng chưa hiểu tại sao. Cove muốn nhìn thẳng vào mắt anh ta và hỏi, Thế quái nào mà mày vẫn còn thở nhỉ? Anh không có hồ sơ của Web London và anh cũng biết là một đặc vụ chìm như anh thì còn lâu mới được tiếp cận hồ sơ đó. Đúng, Cove là người của FBI, nhưng cũng đúng là ai cũng đinh ninh anh đã thành một tên phản bội. Chẳng phải các đặc vụ chìm bao giờ cũng sống chênh vênh sát đường ranh giới là gì? Còn gì có thể bạc bẽo hơn công việc mà anh đã phải làm suốt bao năm qua, nhưng anh chấp nhận tất, chỉ vì anh làm việc cho mình, chứ không vì bất kỳ ai khác.
Mấy chiếc xe tấp lại bên lối vào và Cove cũng dừng lại, chụp thêm vài tấm ảnh rồi quay đầu xe. Đêm nay thế là quá đủ rồi. Anh quay đầu xe và lái về nơi duy nhất tạm gọi là an toàn trong lúc này, và đó không phải nhà anh. Anh vừa quay đầu xe và nhấn ga thì bỗng nhiên một cặp đèn pha xuất hiện từ phía sau, như từ trên trời rơi xuống và bám theo anh. Không ổn rồi, nhất là trên một con đường vắng như thế này. Bị chính đồng nghiệp theo dõi không phải điều khiến Cove thích thú gì. Anh rẽ, chiếc xe cũng rẽ. OK, vụ này nghiêm trọng đây. Anh lại tăng tốc. Cái đuôi cũng bám theo. Cove lần tay xuống bao súng cài ở thắt lưng, rút súng ra và kiểm tra chốt an toàn. Anh liếc nhìn kính chiếu hậu, cố xác định xem đang phải đối mặt với bao nhiêu thằng. Trời quá tối nên không sao nhìn được, đoạn đường này chẳng có đèn đóm gì cả. Viên đạn thứ nhất bắn thủng lốp sau bên phải của anh, phát thứ hai bắn thủng lốp trái . Trong lúc anh đang vất vả giữ lái chiếc xe đang chao đảo, một chiếc xe tải lao từ đường ngang ra húc thẳng vào bên sườn xe anh. Cũng may Cove đã hạ cửa kính xe, nếu không đầu anh đã đập xuyên qua kính rồi. Phía trước chiếc xe tải có gắn tấm ủi tuyết, mặc dù bây giờ đâu phải giữa mùa đông. Chiếc xe tải rồ ga và đẩy xe của Cove rê đi trên mặt đường. Anh cảm thấy xe mình như sắp lộn nhào và rồi chiếc xe tải đẩy xe anh lộn tung qua cả gờ bảo vệ - vốn được lắp ở đây để bảo vệ cho các phương tiện không lao xuống triền vực dốc dựng đứng ở đoạn cua này. Sườn xe đập thẳng xuống đất đá lổn nhổn và lăn lông lốc, cả hai cánh cửa mở tung ra. Cuối cùng chiếc xe nát bét cũng ngừng lăn khi chạm tới đáy triền dốc, bốc cháy rừng rực và nổ tung.
Chiếc xe vẫn bám theo Cove bỗng dừng lại, một người đàn ông trong xe bước ra, chạy đến sát gờ bảo vệ bẹp rúm và căng mắt nhìn xuống triền dốc. Hắn nhìn lửa bốc lên, chứng kiến vụ nổ khi lửa liếm vào xăng chảy ra, rồi mới quay vào xe. Cả hai chiếc xe cùng rồ máy rời khỏi hiện trường.
Sau khi chúng đi khỏi, Randall Cove từ từ gượng dậy và rời khỏi nơi anh đã bị bắn văng ra khi cửa xe mở tung sau khi va chạm với mặt đất. Khẩu súng của anh đã rơi đâu mất và hình như có vài cái xương sườn bị gãy, nhưng quan trọng nhất là anh vẫn sống. Anh nhìn xuống những gì còn lại của chiếc xe rồi ngước lên nhìn theo bóng những tên tìm cách giết anh vừa đi khỏi. Cove lảo đảo đứng hẳn dậy và nặng nhọc lần đường trèo lên triền dốc.
°
Web ôm chặt cánh tay bị thương, trong khi đầu anh chỉ chực nổ tung. Cảm giác như thể anh vừa nốc liên tục ba cốc rượu tequilla và chất cồn nóng bỏng đang bốc hết lên đầu. Phòng bệnh viện vắng tanh. Bên ngoài có một nhân viên vũ trang đứng gác, để bảo đảm không có chuyện gì xảy ra với Web - bất kỳ chuyện gì.
Web đã nằm đây cả ngày, cả đêm để suy nghĩ về những gì đã xảy ra. Và anh không tiến gần đến những câu trả lời hơn được chút nào so với khi họ đưa anh đến đây. Người chỉ huy của Web cũng đã vào thăm, cùng với vài thành viên của đội Hotel, và một số tay bắn tỉa của Whiskey, X quang. Họ hầu như không nói gì, chỉ lặng lẽ gặm nhấm và chia sẻ nỗi đau mà tất cả đang phải trải qua, tất cả đều bàng hoàng không thể tin nổi là một chuyện như vậy có thể xảy ra với mình. Và trong mắt họ, Web có thể cảm nhận rõ nỗi nghi ngờ, về những gì đã xảy ra với anh trong con hẻm.
“Tôi xin lỗi, Debbie,” Web ấp úng với gương mặt tưởng tượng của người vợ góa mà Teddy Riner vừa để lại. Anh cũng nói câu đó với Cynde Plummer, vợ của Cal và giờ cũng là một góa phụ. Anh điểm lại danh sách: sáu người phụ nữ cả thảy, tất cả đều là bạn của anh. Chồng và người yêu của họ đều là đồng đội, là chiến hữu của Web; trong anh cũng là cảm giác đau đớn và mất mát đâu có kém gì những người phụ nữ.
Anh buông thõng bàn tay bị thương xuống và chạm vào thành giường bằng thép lạnh lẽo. Thật xấu hổ khi chỉ bị một vết thương lố bịch thế này, trong khi các đồng đội đều chết hết. Anh thậm chí còn không bắn được phát nào trực diện. “Mình còn không kịp bắn một phát chó chết nào trước khi họ ngã xuống,” anh nói với bức tường. “Không một phát nào! Không thể tin nổi, đúng không?” Anh hét lên với chiếc cọc treo lọ truyền dịch trước khi rơi vào trạng thái im lặng, trầm tư.
“Chúng ta sẽ bắt chúng phải trả giá, Web.”
Giọng nói làm Web giật mình vì anh không nghe thấy tiếng người bước vào phòng. Nhưng có tiếng nói thì phải có người chứ. Web lăn qua lăn lại trên giường đến khi anh nhìn thấy hình dáng một người đàn ông.
Percy Bates đang ngồi trên ghế ngay sát giường Web. Anh ta đang chăm chú dán mắt xuống sàn nhà lót thảm như thể đó là một tấm bản đồ có thể đưa mình đến nơi có tất cả những câu trả lời.
Người ta đồn rằng Percy Bates chưa hề thay đổi chút nào trong suốt 25 năm qua. Thậm chí cân nặng và vóc dáng của anh ta cũng không hề suy xuyên. Mái tóc vẫn đen nhánh không một sợi tóc bạc và được chải gọn gàng như ngày anh ta mới bước vào trụ sở FBI sau khi rời học viện. Cứ như thể anh ta đã được đông lạnh để giữ nguyên hiện trạng, nhất là trong một lĩnh vực công việc nguy hiểm và căng thẳng luôn làm con người ta già trước tuổi như thế này. Anh ta đã trở thành một huyền thoại sống trong Cục vì thành tích đã đập tan những đường dây buôn bán ma túy dọc biên giới Texas-Mexico rồi tiếp tục gây ác mộng cho thế giới ngầm ở Bờ biển Tây trong thời kỳ anh ta làm ở Văn phòng Địa bàn Los Angeles của Cục. Anh ta thăng tiến vùn vụt và hiện đang là một trong những nhân vật đứng đầu của Văn phòng Địa bàn Washington, hay thường được biết tới với tên lóng là “WFO”. (Washington Field Office) Anh ta đã kinh qua hầu hết các lĩnh vực hoạt động của Cục nên biết rõ cách thức phối hợp hiệp đồng của các bộ phận.
Bates, thường được gọi thân mật là Perce, vốn là người nói năng nhẹ nhàng, mềm mỏng. Nhưng anh ta vẫn có thể làm một nhân viên dưới quyền nhũn ra như bún bằng ánh mắt khiến người ta có cảm giác mình chỉ là kẻ bỏ đi. Anh ta có thể là đồng minh tốt nhất hoặc kẻ thù tồi tệ nhất mà ta có. Rất có thể đó là số phận không thể khác của một người lớn lên với cái tên Percy ([12]).
Web đã từng là đối tượng phải hứng chịu một vài bài thuyết giáo kinh điển của Bates, đó là thời kỳ anh là nhân viên dưới quyền trực tiếp của anh ta trong Cục. Vô số lần phải nhẫn nhục chịu đựng, vì thực ra để trở thành một đặc vụ xuất sắc như bây giờ, Web cũng đã phạm phải không ít sai lầm. Như bất kỳ người chỉ huy nào khác, Bates cũng có lúc chơi trò vỗ về, cưng chiều cấp dưới, lúc thì chọn ra ngay một con dê tế thần không may nào đó trong trường hợp mọi chuyện trở nên bung bét. Vì thế anh hiểu rằng câu nói này của anh ta không phải là không có ẩn ý. Anh cũng không tin giọng nói nhẹ nhàng, ấm áp đó là một cử chỉ hòa bình và thiện chí thực sự Nhưng cái đêm mà Web bay mất cả một bên mặt trong trận đọ súng khủng khiếp đó, Bates là một trong những người đầu tiên đến bên giường anh nằm, và Web không bao giờ quên điều đó. Không, Percy Bates không phải là một phương trình đơn giản, mà thực ra cũng làm gì có ai đơn giản đâu. Anh và Bates không bao giờ có thể là bạn uống rượu tâm giao. Nhưng anh biết giữa anh và anh ta luôn có sự tôn trọng dành cho nhau.
“Tôi biết là cậu đã báo cáo qua tình hình, nhưng chúng ta vẫn cần có báo cáo đầy đủ của cậu ngay khi có thể.” Bates nói. “Nhưng đừng vội. Cứ bình tĩnh thôi, phải để cậu khỏe lên đã.” Thông điệp đã quá rõ. Những gì xảy ra đã làm tất cả đều suy sụp. Sẽ không có những cơn bùng nổ giận dữ từ phía Bates; ít nhất thì cũng là trong lúc này.
“Chỉ là vài vết xước thôi mà,” Web làu bàu trả lời.
“Họ nói tay cậu bị một vết đạn bắn vào. Khắp người đều thâm tím và trầy xước. Các bác sĩ bảo trông như cậu bị ai đó nện bằng gậy bóng chày vậy.”
“Không có gì,” Web trả lời, và cảm thấy hoàn toàn kiệt sức sau khi nói xong câu đó.
“Cậu vẫn cần phải nghỉ ngơi. Và sau đó chúng ta sẽ lấy báo cáo hoàn chỉnh.” Bates đứng dậy. “Và nếu có thể, tôi biết là rất khó khăn, thì hy vọng cậu sẽ cùng chúng tôi quay lại đó và phân tích chính xác những gì đã diễn ra.”
Và tại sao chỉ mình tôi còn sống? Web gật đầu. “Tôi sẽ sẵn sàng trong thời gian ngắn nhất. “Không cần vội đâu,” Bates nhắc lại. “Chuyện này không hề dễ dàng chút nào. Nhưng dù thế nào cũng phải làm cho xong.” Ông ta vỗ nhẹ lên vai Web và quay về phía cửa.
Web ngọ nguậy, cố gắng gượng ngồi dậy. “Perce?” Trong bóng tối của căn phòng, tất cả những gì Web nhìn thấy là tròng mắt của Bates. Web có cảm giác chúng là hai con súc sắc treo lơ lửng trên không trung.
“Họ chết hết rồi phải không?”
“Tất cả,” Bates xác nhận. “Cậu là người duy nhất còn lại, Web ạ.”
“Tôi đã làm tất cả những gì có thể.”
Cánh cửa mở ra rồi khép lại, và Web chỉ còn lại một mình.
Ngoài hành lang, Bates trao đổi với một nhóm người ăn mặc giống hệt anh ta: complet màu xanh tím than giản dị, sơ mi trắng, cà vạt tối màu, giày đen đế mềm và súng ngắn cỡ nòng lớn đeo trong những bao da cài sát nách.
“Đây sẽ là một cơn ác mộng nếu báo chí đánh hơi thấy vụ này, các ông biết đấy,” một người trong bọn nói. “Mà thực ra thì họ biết cả rồi.”
Bates thảy một viên kẹo cao su vào miệng thay thế cho một điếu Winston mà anh ta đã quyết tâm bỏ đến lần thứ năm rồi. “Những đòi hỏi của bọn nhà báo lắm chuyện chưa bao giờ có vị trí cao trong danh sách ưu tiên của tôi đâu,” ông ta càu nhàu.
“Anh vẫn phải thông báo tình hình cho họ, Perce ạ. Nếu không họ nghiễm nhiên cho rằng kết cục tồi tệ nhất đã xảy ra, và sẽ tha hồ bịa ra mọi chuyện. Ngay lúc này trên Internet đã có nhiều thông tin mà anh không thể tin nổi đâu, nào là vụ thảm sát này có liên quan đến sự trở lại khải huyền của Chúa Giêsu, nào là có dính dáng đến một âm mưu làm ăn của Tam Hoàng người Hoa. Ý tôi là họ lấy những thông tin cặn bã này ở đâu ra chứ? Báo chí cứ bịa chuyện tùm lum thế này là bung bét hết.”
“Tôi không thể tin nổi là có kẻ nào dám cả gan làm chuyện này với chúng ta,” một người tóc hoa râm và béo ị than thở. Bates biết tay đặc vụ này chẳng biết quái gì ngoài cái bàn làm việc sang trọng của mình suốt chục năm qua, nhưng lúc nào ông ta cũng cố thể hiện như mình xông xáo lắm. “Không thể là bọn Columbia, hay bọn Nga, mà cả bọn Tàu cũng không thể nào có gan chơi chúng ta một vố đau thế này.”
Bates liếc xéo vào mặt ông ta, “Nhớ là ở đây chỉ có 'chúng ta' chống lại 'chúng', hiểu chứ? Chính chúng ta lúc nào chẳng muốn đập chúng tơi tả. Thế ông nghĩ chúng không muốn chơi lại sao?” “Nhưng lạy Chúa tôi, Perce. Chúng đã giết sạch cả một đội tinh nhuệ nhất của ta. Ngay trên sân nhà của chúng ta!” Lão béo the thé rít lên phẫn nộ. Perce khinh khỉnh ném cho lão một cái nhìn bằng nửa con mắt; như đang nhìn một con voi già không có ngà sắp gục xuống và trở thành mồi ngon cho những con thú ăn thịt của rừng già. “Tôi không nghĩ chúng ta kiểm soát được khu vực đó của D.C.([13])” Bates nói.
Đã hai hôm nay anh ta không hề chợp mắt nên mỗi lúc một cáu kỉnh. “Thực ra tôi có cảm giác đó là sân nhà của chúng thì đúng hơn, và chúng ta chỉ là đội khách.”
“Anh biết ý tôi là gì mà. Làm sao lại có một cuộc tấn công dã man đến thế chứ?”
“Mẹ kiếp, tôi đếch biết, có thể vì chúng ta đã hơi quá tay trong việc chặn đứng hoạt động vận chuyển ma túy trị giá hàng tỷ đô la mỗi ngày của chúng khiến chúng không chịu nổi nữa, đồ ngu ạ.” Bates bắt đầu nổi nóng, anh ta vừa nói vừa sấn sổ dồn lão béo vào góc, nhưng rồi kiềm chế được và quyết định rằng lão ta quá vô hại, chẳng đáng để bị đình chỉ công tác vì chuyện vớ vẩn này.
“Anh ta thế nào rồi?” người khác hỏi. Đó là một người tóc vàng hoe, mũi đỏ như quả cà chua vì bị cúm.
Bates dựa hẳn vào tường, lạnh lùng nhai kẹo và nhún vai. “Tôi ngại những chấn động tâm lý mà anh ta phải chịu đựng hơn bất kỳ điều gì khác Nhưng thực ra cũng dễ hiểu thôi.”
“Một anh chàng may mắn, đó là tất cả những gì tôi có thể nói.” Mũi Đỏ nhận xét. “Ai cũng phải băn khoăn là tại sao anh ta sống sót được.”
Chỉ mất đúng một giây Bates đã nhảy xổ đến trước mặt người kia. Đêm nay thì không có chuyện anh ta sẽ nương tay gì hết. “Ông dám gọi việc phải chứng kiến sáu đồng đội bị băm nát trước mặt mình là may mắn à? Ông định nói thế phải không, đồ chó đẻ khốn kiếp kia?”
“Thôi nào, tôi có ý đó đâu, Perce. Anh biết là tôi không có ý đó mà.” Mũi Đỏ vừa nói vừa cố ho khù khụ, như để cho Bates thấy rằng ông ta đang rất ốm nên không muốn đánh nhau.
Bates buông cổ áo Mũi Đỏ và bước lùi hẳn ra xa, không che giấu vẻ kinh tởm với tất cả mọi người. “Ngay lúc này tôi đếch biết gì hết. Không. Tôi xin nói lại. Tôi chỉ biết là một mình Web đã tiêu diệt cả tám ụ súng máy, cứu mạng cả một đội khác cũng như một thằng bé ở khu ổ chuột nữa. Đó là tất cả những gì tôi biết.”
“Báo cáo ban đầu nói là Web đã bị tê cứng người.” Nhận xét này đến từ một người vừa mới bước lại góp chuyện, và rõ ràng ông ta là người có chức vụ cao hơn. Hai quý ông mặt lạnh như tiền đứng ngay đằng sau người mới đến. “Mà thực ra thì Perce ạ, tất cả những gì chúng ta biết đều là do Web báo cáo,” ông ta nói. Rõ ràng người này là cấp trên của Percy Bates, nhưng có thể thấy là Bates chỉ muốn nhảy lên vặn cổ ông ta, dù không dám .
Ông ta tiếp tục, “London còn rất nhiều việc phải giải trình đấy. Và chúng ta sẽ phải tiến hành cuộc điều tra này với những con mắt mở thật to, to hơn nhiều so với đêm qua. Đêm qua là một nỗi nhục nhã. Đêm qua sẽ không bao giờ, không bao giờ được phép lặp lại. Chừng nào tôi còn ở đây”. Ông ta gườm gườm nhìn Bates rồi buông một câu châm biếm nặng như búa tạ, “Bảo London là tôi gửi lời hỏi thăm.” Nói xong câu đó, Buck Winters, người đứng đầu Văn Phòng Địa bàn Washington của FBI quay người cút thẳng, hai tay tùy tùng lật đật bước theo ông ta như hai con rối.
Bates căm phẫn nhìn theo bóng ông ta. Buck Winters từng là một trong những người chỉ đạo chính tại hiện trường vụ Waco ([14]) Và theo quan điểm của Bates thì chính ông ta đã góp phần gây ra một trong vụ thảm sát tồi tệ nhất ở nước Mỹ bằng cung cách chỉ huy ngu xuẩn của mình. Thế mà, chẳng hiểu sao Winters vẫn thăng tiến vùn vụt nhờ sự bất tài của mình và hiện đang là người đứng đầu WFO. Có lẽ Cục không muốn thừa nhận là mình đã sai lầm và thực sự tin rằng việc thăng chức cho một trong những người chỉ huy vụ Waco là thông điệp mạnh mẽ cho thế giới rằng Cục tự cho mình vô can trong thảm họa nói trên. Tổng kết lại thì có vô số cái đầu đã rụng vì sự điên khùng của David Koresh trên một ngọn đồi ở Waco, Texas, nhưng đầu của Buck Winters vẫn còn nguyên trên cổ. Đối với Bates thì Buck Winters là hiện thân cho tất cả những gì là mặt trái của FBI.
Bates dựa lưng vào tường, khoanh tay trước ngực và nhai ngấu nghiến chiếc kẹo cao su Wrigley trong miệng đến khi mỏi nhừ cả hàm răng. Anh tin chắc lúc này lão Buck già khọm sẽ đi tâu hết với giám đốc FBI, với Bộ trưởng Tư pháp, và có khi là cả với Tổng thống cũng nên. Hừm, mặc xác lão, càng đỡ vướng đường của Percy Bates.
Đám người còn lại cũng lục tục tan dần, chỉ còn lại Bates và người nhân viên mặc sắc phục đúng gác ngoài cửa. Cuối cùng Bates cũng bỏ đi tay đút túi quần, ánh mắt mông lung, vô định. Trên đường ra khỏi bệnh viện, anh thổi phù chiếc bã kẹo cao su vào thùng rác. “Lũ khốn kiếp ngu ngốc” anh làu bàu. “Khốn kiếp và ngu ngốc.”
--- -----
[9] Vận động viên bóng dầu dục nổi tiếng của Mỹ.
[10] National Football League: Giải bóng bầu dục nhà nghề Mỹ.
[11] Trận đấu giữa các đội thuộc Giải nhà nghề và giải nghiệp dư.
[12] “Perce” trong tiếng Anh cũng gần giống “Pierce” có nghĩa là “xoi mói, xuyên thấu.”
[13] District of Columbia: Tức là thành phố Washington, thủ đô của Mỹ.
[14] Năm 1993, tại một nhà thờ nhỏ ở Waco, Texas, David Koresh,người đứng đầu một giáo phái hoạt động bất hợp pháp - Branch Davidians - đã kích động tín đồ nổ súng chống lại lực lượng FBI đến điều tra những hoạt động buôn bán vũ khí trái phép của giáo phái này, làm hơn 80 tín đồ và bốn nhân viên FBI thiệt mạng.
Top Truyện Hot Nhất
Truyện hot hiện nay
Bình luận
Sắp xếp