Si Mê Và Liều Lĩnh

Chương 8


Chương trước Chương tiếp

York

Đêm hôm ấy

Hồi nhỏ, Lisle đã có lần quan sát xe ngựa chở thư khởi hành vào lúc hoàng hôn từ quán trọ York ở quảng trường Thánh Helen.

Chàng ngờ là hôm nay Olivia không thấy được nó. Nàng và mấy bà phù thủy có thể tới kịp lúc, nhưng họ sẽ chỉ đi tới nhà trọ George ở Coney Street. Đó là một nhà trọ cũ rất rộng, bên ngoài trát vữa và có những đầu hồi kỳ quặc, được chạm khắc những hình nhân lạ lùng, xây dựng vào thế kỷ mười sáu.

Khi Lisle tới nơi thì màn đêm đã buông và xe ngựa của Bưu điện Hoàng gia đã đi từ lâu. Hôm nay chàng phải phi hơn một trăm dặm. Chàng phi cật lực, cố không nghĩ đến chuyện tối qua, và ít dừng lại nghỉ ngơi cũng vì lý do đó. Lúc này cảm thấy mệt và đói lả, không nghĩ được gì nữa, nhưng chàng có một cảm nhận, và nó sẽ không chịu yên tĩnh ở sâu trong tâm trí chàng.

Chàng nặng nề lê bước lên cầu thang rồi đi dọc hành lang. Chàng như nghe thấy những tiếng bước chân vội vã, nhưng tất cả chỉ là một nhận thức mơ hồ.

Olivia rẽ ở góc hành lang đột ngột và bất ngờ tới nỗi chàng chẳng kịp dừng bước, và thế là nàng đâm sầm vào chàng. Cú va chạm làm chàng chao đảo, nhưng cánh tay vẫn nhanh nhẹn dang ra vòng quanh người để giữ nàng khỏi ngã.

“Ta biết em sẽ nhớ ta mà,” chàng nói.

Đó không phải là lời khôn ngoan nhất nên thốt ra, và dựa vào những gì xảy ra đêm qua thì không để cho nàng đi ngang qua cũng chẳng phải việc khôn ngoan nhất nên làm. Nhưng trước khi là một chàng trai khôn ngoan, chàng đơn giản là một người đàn ông, và phải làm cái việc mà đàn ông làm khi một thiếu nữ đẹp như tranh ngã vào cánh tay anh ta.

Nàng mặc trên người hàng trăm dặm vải lụa nặng trịch với bao nhiêu diềm xếp và đăng ten - và ít nhất cũng phải có sáu dặm vải ở hai cánh tay áo căng phồng vĩ đại. Nàng mặc rất kín đáo, đúng thế, chỉ trừ nơi đáng lý phải che đậy nhất: bờ vai rộng trắng ngần và bộ ngực phơi bày lộng lẫy. Nàng thật ấm áp, đầy đặn và mềm mại, và trong một khoảnh khắc thẫn thờ, chàng không nhớ ra tại sao mình lại bỏ nàng ra đi.

Nàng nhìn vào mắt chàng, đôi mắt xanh biếc sâu thẳm như hớp lấy hồn chàng. “Em nhớ ngài phát điên,” nàng nói, giọng như nghẹn lại. “Một giờ trôi qua như cả thiên niên kỷ ấy. Làm sao em chịu được sự chia cách giữa chúng ta, em không biết nữa, nhưng điều đó rút cạn sức lực của em.”

Nàng buông thõng người. Chàng đủ mệt và hương thơm thiếu nữ ngào ngạt trong cánh tay chàng khiến chàng đủ điên rồ để tin, trong đúng ba giây, rằng nàng đã ngất xỉu.

Rồi chàng sực nhớ ra đó là Olivia.

“Ta đã phi ngựa từ tinh mơ tới giờ,” chàng nói. “Cánh tay ta đang mỏi lắm, và vì nhiều lý do khác nữa, ta có thể làm rơi em mất thôi, sắp rơi.”

Nàng đứng thẳng dậy, khẽ xô chàng ra.

Chàng thả nàng rồi bước đi hai bước. “Là ta không biết,” chàng nói, “hay em giờ đây không còn mặc đồ nghiêm chỉnh như trước nữa.”

“Đây là váy ăn tối,” nàng nói.

“Nhưng em có đang dùng bữa tối đâu,” chàng nói.

“Em chạy cuống cuồng quanh nhà trọ công cộng.”

“Bởi vì họ trốn thoát rồi,” nàng nói. “Các quý bà ấy. Nhân khi em không để mắt, họ đã bỏ trốn mất.”

“Xét trên chặng đường dằng dặc như tra tấn mà họ phải chịu đựng hôm nay thì ta chẳng thấy có gì phải ngạc nhiên,” chàng nói. “Thật tình, Olivia, em biết đồ cổ cần được đối xử nhẹ nhàng cơ mà.”

“Họ không phải đồ cổ!” nàng nói. “Họ là hai phụ nữ tinh quái, những người gần như chưa hề già, và đêm nay họ đã ra ngoài đi chơi.” Nàng khoát tay, giống hệt như trong giấc mơ đêm qua của chàng, khiến da thịt mềm mại rung rinh một cách vô cùng quyến rũ.

Chàng cố đưa mắt đi chỗ khác nhưng lại quá mệt, và sức chịu đựng của chàng không làm nổi chuyện đó.

“Họ cắm đầu cắm cổ đi thăm Nhà thờ lớn,” nàng nói, “bởi vì từ sau vụ cháy tới giờ họ chưa tới đó, họ muốn nhìn thấy cái hầm mộ.”

Lisle cố lôi tâm trí khỏi ý nghĩ về làn da thịt mê ly. Chàng nhớ hai năm trước một gã điên đã phóng hỏa đốt Nhà thờ York. Vụ đổ nát đã làm phát lộ một khu hầm mộ lớn ở dưới chỗ ngồi của ca đoàn.

“Họ muốn bò quanh lòng đất của một nhà thờ đã cháy rụi,” chàng nói. “Vào ban đêm. Ngay cả với trình độ của em, đó vẫn là một hành động điên rồ.”

“Không phải là bò quanh,” nàng nói. “Không giống như ngài với những lăng tẩm của ngài đâu. Họ chỉ muốn thử cảm giác sợ điếng người thôi. Thăm một phế tích do hỏa hoạn trong đêm gây ra quả là hấp dẫn không cưỡng nổi. Mà đường lại tiện... Chỉ cách đây mấy phút đi bộ thôi. Lẽ ra họ phải về từ lâu rồi mới phải.”

“Ta sẽ đi đưa họ về,” chàng nói. Quỷ tha ma bắt hai cụ đi. Chàng đang đói lả. Chàng sắp díp mắt vì thiếu ngủ thế mà giờ lại phải ra ngoài đường để đi tìm hai bà già mất trí.

“Em sẽ đi,” nàng nói. “Em phải chăm sóc họ, đây là lỗi của em, vì đã để họ lừa mình. Tắm ra trò và chợp mắt một chút, đó là tất cả những gì ta muốn,’” nàng bắt chước giọng của Quý bà Cooper. “Hai bà bịp bợm ranh ma. Họ biết đó là những gì em muốn. Đáng lẽ em phải nhận ra. Họ đã ngủ tít thò lò tới tận bữa sáng. Rồi trưa lại ngủ tiếp. Họ đã nghỉ ngơi đầy đủ và tràn đầy sinh lực. Lẽ ra em phải nhận ra họ sẽ bày trò gì đó, tại em hết. Em sẽ mang theo hai người hầu đi đưa họ về.”

“Em không được đi tới nhà thờ đổ nát ấy vào lúc nửa đêm mà không có ta,” chàng nói. “Ta đã quen lần mò trong các hầm mộ và đền đài giữa đêm. Em thì không.”

“Ngài cần tắm,” nàng nói. “Ngài bốc mùi kinh quá.”

“Ta muốn tắm qua một chút,” chàng nói. “Ta muốn ăn một chút. Ta nên ngủ một giấc thật đẫy. Nhưng ta không thể làm những việc đó trong khi bộ đôi ấy đang lang thang ngoài kia.”

“Em hoàn toàn có thể...”

“Ta biết, ta biết,” chàng nói. “Chúng ta sẽ đi cùng nhau... nhưng em phải thay quần áo phù hợp.”

“Đâu có thời gian chứ!”

“Nếu họ chết rồi, thì khi chúng ta tới đó họ vẫn chết rồi,” chàng nói. “Nếu họ chỉ đang gặp rắc rối...”

“Chỉ!”

hoặc vừa vượt qua rắc rối, trường hợp này có nhiều khả năng hơn, ta đảm bảo họ sẽ sống sót thêm được mười lăm phút nữa. Họ sẽ là món ngon của lợn lòi rừng.”

“Lisle.”

“Em không thể lang thang ở nơi đổ nát hoang tàn ấy để tìm hai bà già kia trong bộ váy này,” chàng nói. “Bảo Bailey chọn cho em cái gì đó bớt... bớt...” Chàng chỉ tay về phía bộ ngực lộ liễu của nàng. “Nhẹ nhàng thôi. Nhưng mà nhanh lên đấy. Ta cho em mười lăm phút, không hơn. Nếu khi đó em chưa xong, ta sẽ đi mà không có em.”

Mười lăm phút rưỡi sau

“Quần ư,” Lisle kêu lên.

Nàng chạy ào vào phòng vừa kịp lúc. Chàng đang đứng bên vệ đường, chuẩn bị bỏ đi - mà không có nàng. Đúng như nàng đã nghĩ.

“Ngài đã bảo em mặc cái gì đó thật hợp lý còn gì,” nàng nói như hụt hơi vì vừa chạy hộc tốc cho kịp giờ. “Em không thể mặc váy đi tới những nơi chật chội.”

“Em đâu có đi tới nơi nào chật chội đâu,” chàng nói.

“Ngày nay với phụ nữ hầu hết mọi không gian đều trở nên chật chội hơn,” nàng đáp. “Trong trường hợp ngài không để ý thì em xin thưa, mốt của chúng em bây giờ rườm rà lộng lẫy hơn nhiều so với ngày xưa.

Hầu hết các tay áo của em đều phồng to như cái thùng đánh kem. Em tin chắc Bà Cố đã được sống trong một thời đại dễ dàng hơn, khi mà phụ nữ được mặc váy lót có rọ.”

“Nếu buộc ta phải nghiên cứu chuyện này, em sẽ phải nhét mình vào những thứ quần áo không bao giờ được thiết kế nhằm nâng đỡ hình thể phụ nữ.”

“Em biết,” nàng nói. “Ngài nghĩ mông em quá to chứ gì.”

“Ta không nói vậy,” chàng đáp. “Hình thể em đâu giống như đàn ông. Không ai có thể nhầm em với đàn ông cả. Ôi trời ơi, ta không có thời gian cho chuyện vô nghĩa này đâu.”

Chàng quay người rảo bước.

Nàng theo sau chàng.

Tâm trạng chàng lúc này rất tệ, và nàng biết điều đó ít nhất cũng phần nào do nàng. Nàng đã đánh thức chàng từ lúc tờ mờ sáng sau bao nhiêu mệt mỏi của một ngày và đêm... sau một chương tình cảm vô cùng xáo động... một chuyện nàng không muốn nghĩ tới. Nàng đã tức giận với chàng, và thất vọng theo những lối mà chính nàng cũng chỉ vừa mới giải thích được cho mình hiểu.

Sáng nay nàng làm như vậy vừa là để phạt chàng, vừa là để bỏ trốn. Rất chín chắn. Nhưng nàng đã thất bại - một tình trạng hiếm khi xảy ra với nàng - và nàng ghét điều đó.

“Bị coi như đàn ông cũng chẳng làm sao cả,” nàng nói. “Em mặc sao mà em cảm thấy thoải mái và thuận tiện là được. Ngài bảo phải mặc cái gì đó hợp lý, mà quần áo phụ nữ thì đơn giản là không hợp lý. Phục trang mỗi năm một tệ hơn. Hơn nữa, một người đàn ông biết điều sẽ hiểu phụ nữ không thể nào đổi từ bộ váy nọ sang bộ váy kia trong vòng mười lăm phút. Để đảm bảo điều kiện của ngài, có lẽ em nên mặc váy lót đi xuống đây.”

“Đâu phải ta chưa từng thấy em mặc váy lót,” chàng đáp.

“Nếu ngài nhắc tới tối qua, đó là váy ngủ của em,” nàng nói. Và đừng có mà nói tới tối qua nữa. Em không sẵn sàng đâu.

“Với ta thì nó chẳng khác gì váy lót.”

“Ngài hẳn chưa được thấy nhiều loại váy lót, bởi vì ngài không phân biệt được chúng.”

“Ta là đàn ông,” chàng nói. “Đàn ông không sa vào tiểu tiết của váy xống phụ nữ. Bọn ta chỉ để ý họ mặc nhiều hay ít thôi. Ta vừa nói với em đấy, em có vẻ như đang mặc quá ít.”

“So với cái gì?” nàng nói. “Phụ nữ Ai Cập hả? Họ dường như đã tới mức quá đà. Họ hoặc là trùm kín mít chỉ chừa ra đôi mắt, hoặc là chỉ treo trên người mấy quả chuông nhỏ rồi nhảy múa. Vấn đề là...”

“Lối này,” chàng nói, rẽ vào quảng trường Thánh Helen.

Quảng trường này rộng hơn phố Coney, và sáng sủa hơn.

Khi đi qua quán trọ York, nàng ngước nhìn lên. Những dãy nhà tối đen hắt bóng lên nền trời được ngàn vì sao thắp sáng.

Chỉ một chút nữa thôi họ sẽ đi qua quảng trường này. Họ rẽ nhanh vào đường Blake, rồi Stonegate, một con đường nhỏ khác ở York.

“Vấn đề là,” nàng nói, “phụ nữ phải được phép mặc quần trong những trường hợp thế này.”

“Vấn đề là,” chàng nói, “phụ nữ phải không được để mình rơi vào những tình huống buộc họ phải mặc quần.”

“Đừng cổ lỗ như thế. Dì Daphne vẫn mặc đấy thôi.”

“Ở Ai Cập,” chàng đáp. “Phụ nữ có mặc trang phục tương tự như quần. Nhưng họ không mặc bó sát, và còn mặc nhiều lớp vải khác bên ngoài. Nếu em mặc thử quần này ở Cairo, em sẽ bị nhốt lại đánh đòn vì tội quấy rối tình dục nơi công cộng.”

“Đúng là cái quần này hơi chật, em thừa nhận,” nàng nói. “Em không biết làm sao đàn ông có thể chịu đựng được chuyện mặc quần. Nó cứ chà xát vào những chỗ nhạy cảm.”

“Đừng nói về những chỗ nhạy cảm của em,” chàng nói.

“Em phải nói về cái gì đó,” nàng nói. “Ai đó trong chúng ta phải cố gắng làm nhẹ bớt sự căng thẳng của chúng ta khi đi cạnh nhau.”

“Phải, được...” Chàng dừng bước, “Ôi, chết tiệt. Olivia... Về đêm qua... khi em đến trước cửa phòng ta...”

Nàng cũng dừng lại, tim đập mạnh.

“Đó là một sai lầm,” chàng nói. “Một sai lầm cực kỳ tồi tệ, một trăm lần tồi tệ. Ta xin lỗi.”

Chàng nói đúng, nàng tự nhủ. Đó là một sai lầm tồi tệ, một nghìn lần tồi tệ. “Vâng,” nàng nói. “Đúng là thế. Không phải lỗi cả ở ngài. Em cũng xin lỗi.”

Chàng nhìn nàng với ánh mắt khuây khỏa.

Nàng tự nhủ mình cũng cảm thấy khuây khỏa rồi.

Chàng gật đầu. “Tốt. Vậy là ổn cả, nhé.”

“Vâng.”

“Tuy nhiên phải nói rõ: Em vẫn làm ta bực mình lắm, và ta không xin lỗi vì đã nhiếc móc em đâu,” chàng nói.

“Em hiểu,” nàng đáp. “Em cũng không xin lỗi ngài về những gì em đã nói.”

“Hay lắm, được đấy.”

Họ lại tiếp tục bước đi.

Thật là ngượng nghịu. Trước đây, Lisle chưa bao giờ thấy ngượng nghịu khi đi bên cạnh nàng. Chàng đã xin lỗi nàng, nhưng không thể xin lỗi ông Rathbourne, và càng không thể rũ bỏ những cảm giác đang phản bội chàng. Chàng không thể rũ bỏ cảm giác đã làm một việc không thể chối cãi. Chàng đã mở Chiếc hộp Pandora thần thoại chứa mọi cám dỗ của thế gian và giờ đây...

Giọng nàng phá vỡ khoảng yên lặng kéo dài. “Mười lăm phút,” nàng nói. “Chỉ đàn ông mới nghĩ đó là một khoảng thời gian hợp lý.”

“Em biết quá rõ là ta đã hy vọng em không làm được,” chàng nói.

“Và ngài biết quá rõ là em sẽ làm được hoặc chí ít cũng phải nỗ lực hết mình,” nàng nói. “Thoạt đầu bọn em cũng hơi hoảng. Bailey không tìm thấy quần của em và em cứ nghĩ sẽ phải lấy quần của Nichols cơ đấy.”

Chàng nhìn nàng. Trông nàng chẳng có vẻ gì giống con trai. Hay nàng có giống nhỉ? Có phải nàng đang bắt chước dáng đi của chàng?

“Em quả thực rất kỳ cục,” chàng nói.

“ờ, em biết chuyện này thật khó hiểu,” nàng nói, “nhưng đó là điều đầu tiên nảy ra trong đầu em khi bọn em không thể tìm thấy quần. Rồi, trong khi Bailey đang tuột váy và áo lót cho em rồi nhồi nhét em vào cái quần, em cứ tưởng tượng xem chuyện gì sẽ xảy ra tiếp đây.”

Chàng thì đang tưởng tượng cảnh cô hầu gái tuột váy và nhét nàng vào cái quần chật ních.

Chiếc hộp Pandora.

Tuy nhiên, nghĩ thôi thì có hại gì chứ. Chàng là đàn ông. Đàn ông luôn có những ý nghĩ tà dâm. Chuyện đó hoàn toàn tự nhiên và bình thường.

“Cậu ta sẽ nổi khùng,” Olivia tiếp tục, “và em sẽ phải làm cậu ta phân tâm, trong khi đó Bailey sẽ đánh cậu ta bất tỉnh. Rồi bọn em lấy cái quần. Sau khi em bỏ đi, Bailey sẽ băng bó vết thương và nói với cậu ta là cô ấy rất xin lỗi, và lời xin lỗi sẽ hiệu nghiệm.”

“Sao em không ngồi yên ở London mà viết kịch bản sân khấu nhỉ?” chàng nói.

“Lisle, động não đi,” nàng nói. “Nếu em có chút khả năng ngồi yên, em hẳn đã dính lấy quý ông đầu tiên mà em đính hôn rồi kết hôn sau đó sẽ có một lũ con và mai danh ẩn tích như tất cả những phụ nữ tồn tại mờ nhạt khác.”

Nàng bắt đầu khua khoắng chân tay. “Sao phụ nữ lại phải ngồi yên? Sao bọn em lại phải làm những vầng trăng nhỏ, mỗi người bọn em đều mắc vào một quỹ đạo nhỏ, quay xung quanh một hành tinh chính là gã đàn ông nào đó? Tại sao bọn em không phải là những hành tinh khác. Sao bọn em phải là vầng trăng?”

“Nói về thiên văn học ấy mà,” chàng lên tiếng, “những hành tinh ấy đều quay theo quỹ đạo quanh mặt trời.”

“Sao lúc nào ngài cũng phải chính xác như thế?” nàng nói.

“Phải,” chàng đáp. “Ta đòi hỏi chính xác cao độ còn em thì giàu trí tưởng tượng kinh khủng. Ví dụ, ta thấy một nhà thờ mọc lên phía sau mấy tòa nhà trước mặt. Em thấy gì?”

Nàng nhìn về cuối đường Stonegate, ở đó một tòa tháp đen nhánh mọc lên giữa trời đêm.

“Em thấy một phế tích ma ám, hắt ánh sáng xuống lối mòn chật hẹp, một khối nhà đen tuyền khổng lồ in hình vào trời đêm lấp lánh ngàn sao.”

“Ta không chắc đó có phải là một phế tích không,” chàng nói. “Nhưng chúng ta sẽ biết ngay thôi.”

Thêm mấy bước chân nữa, họ tới cuối đường Stonegate. Họ băng qua High Petergate, bước vào một con ngõ nhỏ, và tiến vào mảnh sân tối đen của tòa phế tích ma ám - hay, dựa vào quan điểm của ai đó - của Nhà thờ York đã bị cháy mất một ít.

Lisle nghĩ rằng ánh sáng lập lòe phía sau ô cửa sổ kính màu sẽ bồi đắp thêm niềm tin vào phỏng đoán về chuyện có “ma ám” ở nơi này. Với chàng thì đó chỉ là dấu hiệu có sự sống.

“Trông giống như nhà ở của ai đó,” chàng nói. “Thế nên, ta nghĩ tốt hơn là không vào trong.” Chàng lấy từ trong túi chiếc áo khoác to đùng của mình ra một hộp bùi nhùi và một mẩu nến.

“Em có diêm đây,” nàng nói.

Chàng lắc đầu. “Thứ đó mùi kinh lắm.” Chàng mất một giây để đánh lửa đống bùi nhùi và thắp sáng ngọn nến lùn.

“Diêm thì có mùi ghê thật,” nàng nói. “Nhưng người ta làm sao biết được khi nào nó phát huy tác dụng.”

“Nó có tác dụng với những ai quen với việc lúc nào cũng có người hầu châm lửa cho,” chàng nói. “Người đàn ông thành thạo có thể tạo lửa nhanh và dễ không kém - lại an toàn hơn - với một nắm bùi nhùi.”

“Hầu hết mọi người sẽ không thử mười nghìn lần, một cách có chủ đích, chỉ để chứng minh họ có thể làm một việc nào đó,” nàng nói.

“Ta không thử mười... Chúa ơi, sao ta lại để mình mắc bẫy em chứ? Có quá đáng không nếu ta yêu cầu em đi sát? Chúng ta chưa biết chắc họ đã làm gì?”

“Đâu phải vì em vừa nhét cái mông to bự của em vào cái quần của đàn ông mà ngài cho rằng não em co lại chỉ còn bằng não con trai,” nàng nói. “Em nhận thức rõ rằng ngài là người cầm ngọn nến duy nhất, và em đâu có muốn vấp vào những mảnh đổ nát của nhà thờ này rồi ngã dập mặt. Chẳng phải ở đây tối tăm và yên ắng kinh khủng sao? London về đêm có khi còn ồn ã hơn chốn này vào ban ngày. Và sáng hơn nữa. Nhưng quả là một sự hòa hợp kinh khủng: nhà thờ Trung cổ, bóng đen Trung cổ, và im lặng như trong hầm mộ.”

Không ngờ lối vào rất sáng rõ. Nhưng họ chưa đi được bao xa. Họ đang đi qua cánh ngang phía Nam của nhà thờ thì một người đàn ông cầm một chiếc đèn lồng vội vã đi về phía họ.

“Xin lỗi, thưa ngài,” ông ta nói. “Khách tham quan không được vào sau khi trời tối. Tôi biết có người thích không khí liêu trai hoặc muốn được thử cảm giác sợ điếng người...”

“Không phải chúng tôi tới tham quan,” chàng nói. “Chúng tôi chỉ tới...”

“Các vị phải trở lại vào ban ngày thôi. Rất náo nhiệt, tôi phải thừa nhận thế, vì có nhiều công nhân, nhưng họ phải làm dọn dẹp cho sạch sẽ đã chứ, trước khi chúng ta có thể khởi công sửa chữa. Và giờ còn cả khu hâm mộ nữa chứ, ai cũng muốn tới xem cho biết, thật phiền hà.”

“Không phải...”

“Tôi không thể nói bao nhiêu học giả đã tới đây, đo đạc rồi tranh luận. Lần gần đây nhất là mất tới một trăm nghìn bảng để sửa chữa những chỗ hư hỏng, nhưng đó là chưa tính tới khu mộ, vì người ta chưa biết phải làm gì. Ít nhất một nửa số học giả cho rằng phải đào nó lên, nửa còn lại thì bảo cứ mặc kệ đấy.”

“Đây không phải chuyện...”

“Các vị quay lại vào ngày mai nhé, khi đó sẽ có người hân hạnh được đưa các vị đi xung quanh, trả lời mọi câu hỏi của các vị rồi nói cho các vị biết tại sao người ta lại tranh cãi về thế nào là kiến trúc Norman và thế nào là kiến trúc Gothic.” ông ta xua họ ra phía cửa.

Cho rằng ông bảo vệ vừa hơi điếc vừa lắm điều, Lisle nói to lên, “Chúng tôi đang tìm hai quý bà.”

Người đàn ông ngừng vẫy cái đèn lồng về phía cửa. “Hai quý bà?”

“Các dì tôi,” Olivia nói thật to, nghe như giọng một cậu trai mới lớn. Nàng rất có khiếu bắt chước.

Lisle liếc nhìn nàng. Nàng lúc nào cũng bịa chuyện ngay được.

“Một người rất cao,” Lisle nói, một tay đưa lên ngang tai Olivia. “Người kia hơi thấp hơn. Họ đã muốn tới xem nhà thờ này, và nhất là khu hầm mộ.”

“Ồ, phải, đúng rồi,” ông bảo vệ nói. “Tôi đã bảo họ ngày mai hẵng quay lại. Lúc này không an toàn đâu, tôi cảnh báo thế, nhưng họ chẳng chịu nghe lời. Trước khi kịp nhận ra mình đang định làm gì thì tôi đã đưa họ đi xem một vòng và trả lời các câu hỏi của họ. Nhưng tôi không được thuê để dẫn khách đi xem vào ban đêm, thưa ngài, và tôi sẽ không tạo thêm một ngoại lệ nào nữa đâu.”

“Tất nhiên là không rồi,” Lisle nói. “Nhưng có lẽ ông có thể cho chúng tôi biết họ rời khỏi đây lâu chưa?”

“À, khoảng mười phút trước, tôi nghĩ thế. Cũng có thể là mười lăm phút. Tôi không nhớ chính xác. Nhưng họ về rất vội. Quên mất không để ý thời gian, họ bảo thế.”

“Ông có tình cờ nghe họ nói sẽ đi đâu không?” Lisle hỏi.

“Quán trọ George ở đường Coney, họ bảo với tôi vậy. Họ hỏi đường về gần nhất. Nói là họ đã muộn bữa tối.”

“Nếu họ rời khỏi đây mười phút trước thì bọn tôi phải gặp họ chứ nhỉ,” Lisle nói.

“Có lẽ họ đi đường khác,” ông bảo vệ đáp. “Các vị đi đường Stonegate tới đây à?”

“Đúng thế,” Lisle nói. “Họ đã...”

“Như tôi đã giải thích với họ, tên con đường ấy gợi nhắc tới đá được đưa về đây để xây Nhà thờ Minster,” người cung cấp thông tin của họ nói tiếp. “Đá được vận chuyển bằng đường thủy từ các mỏ đá về, rồi tập kết ở Stayne Gate, dưới Guildhall.”

“Ông có nghĩ...”

“Hai quý bà rất lấy làm thú vị khi biết tác giả Lawrence Sterne sống ở Stonegate thời còn độc thân.”

“Ông có nghĩ họ đã đi đường khác không,” Lisle hỏi thật nhanh.

“Có lẽ họ đã rẽ nhầm vào Little Stonegate,” ông bảo vệ nói. “Tôi hy vọng họ không đi lạc. Tôi đã nhìn thấy họ rời khỏi nhà thờ an toàn, tôi đảm bảo với ngài đấy. Thật ra đường tối quá, và với tất cả đống đổ nát này, thật dễ bị...”

Một tiếng thét inh tai cắt lời ông ta.

Lisle quay về phía tiếng hét. Chàng chẳng thấy gì. Rồi chàng nhận ra Olivia không còn đứng bên cạnh mình nữa.

“Olivia!” chàng gào lên.

“Ôi, ôi, ôi,” Olivia kêu. Rồi sực nhớ mình đang giả trai, nàng nói thêm, “Quỷ tha ma bắt nó đi!”

Giọng nàng run run. Vết đau khiến mắt nàng ứa nước, và nàng muốn khóc, nhưng nếu khóc thì thật quá đáng thất vọng. Nàng không biết làm thế nào để ra được khỏi chỗ này một cách thanh nhã. “Em ở đây.”

“Đâu cơ?”

Ánh sáng của ngọn nến và chiếc đèn lồng chập chờn lướt quanh những đống đổ nát.

“Đây,” nàng nói.

Cuối cùng ánh sáng cũng tạt về phía nàng, lúc ấy đang ở trong tư thế đáng xấu hổ.

Nàng nằm sấp, mông nhổng lên, nửa ở ngoài và nửa ở trong đống gỗ đá lộn xộn nàng vừa vấp phải. Một đống rất nhỏ, nàng nhận ra như vậy khi hai người đàn ông tiến lại gần. Nhưng giống như cái hố nhỏ đã kết liễu đời Mercutio, nó đủ sức hạ gục nàng. Nàng trượt đầu gối - rất đau - và đập khuỷu tay xuống đất, cái nhức buốt lan tỏa khắp cánh tay. Nhưng chưa là gì so với cảm giác của nàng trong lúc cố đứng dậy.

Lisle đưa cây nến cho ông bảo vệ rồi cúi xuống bên cạnh nàng.

“Đó là lý do tại sao tôi bảo hai bà ấy đừng vào đây ban đêm,” ông bảo vệ nói. “Đàn ông còn có thể trượt chân và ngã vỡ đầu nữa là. Ngay cả vào ban ngày người ta vẫn phải nhìn trước ngó sau rồi mới dám đi.”

“Ông lùi lại một chút,” Lisle nói. “Giơ đèn lồng cao lên.”

Ông bảo vệ lùi lại và làm như chàng nói.

Nén tiếng rên, nàng cố trở người một chút. Nàng không bận tâm Lisle nhìn thấy gì, nhưng không muốn cái mông của mình là trung tâm chú ý của ông bảo vệ.

“Mũ em đâu?” Lisle hạ thấp giọng hỏi.

“Em không biết.”

Chàng nhẹ nhàng vuốt tay lên mái tóc buộc chặt của nàng. “Hình như em không chảy máu đâu.”

“Cứ ngã là em chống tay mà.”

“Nếu không làm vậy thì có thể đầu em đã vỡ rồi.”

“Đầu em chẳng làm sao cả,” nàng nói.

“Tùy quan điểm mỗi người thôi.”

“Chân em cơ. Em không nhấc được.”

“Ta sẽ bóp cổ em,” chàng nói. “Ta đã bảo em...”

“Đứng thật gần, em biết. Nhưng em chỉ mới đi cách đó có một tí. Em đang cố nhìn ngắm xung quanh một chút trước khi ông ấy đuổi cổ chúng ta. Thế rồi...”

“Em trượt chân.”

“Ngã thì không tệ lắm, nhưng bàn chân phải của em không trụ được nữa. Em nghĩ bị sái mắt cá chân rồi. Giúp em lên với?”

“Chết tiệt, có cái gì gãy không?”

“Em nghĩ là không. Chỉ có bàn chân thôi. Nó không động đậy... Và đau như dao cứa khi em cố nhấc lên.”

Chàng thầm thì gì đó bằng tiếng Ả-rập. Nàng đoán đó là một câu nguyền rủa đủ mạnh để diễn đạt cảm giác của chàng. Rồi chàng đưa tay nắm bàn chân phải của nàng, thế là nàng suýt nữa nổ tung lên chín tầng không. Chàng kiểm tra bàn chân, từng chút từng chút một, dịu dàng lật qua lật lại. Nàng phải cố hết sức mới không rên lên - và nàng không thật chắc đó là vì đau hay vì cảm giác của bàn tay chàng trên chân mình.

Từ bàn chân, chàng nhanh chóng nhưng nhẹ nhàng lướt tay lên đầu gối nàng.

“Chắc không có chỗ nào bị gãy đâu,” chàng nói.

“Đó là điều em...”

Nàng ngừng lời bởi vì chàng đang kéo nàng lại một chỗ ngồi. Trước khi nàng kịp lấy hơi, chàng xốc tay vào dưới cánh tay và lôi nàng đứng lên. Lúc bàn chân phải chạm xuống đất, nàng nhăn mặt.

“Đừng ấn lên nó,” chàng nói. “Em phải dựa vào ta chứ. May là chúng ta không phải đi xa.” Vừa nói chàng vừa trượt cánh tay vào dưới áo khoác của nàng rồi vòng qua sau lưng nàng. Cánh tay chàng ghì nàng thật chặt, ấm áp và mạnh mẽ. Nàng cảm nhận được bàn tay chàng, ở ngay dưới ngực mình. Ngực nàng cũng cảm nhận được nó, da thịt săn lại khi những cảm giác gây tê liệt tinh thần dội xuống như thác lũ.

Vừa kéo nàng lên, chàng vừa lấy mấy đồng bạc trong túi đưa cho ông bảo vệ. “Xin lỗi về rắc rối này,” chàng nói.

“Tôi hy vọng quý ngài trẻ tuổi đây sẽ sớm hồi phục,” người đàn ông nói.

“Cảm ơn,” Olivia giả giọng trai đáp lại.

Lisle chẳng nói gì. Chàng dắt nàng ra cửa, và từ từ xuống cầu thang ra sân.

Họ lặng lẽ đi qua hành lang chật dẫn ra đường High Petergate.

Lisle không dám mở miệng vì không tin chính mình nữa.

Nàng đã làm chàng sợ hết hồn. Nàng có thể đã gãy cổ hoặc vỡ đầu.

Ngay cả khi đã biết nàng gần như không sao, chàng vẫn lo lắng - về xương gãy, xương rạn, sự chấn động.

Trông có vẻ như nàng chỉ bị sái chân thôi. Rắc rối ở chỗ, đã mất rất nhiều thời gian chàng mới có được kết luận ấy.

Chàng đã đặt tay lên đầu nàng, bàn chân rồi cẳng chân nàng. Chàng đã kiểm tra cơ thể nàng quá tỉ mỉ và đã dành quá nhiều thời gian để làm việc đó.

Thật chẳng khôn ngoan chút nào. Chàng thậm chí còn kém khôn ngoan hơn khi kéo nàng đứng dậy: Chàng đặt tay vào dưới áo khoác của nàng thay vì đặt bên ngoài.

Thay vì chạm vào lớp áo có khả năng bảo vệ, chàng lại cảm nhận lớp vải mỏng của áo sơ mi và thắt lưng quần của nàng. Khi nàng dựa vào chàng, viền bầu ngực nàng hững hờ áp lên tay chàng. Dưới lớp áo sơ mi, da thịt mềm mại sao mà ấm nóng.

Phải dùng đến khả năng kiềm chế của thánh nhân mới có thể bước đi trong tình trạng thân mật này: ngực nàng nẩy nhẹ trên bàn tay chàng còn hông nàng ấn vào hông chàng khi họ chầm chậm từng bước rời khỏi nhà thờ, xuống bậc tam cấp, ra sân rồi đi tiếp. Giữ nàng sát sạt bên mình, chàng có thể ngửi thấy mùi hương mái tóc và da thịt nàng...

Đi tiếp đi, chàng tự nhủ. Từng bước từng bước một. Con gái riêng của vợ chú Rathbourne. Hãy nhớ lấy.

“Lisle,” nàng nói.

“Đừng,” chàng gắt.

“Em biết ngài rất giận, nhưng chúng ta đã đến được đây và có trời mới biết khi nào em được quay lại, thế nên em chỉ muốn xem một chút...”

“Chỉ,” chàng kêu lên. “Chỉ thế này. Chỉ thế nọ. Và nếu em gãy cổ, ta phải nói gì với mẹ em, cha dượng em? ‘Olivia chỉ chết thôi.’”

Chàng không thể và không được nghĩ đến điều đó.

Chàng không cần phải nghĩ. Nàng còn sống. Nhưng chàng đã động chạm vào nàng, và từng cái động chạm gợi cơ thể chàng nhớ lại nụ hôn dài đầy nhục cảm đêm qua và cách bàn chân trần của nàng trượt trên chân chàng. Mùi hương của nàng xộc lên mũi chàng còn ngực nàng ấn vào cánh tay chàng, và mọi bản năng đều muốn chứng tỏ theo cách thức nguyên thủy nhất - với bức tường ở con ngõ nhỏ này - rằng nàng đang sống và chàng đang sống.

Nàng đang bị què, chết tiệt.

“Phải, nhưng em đâu gãy cổ,” nàng nói. “Tưởng tượng chuyện gì có thể xảy ra thật chẳng giống ngài chút nào.”

“Chẳng giống ta?” chàng hỏi. “Em làm sao biết được cái gì giống hay không giống ta. Em chỉ biết có ta ở đây, trong tình trạng căng thẳng triền miên, gồng mình chờ những sự vụ tiếp theo.” cố hết sức để không làm cái gì ngu ngốc và không thể tha thứ, rồi từ đó không thể quay trở lại được nữa.

Chàng là một người đàn ông có lý trí và nguyên tắc. Chàng có lương tâm. Chàng biết phân biệt giữa lối cư xử đáng kính và đáng hổ thẹn. Nhưng chàng sẽ phải đi hết con đường, và thế giới trật tự đầy cẩn trọng của chàng đang sụp đổ.

“Thật tình, Lisle, ngài đã gây ra bao nhiêu sự hỗn độn với...”

“Lần nào ta về nhà cũng lại như thế này!” chàng bùng nổ. “Có gì phải thắc mắc khi ta không muốn sống ở nước Anh hả? ở Ai Cập ta chiến đấu với rắn, bọ cạp, bão cát, và bọn trộm cướp giết người, ở đây thì tất cả chỉ là cảnh kịch, và cứ tạo ra rắc rối ở những nơi chẳng có rắc rối nào. Nếu không phải cha mẹ ta gào thét khóc than, thì lại là em, hết ẩu đả tới tự dẫn mình vào chỗ chết.”

“Em không thể tin nổi chuyện này.” Nàng cố vùng ra.

“Đừng có ngu ngốc thế,” chàng nói. “Em sẽ ngã dập mặt đấy.”

“Em có thể bấu tay vào tường để đi,” nàng nói. “Em không cần ngài.”

Chàng kéo nàng lại sát hơn. “Em quá trẻ con.”

“Em ư!”

“Chứ còn ai nữa! Mọi thứ với em đều như kịch. Mở đầu, kết thúc, lúc nào cũng theo cảm hứng cả.”

“Em sinh ra không phải với trái tim chẳng khác gì một con bọ hung hóa thạch.”

“Có lẽ em nên dành thời gian nghĩ tới cái đầu của mình một chút thay vì nghĩ tới trái tim,” chàng nói. “Có lẽ em nên nghĩ trước khi quyết định lang thang quanh đống nát hoang tàn vào ban đêm. Hoặc có lẽ - đây là một ý nghĩ rất tiểu thuyết - em nên nói với ta em định làm gì.”

“Thế thì ngài sẽ ngăn em.”

“Chính xác là như thế.”

“Thử nghĩ tới chính ngài xem,” nàng nói. “Ngài đi khắp các hầm mộ và lăng tẩm.”

Chàng lôi nàng vào đường Stonegate. Chàng siết chặt cánh tay rắn chắc quanh người nàng, bởi vì nếu không làm vậy chàng sẽ hất bay nàng. “Ta biết ta đang làm gì,” chàng nói, dùng hết ý chí để giữ giọng nói thấp và bình tĩnh. “Ta không bao giờ làm rồi mới nghĩ. Ta không mù mờ lao vào mọi thứ chỉ vì trí tưởng tượng nhất thời.”

“Chuyện xảy ra đâu phải như vậy! Ngài bóp méo mọi chuyện!”

“Và em không hiểu gì về bản thân!” chàng nói. “Em không biết mình đang làm gì. Đúng như cách em cư xử với đàn ông. Em thấy chán ngán, và em mang họ ra để tiêu khiển, không quan tâm người ta tổn thương thế nào. Em thấy chán ngán, thế là em xông vào cuộc đời ta và lừa gạt cả gia đình ta lẫn gia đình em, rồi phá vỡ có trời mới biết bao nhiêu gia đình...”

“Thật lòng, em xin lỗi vì đã làm thế,” nàng nói. “Trong đời mình em chưa bao giờ thấy hối tiếc như thế.”

Lẽ ra chàng nên dừng lại. Đâu đó trong một góc nhỏ tỉnh táo trong đầu, chàng biết ngay từ đầu mình đã không nên gây ra chuyện này. Nhưng vùng nhận thức nhỏ nhoi ấy không thể xua được cơn cuồng nộ đang ập xuống.

“Ta cũng thấy hối tiếc đây,” chàng quát lên. “Ta hối tiếc vì đã về nhà. Ta hối tiếc vì đã trong vòng một dặm gần em. Ta lẽ ra phải ở nơi ta nên ở. Phải, ta lẽ ra nên đi giải mã những chữ tượng hình khó hiểu. Nên nướng mình trên sa mạc hoặc chiến đấu với bão cát, bọ cạp, rắn độc và bọn trộm cướp sát nhân. Ta nên làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu có thể cho ta một thế giới thoát khỏi tầm tay em và cha mẹ ta.”

“Em ước gì ngài chưa bao giờ về nhà,” nàng gào lên. “Em ước ngài không trở lại. Em rất hân hạnh được trả tiền cho ngài quay lại rồi ở đó luôn. Em bất cần biết ngài sẽ thành ra thế nào. Đi Ai Cập đi. Đi xuống địa ngục đi. Đi đi!”

“Ước gì ta có thể xuống địa ngục,” chàng nói. “Sau hai ngày ở bên cạnh em nơi đó chẳng khác gì thiên đường.”

Nàng xô chàng thật mạnh.

Chàng không chuẩn bị tinh thần. Mất thăng bằng, chàng ngã ngửa vào cửa một tiệm hàng. Tất cả chỉ xảy ra trong một giây, nhưng thế là đủ cho nàng. Nàng vùng thoát mất.

“Em ghét ngài,” nàng nói.

Nàng tập tễnh vài bước trên con đường và cứ thế bước đi, chầm chậm, tay bám vào tường.

Chàng đứng yên một chốc nhìn nàng, tim chàng cuộn lên.

Chàng không băng qua con đường. Chàng không biết phải làm gì nữa.

Chàng bắt đầu bước đi, chậm chậm, chàng một bên, nàng một bên. Chầm chậm và lặng lẽ trong hai thế giới riêng, họ trở về quán trọ.



Bình luận
Sắp xếp
    Loading...