Tarzan 3: Luật Của Rừng Già
Chương 16: Trong hang cá sấu
Chỉ vài chục giây sau, Tácdăng bắt đầu thấy tức ngực. Thiếu không khí, chàng không thể phản ứng được mà chống trả lại sức mạnh của cá sấu. Chàng cuốn mình áp sát con vật. Nó đang cố gắng kéo chàng về hang. Chàng quyết định xả một nhát dao găm vào bụng nó. Nhưng nhát dao đâm dưới nước vấp vào lớp vẩy cứng chỉ làm cho con cá sấu tăng nhanh tốc độ. Đột nhiên chàng cảm thấy con vật bơi vọt lên cao. Mặt chàng nhô lên khỏi mặt nước rồi cả cơ thể chàng bị vứt lên bãi bùn lỏng ven bờ.
Xung quanh chàng bóng đêm đen đặc, yên tĩnh như một ngôi mộ. Chàng thở dốc, lấy hơi. Bùn ven sông bốc một mùi hôi sặc sụa. Chàng quờ tay sờ soạng và chạm phải lớp vẩy cứng lạnh lẽo của con cá sấu. Cái đuôi cá sấu đập vài nhát xuống mặt bùn rồi duỗi dài, thẳng cứng. Tácdăng lùi lại một bước rồi cúi xuống, thận trọng quan sát. Hóa ra con cá đã chết. Nhát dao của chàng tuy bị nước cản lại vẫn xuyên thủng lớp da dày, chọc đúng vào vùng tim con cá sấu.
Tácdăng đứng thẳng dậy, chệnh choạng bước trên lớp bùn sình lầy. Sờ soạng một lát chàng mới biết rằng mình đang đứng trong một chiếc hầm sâu. Chiếc hầm vừa sâu vừa rộng, đủ chỗ cho hàng chục con thú khát máu mà chàng vừa hạ sát. Hóa ra chiếc hang cá sấu này còn cách bờ sông khá xa. Xung quanh chàng vẫn có tiếng bùn lỏng bị khua động sột sệt. Chắc chắn đó là tiếng bước chân cá sấu đang đánh hơi chàng.
Cần phải thoát ra khỏi chiếc hang này càng nhanh càng tốt! Nhưng thoát ra bằng đường nào? Chiếc hang có rất nhiều lối ra. Lối nào là an toàn nhất? Đi lối nào để không chạm phải những ông chủ ít lời mà quá đỗi mến khách của vùng sình lầy này? Ngay cả trong trường hợp gặp may nhất, bơi được ra giữa lòng sông, chàng vẫn có thể bị cá sấu tấn công lần nữa. Nhưng mà thôi, đây không phải lúc có đủ thời gian cho sự tính toán lôi thôi!
Hít một hơi dài, lấy thêm không khí dự trữ, Tácdăng lặn sâu xuống đáy hang, tìm một cửa hang thoát ra ngoài. Bắp chân bị cá sấu đớp đã cầm máu và bị sưng to, rất may là ống xương chân vẫn chưa bị gãy. Các cơ bắp của Tácdăng có phần yếu đi, khiến chàng vận động một cách khó nhọc. Vết thương ở bắp chân cắn rứt đau đớn. Nhưng ở những người bình thường, cái đau đớn ấy là quá sức chịu đựng còn đối với Tácdăng thì gần như chàng không thèm để ý tới nó. Từ thời thơ ấu, quen với sự cắn xé ẩu đả trong đàn vượn và trải qua bao trận huyết chiến với đủ loại kẻ thù hai chân và bốn chân, Tácdăng gần như đã chai lỳ trước sự đổ máu và nỗi đau đớn trên cơ thể mình.
Tácdăng đạp mạnh mặt bùn, tăng nhanh tốc độ. Đường hầm cá sấu khá dài chứ không như chàng dự đoán. Chàng phải ngoi lên mặt nước lấy không khí hai lần mới đủ sức lặn dưới tầng nước săn mồi của cá sấu. Ra tới chính giữa đáy sông, chàng ngoi lên khỏi mặt nước. Nhưng vừa vuốt nước trên mặt để mở mắt chàng đã trông thấy hai cái đầu cá sấu đang lao thẳng đến phía chàng. Không đủ thời gian nghỉ ngơi, chàng lại xoải rộng hai cánh tay bơi sang bờ sông đối diện. Tới gần bờ, chàng nhún chân nhảy vọt lên khỏi mặt nước, hai tay túm chặt lấy cành cây ngả trên mặt sông, cú nhảy rất kịp thời! Vừa co mình lên cành cây, chàng đã thấy cái đầu cá sấu xuất hiện ngay dưới lưng mình. Con cá sấu lao vọt lên cao, ngoác mõm đớp chàng. Nhưng nó đớp hụt vào không khí.
Tácdăng ôm cành cây, nghỉ ngơi lấy sức. Đôi cá sấu vẫn lồng lộn phía dưới, khua đục ngầu cả một vũng sông. Biết chắc chắn là chúng không thể làm gì được mình, Tácdăng không thèm để ý đên chúng nữa. Chàng lướt mắt quan sát mặt sông. Trên sông không còn bóng dáng con thuyền độc mộc và gã người Nga đâu nữa.
Lần bước vào bờ, Tácdăng kiếm lá rừng băng bó vết thương rồi lại tiếp tục tìm kiếm dấu vết Rôcốp. Chàng biết rằng trước khi mình bị cá sấu tấn công, Rôcốp chèo thuyền ở phía bờ sông bên kia. Nếu như hắn bơi chính giữa dòng sông hoặc tiếp tục bơi vào bờ ở phía bên ấy thì giữa vùng sông rậm rạp cây cối và lau sậy thế này, Tácdăng khó lòng phát hiện ra hắn. Điều đáng buồn cho chàng lúc này là vết thương ở chân. Hóa ra chân chàng bị thương khá nặng chứ không như chàng nghĩ lúc đầu. Xung quanh vết răng cá sấu máu đã tụ lại làm bắp chân chàng sưng cứng. Bước đi của chàng mội lúc môt thêm nặng nề, khó khăn. Chàng phải nghiến chặt răng mà tiến lên phía trước. Ngay cả ở những quãng rừng dày rậm rạp, chàng cũng không nhảy lên chuyền qua những cành cây. Bởi vì với bắp chân đau như thế, việc đi trên ngọn cây là quá phiêu lưu, nguy hiểm.
Dọc đường, Tácdăng nhớ tới câu chuyện mà bà Tambuda - người vợ cả của thủ lĩnh Ganoada đã kể cho chàng nghe. Bà nói rằng đứa trẻ đã chết, còn người phụ nữ da trắng tội nghiệp nọ thì suốt ngày buồn bã, héo hon vì nghĩ tới người chồng đã chết. Trong khi trò chuyện với bà, người phụ nữ da trắng đó lại nói rằng đứa trẻ bị ốm chết đó không phải là con đẻ của mình. Tácdăng không hiểu vì sao Potơrova lại nói như vậy với bà Tambuda. Vì sao nàng lại phủ nhận đứa con rứt ruột của mình? Thật tội nghiệp cho thằng Giếch bé bỏng của chàng! Hay người đàn bà da trắng mà Anđecxen dẫn chạy trốn trong rừng không phải là Potơrova vợ chàng?... Cứ miên man suy đoán như vậy, Tácdăng lại đi đến một giả thiết ngập ngừng, đầy mâu thuẫn: Con trai chàng đã chết và Potơrova vẫn còn sống bình an ở Luân Đôn.
Thong thả bước về phía bờ sông Ugam, đứa con vĩ đại của rừng xanh Phi Châu cứ nghĩ mãi về những tội ác mà Rôcốp đổ xuống vợ con mình. Càng nhớ tới khuôn mặt Rôcốp, vết sẹo trên trán Tácdăng càng ửng đỏ rồi chuyển màu tím thẫm. Sự căm giận khiến Tácdăng đột nhiên đứng sững giữa đường. Từ lồng ngực căng phồng của chàng cuồn cuộn bốc lên một tiếng thét vang động núi rừng - tiếng thét man dại của một con mãnh thú trong cơn giận dữ. Bằng mọi giá phải tóm được Nicôlai Rôcốp.
Tácdăng không ngờ tiếng thét của mình lại vang xa đến thế. Gần như tất cả những đôi tai của núi rừng Ugam đều nhận được tín hiệu của sự đe dọa. Từ một con sóc nhỏ tới những loài hổ báo đều cảnh giác đề phòng cái kẻ đã phát ra tiếng thét. Trong tâm trạng giận dữ, đã mấy lần Tácdăng định gây sự với những thổ dân dọc đường. Nhưng vừa trông thấy bóng chàng họ đã cắm cổ chạy biến dạng vào rừng sâu. Thật ra, lúc đầu họ đã có ý định tấn công chàng - một tên da trắng khập khiễng, lủi thủi một mình. Nhưng từ khi nghe thấy tiếng thét của chàng, họ buộc phải dẹp bỏ cái ý định thù địch ấy và tìm cách lánh xa khỏi tầm mắt của chàng.
Mặc dù Tácdăng cảm thấy mình bước đi quá chậm, tới lúc mặt trời lặn chàng cũng đi tới nhánh sông gần cửa biển. Tốc độ của chàng tương đương với tốc độ của Rôcốp trên thuyền độc mộc. Bóng tối mỗi lúc một đậm đặc, xóa nhòa mọi ranh giới giữa núi rừng, sông biển. Tácdăng không thể nhìn rõ mọi vật từ xa. Tuy vậy chàng vẫn kiên nhẫn tìm kiếm dấu vết của Rôcốp và người đàn bà da trắng trẻ tuổi. Chàng hoàn toàn không biết rằng con tàu Kinxay đang thả neo cách đó chẳng bao xa, vì trên tàu không hề le lói một chút ánh sáng.
Trong lúc đang lom khom tìm kiếm các dấu vết trên dọc bờ sông, Tácdăng chợt nghe thấy có tiếng động róc rách, giống như tiếng mái chèo khuấy nước từ phía bờ sông đối diện. Chàng dừng chân lắng nghe. Tiếng động nhỏ dần rồi tắt hẳn. Sau đó lại có một tiếng động khô khan như tiếng thân người cọ vào chiếc thang dây của con tàu nào. Thật kỳ lạ! Xung quanh đây chẳng có một con tàu nào. Tácdăng đứng im phăng phắc, lòng đầy phân vân, cố gắng nhìn thật sâu vào bóng tối trên mặt sông. Đột nhiên lại có tiếng gì đó vang lên, nghe như có ai đó bị tát vào mặt. Kế đó là một loạt tiếng súng nổ và tiếng kêu thét của phụ nữ.
Mặc dù đang bị thương sau trận đụng độ với cá sấu, Tácdăng vẫn không hề băn khoăn do dự. Chàng chạy xuyên qua mấy bụi cây và nhảy bổ xuống sông. Chàng bơi trong bóng tối, hướng về phía có tiếng súng nổ, bất chấp sự đe dọa của các công dân bò sát vùng đầm lầy.
Chuyện gì vừa xảy ra trên sông?
Đó là cuộc đụng độ giữa Potơrova trên tàu Kinxây và đội thủy thủ đang trở về tàu.
Chiếc thuyền chở đội thủy thủ trở lại tàu Kinxây đều lọt vào tầm mắt quan sát của cả ba người: Potơrova, Rôcốp và chàng da đen Mugambi. Trông thấy chiếc thuyền của đội thủy thủ, Rôcốp lên tiếng kêu cứu. Chiếc thuyền ghé lại chỗ Rôcốp rồi lập tức xông tới tàu Kinxây. Nhưng chiếc thuyền vừa bơi tới gần con tàu thì Potơrova nổ súng tấn công. Một thủy thủ đang ngồi ở đầu thuyền bị trúng đạn, ngã nhào xuống nước. Chiếc thuyền buộc phải bơi chậm lại. Từ tàu Kinxây, tiếng súng vẫn vang lên. Khi thủy thủ thứ hai bị trúng đạn, chiếc thuyền quay mũi, hướng vào bờ. Đội thủy thủ phải nằm lại trên bờ cho tới tận chiều tối.
Đàn thú của Tácdăng lúc đó đã tập hợp đông đủ ở bờ sông đối diện, dưới quyền chỉ huy, dẫn dắt của Mugambi. Anh là người duy nhất có khả năng phân biệt kẻ thủ. Trông thấy tàu Kinxây, anh chỉ mong kiếm được một chiếc thuyền nào đó để chở đàn thú lên tàu. Nếu lên được tàu, đàn thú và anh có thể nhanh chóng thanh toán kẻ thù, trả món nợ máu cho ông chủ Tácdăng tốt bụng. Nhưng tiếc rằng anh và đàn thú không kiếm được thuyền. Từ chỗ anh đứng tới con tàu là một khoảng cách rất xa, ngăn cách bởi nhiều dòng nước chảy xiết và nhiều doi cát phù sa.
Sau bao ngày gắn bó với Tácdăng, Mugambi đã dần dần hiểu được lý do vì sao Tácdăng bị ném lên hoang đảo. Anh cũng đoán được lý do vì sao Tácdăng lại đuổi theo kẻ thù dọc bờ sông Ugam. Anh biết rằng kẻ thù mà ông chủ mình đang lần theo dấu vết chính là kẻ đã bắt cóc vợ con ông chủ. Trong thâm tâm, anh vẫn thắc thỏm một nỗi lo buồn: Biết đâu, từ lúc Tácdăng lao đi tìm vợ con, bỏ anh và đàn thú lại phía sau, có chuyện không lành đã xảy ra với Tácdăng. Biết đâu cái người mà anh cảm thấy tin yêu, kính trọng và hết lòng phụng sự lâu nay đã bị gã đàn ông da trắng có cái tên là Rôcốp giết chết. Từ bé tới giờ, trong bộ lạc của anh, anh chưa thấy có người nào đáng kính phục như Tácdăng. Bằng mọi giá anh phải trả thù cho cái chết của Tácdăng! Từ tấm lòng trung thực và con tim hoang dã của Mugambi bốc lên ngọn lửa của khát vọng báo thù.
Khi trông thấy Rôcốp cưỡi thuyền độc mộc hướng thắng tới con tàu, Mugambi biết rằng nếu anh không kiếm được thuyền thì chỉ trở thành một người chứng kiến thừa thãi và vô nghĩa. Chỉ vài giây băn khoăn do dự, trước khi Potơrova đặt tay vào cò súng, Mugambi cùng đàn thú quay đầu, chạy biến trở lại rừng sâu.
° ° °
Thấy hai người của mình bị trúng đạn, Rôcốp, Páplôvích và các thủy thủ còn lại của tàu Kinxây vô cùng tức tối. Nhưng càng uất ức, chúng càng cảm thấy bất lực. Chẳng còn cách nào khác là nhanh chóng thoát khỏi tầm đạn của cô gái trên tàu. Rôcốp quyết định cho thuyền lùi vào bờ, bàn mưu tính kế.
Khi thấy chiếc thuyền chở Rôcốp rút lui, Potơrova dừng tay súng. Biết rằng sức mình không thể cầm cự, chiếm giữ con tàu được quá lâu, cô quyết định phải tìm được một giải pháp tối ưu, mở đường cho cuộc hành trình trở về cuộc sống tự do. Cô bước tới buồng giam hai thủy thủ say rượu và lên tiếng bàn bạc. Trước lời đe dọa trừng phạt của cô gái, hai thủy thủ bị giam giữ buộc phải nhận lời thực hiện mọi ý định của cô. Cửa buồng ngủ bật mở, hai thủy thủ leo lên boong tàu với hai bàn tay không. Potơrova vẫn đặt tay vào cò súng, sẵn sàng nhả đạn. Cô luôn luôn giữ một khoảng cách an toàn nhất định, đủ để phản ứng kịp thời trước bất kỳ một biểu hiện chống đối nào đó của hai gã thủy thủ. Sau khi bắt hai người tự chứng minh rằng không giấu vũ khí trong quần áo, Potơrova ra lệnh cho họ nhổ neo.
Cô sẽ cho tàu ra biển. Cuộc phiêu lưu sắp tới trên đại dương có thể kết thúc một cách bi đát. Nhưng chẳng thà cô làm mồi cho cá còn hơn là phải sống với Nicôlai Rôcốp và đồng bọn của hắn. Nhưng đó chỉ là một giả thiết xấu nhất mà cô đặt ra để tăng thêm quyết tâm hành động. Trước mắt, cô vẫn hy vọng là dọc đường hành trình trở lại thế giới văn minh, tàu Kinxây sẽ gặp một con tàu viễn dương nào đó. Cô sẽ gặp những người tử tế, giúp cô trở lại Luân Đôn. Theo lời của hai thủy thủ, tàu Kinxây hiện đang có rất nhiều nhiên liệu, thực phẩm và nước ngọt. Mà bão biển thì vừa mới tan. Vì vậy Potơrova tin rằng mình sẽ đi tới đích.
Còn lúc này, bóng đêm đang là người bạn tốt của cô. Từ bờ sông, kẻ thù của cô không nhìn thấy chuyện gì đang xảy ra trên boong tàu. Thậm chí bọn chúng cũng không biết rằng con tàu đã nhổ neo, theo dòng nước lặng lẽ xuôi ra phía biển. Trước khi trời sáng, thủy triều có thể đưa con tàu vào dòng Bengơ, hướng về phương Bắc, dọc theo bờ biển châu Phi. Còn khi gió bắc bắt đầu nổi lên thì chắc là con tàu đã rời khỏi dòng sông Ugam trước lúc Rôcốp phát hiện ra mọi chuyện.
Hai thủy thủ vẫn lúi húi dưới hầm tàu. Đứng trên boong Potơrova thở phào nhẹ nhõm. Khi chiếc mỏ neo từ từ nhô lên khỏi mặt nước thì con tàu cũng thong thả cựa mình, khẽ tròng trành trên dòng sông. Potơrova cầm súng bước tới hai thủy thủ. Cô định nhốt họ trở lại buồng ngủ. Nhưng hai gã đàn ông liền lên tiếng kêu ca, than vãn. Họ cùng chỉ tay lên trời thề thốt rằng sẽ tận tụy giúp đỡ cô và trung thành với cô. Họ nói rằng họ rất nhớ nhà, rất ghét Rôcốp cho nên họ chẳng dại gì mà gây chuyện phản trắc với cô. Trước những lời van xin, thề thốt, Potơrova thấy cũng mềm lòng. Cô quyết định để họ được tự do đi lại trên tàu.
Thoạt đầu, tàu Kin xây trôi rất nhanh theo dòng nước. Rồi đột nhiên con tàu đứng sững lại. Đồ dùng, máy móc trên tàu rung lên loảng xoảng. Con tàu đã bị vấp phải bãi cát ngầm cách cửa sông đổ ra biển chưa đầy một phần tư dặm. Nó dừng lại một lát rồi từ từ quay mũi trở lại vị trí cũ.
Trong bóng tối, ở chỗ tàu Kinxây thả neo vang lên mấy phát súng. Ngay sau đó lại có tiếng kêu của phụ nữ. Tiếng kêu rất to, lạc cả giọng, chứng tỏ rằng người phụ nữ đó vô cùng sợ hãi. Nghe tiếng súng nổ, hai gã thủy thủ trên tàu biết ngay là Rôcốp đang ở gần mình. Họ liền bàn tính tìm cách bắt sống người đàn bà trẻ đang khống chế mình. Tình thế lúc này đang khá thuận lợi. Bởi vì nghe thấy tiếng súng, Potơrova đang băn khoăn, phán đoán nguyên nhân. Cô không để ý tới hai gã thủy thủ đồng hành của mình nữa. Lẽ ra cô phải bám sát hai gã, không được phép rời mắt khỏi chúng. Thay vào đó, cô lại chạy tới phía đầu tàu, nghe ngóng xem tiếng súng nổ từ hướng nào. Hai gã thủy thủ liền bám sát theo cô. Trong bóng tối, chúng rón rén tiến tới đầu tàu, nhẹ nhàng như hai con cáo.
Đứng trên mũi tàu nghe ngóng một lát, Potơrova chưa hiểu có chuyện gì xảy ra thì đã nghe tiếng chân người bước rất nhẹ phía sau lưng. Linh tính báo cho cô biết rằng cô đang bị đe dọa. Nhưng khi nhận ra điều đó thì mọi sự đã quá muộn. Cô quay đầu lại đúng lúc hai kẻ phản bội xông tới. Trong bóng tối, cô không chỉ trông thấy hai gã thủy thủ nhảy bổ vào mình mà còn có một người đàn ông thứ ba nữa. Trước khi bị ngã xuống sàn tàu, hình ảnh còn lưu lại trong mắt cô là bóng dáng người đàn ông thứ ba đang leo qua lan can, bước vào boong tàu. Cô cố gắng giãy dụa, hy vọng thoát khỏi hai gã thủy thủ, nhưng mọi cố gắng của cô đã trở nên vô nghĩa.
Truyện hot hiện nay
Bình luận
Sắp xếp