Quỷ Cái Vận Đồ Prada (The Devil Wears Prada)
Chương 6
“Biên tập viên thời trang?” Tôi phì cười. “ Không lọt tai chút nào. Gọi là ô-sin thì hay hơn. Hãy chào mừng em quay lại thế giới văn minh đi.” Tôi ôm Jill cả chục phút và không muốn thả ra nữa. Ngày xưa tôi rất buồn khi chị đi học ở Standford, để tôi một mình với bố mẹ lúc mới lên chín tuổi. Tệ hơn nữa là sau đó chị theo bạn trai – bây giờ là chồng – về Houston. Houston! Cái vùng đất ngập ngụa bùn lầy và ruồi muỗi đến phát điên lên. Như chưa đủ khổ, bà chị tôi – một cô gái xinh đẹp, văn hay chữ tốt, yêu nghệ thuật cổ điển và làm người nghe rơi lệ khi đọc thơ – bây giờ còn nói pha thêm giọng địa phương miền Nam. Tôi không nói đến thứ giọng nhẹ nhàng dễ thương vùng Texas, mà ám chỉ một ngôn ngữ cowboy không lẫn vào đâu được, nghe như đấm vào màng nhĩ. Tôi vẫn chưa thể tha cho Kyle cái tội lôi chị tôi đến mảnh đất bất hạnh nọ, cho dù anh ta là một ông anh rể rất tử tế – ít nhất là chừng nào chưa mở miệng ra.
“Kìa, bé Andy, cứ mỗi lần gặp em lại thấy em xinh ra hơn. Ở Runway người ta cho bọn em ăn thứ gì vậy?”
Tôi chỉ ước gì tọng luôn một quả bóng tennis vào mồm Kyle cho anh ta đừng bao giờ phát ra cái giọng Texas ấy nữa, nhưng anh đã mỉm cười, và tôi chạy ra ôm anh. Giọng anh rất nhà quê, miệng thì toang toác hay cười, nhưng anh là người đáng mến và say chị tôi như điếu đổ. Tôi tự hứa với mình là sẽ không rúm người lại nữa, nếu anh lại mở miệng. “Không phải thức ăn, ở cái nơi mà ăn uống chỉ là chuyện miễn cưỡng, chắc anh biết rồi. Nếu có chất gì thì chỉ có thể trong nước uống chứ không ở đồ ăn. Thôi cho qua chuyện đó. Kyle này, trông anh cũng khá lắm. Hy vọng là anh chăm sóc chị em tử tế ở chốn làng quê khốn khổ ấy chứ?”
“Andy, đến thăm anh chị đi cưng, đem theo cả Alex, ở đó các em có thể nghỉ hè ít lâu. Em sẽ thấy, ở đó không dở đâu.” Anh cười với tôi, rồi quay sang cười với Jill, và Jill cười đáp lại ngay, vuốt lên má chồng. Sến không chịu nổi.
“Anh ấy nói đúng đấy, Andy, Houston giàu văn hóa và có nhiều việc để làm. Anh chị muốn em đến đó chơi thường xuyên hơn nữa. Chỉ gặp nhau ở nhà này thôi thì không hay đâu,” chị vừa nói vừa đi lại lăng xăng trong phòng khách nhà bố mẹ. “Chị định nói là nếu em chịu nổi Avon thì nhất định cũng chịu nổi Houston.”
“Andy về rồi à! Jay, con bé thăng quan tiến chức ở New York rộng lớn về rồi kìa. Bố ra đây với con đi!” Mẹ tôi vừa từ bếp ra. “Mẹ tưởng con gọi điện khi xuống đến ga.”
“Bà Mayers ra đón Erika về cùng chuyến tàu, cho con về cùng luôn. Bao giờ có ăn? Con chết đói rồi đây.”
“Có ngay. Con không muốn tắm à? Mọi người đợi được. Trông con hơi nhàu nhĩ sau chuyến đi. Không sao, mọi người có thể...”
“Mẹ!” Tôi đưa mắt cảnh báo.
“Andy! Con trông rất tuyệt vời. Ra đây ôm bố già của con một lần nào!” Bố tôi mỉm cười đứng ở hành lang, ông cao lớn và vẫn rất đẹp ở tuổi gần sáu mươi. Ông giấu hộp xếp vần Scrabble sau lưng, chỉ cho tôi thấy từ bên cạnh. Đợi đến khi xung quanh không ai để ý, ông nói: “Bố sẽ hạ con, báo trước đấy.”
Tôi gật đầu cười. Trái với mong đợi, tôi vui mừng chờ đón bốn mươi tám tiếng đồng hồ tới trong vòng tay của gia đình, mừng hơn bốn năm qua kể từ khi ra khỏi nhà. Ngày lễ thích nhất của tôi là lễ Tạ ơn, và năm nay tôi sẽ tận hưởng như chưa bao giờ có.
Chúng tôi tụ tập trong phòng ăn, đào xới trong núi thức ăn mà mẹ tôi đặt đưa đến nhà vào đêm trước lễ Tạ ơn, một dạng truyền thống Do Thái. Bánh Bagel, cá hồi, pho mát kem, cá chép trắng và bánh xèo khoai tây, sắp xếp ngon mắt trên khay bởi những bàn tay chuyện nghiệp, chỉ đợi được chuyển sang đĩa giấy và ăn bằng dao dĩa nhựa. Mẹ tôi cười sung sướng nhìn cả nhà lao vào ăn. Trông mẹ rất tự hào, tựa như phải vất vả cả tuần trong bếp chỉ để cho các con được no bụng.
Tôi kể cho mọi người nghe về công việc mới, cố gắng hết sức để giải thích một công việc mà ngay chính tôi cũng chưa hiểu hết. Tóm lại là tôi cũng thấy buồn cười khi kể về chuyện gọi đem váy đến và những hôm ngồi gói quà tặng và gửi đi, hay cái thẻ điện tử nho nhỏ giám sát được mỗi động tác của mình. Thật khó nói ra bằng lời, tại sao tôi thấy công việc của mình lại quan trọng ghê gớm đến thế. Tôi kể hết chuyện nọ đến chuyện kia, nhưng chắc là mọi người vẫn thấy thế giới đó thật xa lạ. Một thế giới cách ngôi nhà này có hai tiếng đồng hồ theo múi giờ nhưng xa như ở hệ mặt trời khác. Mọi người gật đầu, mỉm cười và đặt câu hỏi, ra vẻ cũng quan tâm, nhưng tôi nhận ra là họ thấy mọi thứ đều quá quái dị, quá lạ lẫm và quá khó hiểu đối với ai chưa từng nghe tên Miranda Priestly – khác gì tôi trước đây mấy tuần. Cũng chưa hẳn có ý nghĩa gì nhiều đối với tôi: mọi việc đôi khi có vẻ đầy kịch tính, như một sân khấu hỗn loạn, nhưng rất kịch động và thú vị. Chẳng phải là một nơi làm việc cực kỳ thú vị hay sao?
“Andy, con tin là một năm ở đó sẽ ổn chứ? Có thể sau đó con thích ở Runway lâu hơn thì sao?” Mẹ tôi hỏi, trong khi quét pho mát lên bánh Bagel mặn.
Tôi ký hợp đồng lao động với Elias Clark, nhận trách nhiệm làm việc một năm ở chỗ Miranda – nếu không bị sa thải sớm hơn, đó là một hạn chế không nhỏ. Nếu tôi đủ trình độ, nhiệt tình và phong độ để hoàn tất công việc thì – điều này không ghi trong hợp đồng nhưng tôi nghe nhiều người ở phòng nhân sự, cả Emily và Allison gợi ý – sau đó tôi sẽ được phép mơ đến một công việc như mình thích. Tất nhiên không ai nói ra, nhưng đều tính đến một công việc tiếp tục ở Runway hay ít nhất cũng trong công ty Elias Clark, nhưng các khả năng đều để ngỏ. Ví dụ như tôi có thể viết phê bình sách hay giữ chân trung gian giữa các nhân vật đình đám của Hollywood và Runway. Mười trợ lý gần đây nhất từng hoàn thành một năm dưới quyền Miranda, 100% đều được nhấc lên ban biên tập của Runway, nhưng tôi không vơ cả vào mình làm gì. Một năm làm việc cho Miranda là biện pháp tối hậu để tránh được ba đến năm năm hầu hạ nhục nhã ở nơi khác, sau đó tôi sẽ kiếm ngay một chỗ tử tế hơn.
“Đúng thế. Cho đến giờ ai cũng có vẻ rất tốt. Emily thì, nói thế nào nhỉ, có thể hơi hăng hái quá, ngoài ra thì mọi việc đều ổn. Nếu con cứ nghe chuyện Lily than vãn về thi cử hay Alex phải làm những việc tồi tệ trong tuần, thì con nghĩ là mình rất may mắn. Có ai mới vào làm hôm đầu tiên đã được tài xế chở đi khắp nơi? Con nghĩ thật đấy, con nghĩ năm nay sẽ là một năm tốt đẹp, và con vui mừng đợi Miranda quay về. Con đã sẵn sàng.”
Jill trợn mắt phóng sang tôi một ánh nhìn đầy hàm ý: “Thôi thôi, được rồi đấy Andy. Mọi người ai cũng biết là hình như em làm việc cho một con mẹ bị bệnh tâm thần, vây quanh là một lũ người mẫu da bọc xương. Và em chỉ cố miêu tả mọi thứ toàn màu hồng vì em lo là đã cho chân vào bẫy.” Nhưng chị chỉ nói: “Andy, nghe rất thú vị, thật đấy. Một cơ hội nghìn vàng.”
Jill là người duy nhất bên bàn tiệc có thể hiểu tôi, vì trước khi chuyển nhà đến xứ khỉ ho cò gáy chị đã làm việc cho một bảo tàng tư nhân nhỏ ở Paris và sinh ra hứng thú với thời trang. Chị tiếp cận với mốt qua khía cạnh nghệ thuật và thẩm mỹ hơn là thương mại, nhưng ít nhất cũng đã dính dáng đến mảng thời trang. “Chúng con cũng có tin vui đây,” chị nói tiếp, đưa tay qua bàn nắm lấy tay Kyle. Anh đặt tách cà phê của mình xuống bàn và vươn cả hai tay ra.
“Ôi, cảm ơn Chúa,” mẹ tôi thốt lên ngay và ngồi phịch xuống ghế, tựa như được ai đó đỡ hộ quả tạ một trăm cân mà bà đã vác trên từ hai thập kỷ nay. “Cũng đến lúc rồi đấy.”
“Chúc mừng hai con! Bố phải nói là mẹ đã rất lo lắng. Các con có phải là vừa xong đám cưới đâu. Bố mẹ đã bắt đầu lo lo...” bố tôi nhướng mày phát biểu từ đầu bàn.
“Hay quá, thế là em sắp được làm dì rồi. Bao giờ thì nhóc con ra đấy?”
Cả hai đần mặt ra, và một giây dài tôi nghĩ là tất cả đã nhầm to, và tin “vui” của anh chị chỉ là sắp xây nhà mới to hơn trong cái vũng lầy mà họ đang sống, hoặc Kyle sau bao cân nhắc đã rời khỏi công ty luật của bố anh và cùng vợ mở Gallery tranh nghệ thuật như chị ấy vẫn luôn mơ ước. Có lẽ chúng tôi đã cầm đèn chạy trước ô tô, quá nóng ruột muốn nghe tin sắp có cháu. Đó là đề tài mà bố mẹ tôi đem ra bàn luận từ sáng đến tối, tại sao chị tôi và Kyle – chả gì thì cũng quá ngưỡng băm và cưới nhau bốn năm rồi – đến giờ vẫn chưa có gì xuất xưởng cả. Trong sáu tháng vừa qua, đề tài giết thời gian này của gia đình đã phát triển thành ám ảnh ở tầm khủng hoảng.
Chị tôi hạ ánh mắt xuống. Kyle nhăn trán. Bố mẹ tôi trông như sắp ngất lịm. Sự căng thẳng như sờ tay vào được.
Jill đứng dậy khỏi ghế và đi qua chỗ Kyle, ngồi lên lòng anh. Chị vòng tay qua gáy Kyle, ghé lại gần mặt anh và thì thầm vào tai. Tôi liếc qua nhìn mẹ đang choáng váng, đường nhăn bên khóe mắt hằn sâu phiền muộn.
Rốt cuộc, họ cười khúc khích, quay mặt ra phía bàn và đồng thanh tuyên bố: “Chúng con sắp có cháu.” Và mọi vật bừng sáng. Và hò hét. Và ôm nhau. Mẹ tôi nhảy dựng lên, nhanh đến nỗi chiếc ghế đổ lật ra sau và kéo theo chậu xương rồng cạnh cửa kính. Bố tôi ôm chầm lấy Jill, hôn lên hai má rồi lên đỉnh đầu. Và lần đầu tiên sau khi cưới, nếu tôi không nhớ nhầm, Kyle cũng được nhận một cái hôn của bố.
Tôi lấy chiếc dĩa nhựa gõ lên lon nước ngọt và tuyên bố rằng bây giờ cần một lời chúc. “Tất cả hãy nâng cốc lên nào, nâng cốc chúc Baby sắp ra đời của họ nhà Sachs.” Kyle và Jill giật mình nhìn tôi. “Okay, con biết rằng về bản chất thì đó là Baby họ Harrison, nhưng trong tim chúng ta nó là nhà Sachs. Chúc mừng Kyle và Jill, bậc cha mẹ tương lai tuyệt vời của đứa con tuyệt vời nhất hành tinh.” Chúng tôi chạm đủ thứ đang cầm trong tay, bất kể là lon xô đa hay tách cà phê, uống mừng đôi vợ chồng đang tưng bừng và cái bụng mới nhu nhú của Jill. Trong lúc tôi thu dọn bàn ăn bằng cách tổng hết mọi thứ trên đó vào túi đựng rác, mẹ tôi tìm cách dỗ Jill lấy tên những họ hàng đã khuất bóng từ lâu đặt cho cháu bé. Kyle nhấm nháp cà phê và tỏ vẻ hài lòng. Gần nửa đêm, tôi và bố lẩn ra ngoài để chơi trò Scabble trong phòng làm việc của ông.
Ông bật chiếc máy tạo tiếng động màu trắng, thường dùng khi có bệnh nhân trong ngày, vừa để át những tiếng động trong nhà cũng như tránh ai đó trong nhà nghe tiếng ông nói trong phòng khám. Như các bác sĩ tâm lý tử tế khác, bố tôi có một chiếc ghế nằm bằng da màu xám trong góc phòng, rất mềm, tôi ưa tựa đầu lên chỗ tì tay, và ba chiếc ghế ngồi dễ chịu như ngồi võng. Ông cam đoan là dễ chịu như trong lòng mẹ. Bàn giấy của ông đen mờ, trên đó chễm chệ một màn hình phẳng, sau bàn là chiếc ghế da màu đen có tựa cao và rất êm. Tủ tường đầy sách về tâm lý học có cửa kính. Một bó thanh trúc cắm trong bình pha lê dưới sàn nhà và mấy bức tranh đóng khung – những đồ vật duy nhất có màu – làm toàn vẹn kiểu trang trí hiện đại. Tôi ngồi xuống sàn, giữa ghế nằm và bàn, và bố tôi cũng làm theo.
“Andy, nói cho bố biết mọi chuyện thực tế ra sao,” ông hỏi, trong khi trao cho tôi nẹp gỗ để xếp quân. “Bố thấy con rất phấn khích.”
Tôi nhặt bảy quân cho mình và xếp thành hàng cẩn thận trước mặt. “Vâng, đúng là hai tuần vừa rồi cực kỳ nhộn nhạo. Đầu tiên là chuyển nhà, sau đó vào làm việc. Một nơi kỳ quái, khó mà diễn tả được. Ai cũng đẹp, gầy và ăn mặc rất mốt. Và gây ấn tượng tốt. Ai cũng tỏ ra thân thiện, quá thân thiện, cứ như có bùa mê ấy. Con không biết nữa…”
“Sao? Con định nói gì?”
“Con không nhận ra đằng sau bức màn đó là gì. Có cảm giác như tất cả chỉ là một cái nhà xếp bằng quân bài, bất cứ lúc nào cũng có thể đổ ụp xuống đầu mình. Con không nén nổi cảm giác khôi hài là đi làm cho một tạp chí thời trang, bố hiều chứ? Cho đến giờ, công việc tương đối ngu muội. Nhưng cũng là một thử thách, vì mọi thứ đều mới cả.”
Ông gật đầu.
“Con biết đó là một công việc khá siêu, nhưng không hiểu nó giúp gì để sau này tiến đến The New Yorker. Con không có cảm giác yên tâm, mọi thứ quá trơn tru để tin là có thật. Đầy hứa hẹn. Con có lẩn thẩn không?”
“Bố không nghĩ là con lẩn thẩn, con gái yêu ạ. Bố cho là con nhạy cảm. Nhưng bố cũng công nhận là con gặp may trong chuyện này. Trong một năm con sẽ nhìn thấy nhiều điều hơn mọi người trong cả đời họ. Con nghĩ xem! Vừa ra trường, công việc đầu tiên, và con làm cho người phụ nữ quan trọng nhất trong tạp chí bán chạy nhất của nhà xuất bản tạp chí lớn nhất thế giới. Con sẽ được học hỏi nhiều điều, từ vị trí cao nhìn xuống. Nếu con luôn mở mắt quan sát và không quên những gì thực sự có ý nghĩa trong cuộc sống thì trong một năm con sẽ học hỏi được nhiều hơn nhiều người khác trong cả sự nghiệp.”
Ông xếp những chữ cái đầu tiên rồi nói tiếp: “Càng suy nghĩ kỹ, bố càng tin là sẽ có nhiều sự kiện lớn đến với con.”
“Hy vọng là bố có lý. Vì con đã ngấy việc cắt giấy gói quà đến tận cổ. Con muốn làm những việc tử tế hơn.”
“Rồi đâu sẽ vào đó, con gái yêu ạ, đâu sẽ vào đó. Hiện tại con nghĩ là người ta bắt con làm những việc ngớ ngẩn, nhưng con cứ tin bố, đây mới chỉ là bước đầu của một sự kỳ diệu. Bố có linh cảm như thế. Bố đã nghe ngóng về bà sếp của con. Bà Miranda này thuộc loại khó nhằn đấy, chắc chắn thế, nhưng con sẽ mến bà ta. Và bố nghĩ là bà ta cũng sẽ mến con.” Ông áp được quân của tôi và trông rất thỏa mãn.
“Con hy vọng là bố có lý, con hy vọng thực sự.”
“Bà ấy là tổng biên tập tờ Runway, tạp trí thời trang, chị biết chứ?” Tôi khẩn khoản thì thào vào điện thoại, cố giấu vẻ thất vọng.
“À, tôi biết chị nói gì rồi!” Julia, nhân viên quảng cáo của Sách khoa học nói. “Tạp chí nổi tiếng. Tôi thích đọc tất cả những bài của các cô gái viết về chuyện kinh nguyệt thầm kín. Có phải là chuyện thật không? Chị có nhớ câu chuyện về…”
“Không, không, không phải tờ họa báo cho lứa tuổi teen. Tạp chí cho phụ nữ trưởng thành hẳn hoi,” Ít nhất là về lý thuyết. “Chị chưa bao giờ đọc Runway thật à?” Làm sao có thể thế được nhỉ? “Vâng, tôi đọc từng chữ nhé. P-R-I-E-S-T-L-Y. Miranda. Vâng,” tôi nói với sự kiên nhẫn vô biên, Tôi tự hỏi, liệu Miranda sẽ phản ứng ra sao khi nghe kể là tôi gọi điện cho một người chưa hề nghe thấy tên bà bao giờ. Chắc sẽ không xúc động lắm.
“Vâng, xin chị gọi lại càng sớm càng tốt nếu như có thể, rất biết ơn chị,” tôi nói với Julia. “Và nếu có biên tập viên chính nào đến, xin chị nhắn họ gọi lại cho tôi nhé.”
Một buổi sáng thứ Sáu giữa tháng Chạp, chỉ còn mười tiếng nữa là bắt đầu cuối tuần trong tự do ngọt ngào. Tôi phải gãy lưỡi để thuyết phục cô Julia mù tịt về mốt ở Sách khoa học rằng Miranda Priestly là một VIP nặng ký để xông xênh làm ngơ các quy định cũng như phớt lờ mọi logic. Cuộc nói chuyện hóa ra phức tạp hơn chúng tôi mong đợi. Làm sao mà tôi tưởng Một buổi sáng thứ Sáu giữa tháng Chạp, chỉ còn mười tiếng nữa là bắt đầu cuối tuần trong tự do ngọt ngào. Tôi phải gãy lưỡi để thuyết phục cô Julia mù tịt về mốt ở Sách khoa học rằng Miranda Priestly là một VIP nặng ký để xông xênh làm ngơ các quy định cũng như phớt lờ mọi logic. Cuộc nói chuyện hóa ra phức tạp hơn chúng tôi mong đợi. Làm sao mà tôi tưởngtượng ra được rằng cô gái mà tôi định lấy địa vị chủ chốt của Miranda ra để gây ấn tượng lại chẳng hề biết đến tạp chí thời trang danh tiếng nhất thế giới – hay bà tổng biên tập noỏi tiếng ở đó? Trong bốn tuần ngắn ngủi làm chân trợ lý ở đây tôi đã học thuộc một bài – khoa trương thanh thế và nịnh nọt đơn giản là một cấu thành của công việc. Bình thường ra, chỉ cần nhắc tên bà sếp là tôi hoàn toàn thành công khi thuyết phục, hăm dọa hay gây sức ép cho đối tác.
Thật rủi cho tôi, Julia làm việc ở một nhà xuất bản sách giáo dục. Ở đó các tác giả, dù cho nhỏ nhoi đến mấy như Nora Ephron hay Wendy Wasserstein, cũng được trân trọng hơn một chuyên gia có thẩm mỹ kiệt xuất về lông thú. Chuyện ấy thì tôi quá hiểu. Tôi chỉ cần nhớ lại quãng thời gian trước khi nghe thấy cái tên Miranda Priestly lần đầu tiên và chẳng biết đó là ai - mới năm tuần chứ mấy. Song tôi cũng biết rằng thời oanh liệt đó nay còn đâu. Tôi ghen tị với sự hờ hững của Julia, nhưng nó chẳng giúp ích gì cho công việc mà tôi đang phải làm cả.
Ngày mai, thứ Bảy, tập IV của Harry Potter bất hạnh sẽ ra mắt, và hai đứa con gái song sinh mười tuổi nhà Miranda muốn có mỗi đứa một quyển. Thứ Hai mới có sách bán ngoài hiệu, nhưng tôi phải kiếm được sách vào sáng thứ Bảy – ngay sau khi sách giao cho cửa hàng. Chả là Harry và nhóm bạn phù thủy của cậu ta đã có kế hoạch bay bằng phi cơ riêng đến Paris.
Tiếng chuông điện thoại dứt tôi khỏi dòng suy nghĩ. Tôi nhấc máy. Đến hôm nay thì Emily đã đủ tin tưởng để cho phép tôi được nói chuyện trực tiếp với Miranda. Nói chuyện ở đây có nghĩa là ngót ba chục lần mỗi ngày. Thậm chí từ xa bà ta còn len lỏi được vào đời tư của tôi và ngự trị trong đó. Từ bảy giờ sáng trở đi, bà ta bắn sang tôi với tốc độ súng máy hàng tràng mệnh lệnh và câu hỏi và nguyện vọng cho đến khi tôi thở phào rời văn phòng lúc chín giờ tối.
“Aan-dree-aa? Alô? Có ai ngoài đấy không? Aan-dree-aa!” Vừa nghe bà réo tên là tôi nhảy bật khỏi ghế. Một giây sau tôi mới định thần nhớ ra là kỳ thực bà không ở trong văn phòng - thậm chí còn chẳng ở trong nước. Hiện tại tôi chắc là bà chẳng động đến mình. Emily cam đoan với tôi rằng Miranda không để ý đến chuyện Allison đã được thăng chức và tôi mới vào làm, vì đó là một chi tiết chẳng bõ cho bà để ý. Chừng nào có người nhấc điện thoại và cung cấp thứ gì bà cần thì tên tuổi người đó không quan trọng.
“Tôi không hiểu nổi tại sao chị nhấc máy lên rồi mãi mới trả lời.” bà phán. Từ miệng bất kỳ ai khác trên quả đất này thì câu này nghe như oán thán, nhưng giọng Miranda rất lạnh và nghiêm. Như chính bản thân bà. “Trong trường hhợp chị chưa được thông báo sau từng ấy tuần ở đây: tôi gọi, chị trả lời, rõ chưa? Có gì phức tạp lắm đâu. Tôi gọi, chịi trả lời, chị thấy mình có đủ khả năng ấy không Aan-dree-aa?”
Mặc dù Miranda không nhìn thấy tôi, tôi vãn gật đầu như một đứa trẻ sáu tuổi vừa bị mắng vì trét mì spaghetti lên tường. “Vâng, Miranda, tôi xin lỗi” tôi khẽ nói, đầu cúi. Trong khi xin lỗi, tôi cảm thấy có lỗi thật, có lỗi vì không nhận ra giọng bà sớm hơn ba phần mười giây, vì tôi không tức khắc trả lời khi nhấc máy “Đây là văn phòng Miranda Priestly” mà chậm mất một tích tắc. Làm sao tôi dám quên rằng thời gian của bà quý hơn thời gian của tôi gấp bội.
“Thôi được. Tốn thì giờ thế là đủ rồi, vào việc đi. Chị đã xác nhận việc đặt bàn cho ông Tomlinson chưa?” Bà hỏi.
“Rồi ạ. Tôi đã đặt bàn cho ông Tomlinson lúc một giờ ở nhà hàng Four Seasons.”
Tôi đánh hơi thấy gì rồi. Sau khi bảo tôi đặt bàn ở Four Seasons cách đây mười phút rồi gọi điện thông báo cho ông Tomlinson, lái xe và cô trông trẻ về kế hoạch ấy, giờ thì bà ấy lại muốn thay đổi tất cả.
“Tôi thay đổi ý định rồi. Nhà hàng Four Seasons không phải là nơi thích hợp nhất để ông ấy ăn trưa với Irv. Chị đặt một bàn hai người ở Le Cirque, và chớ quên thông báo cho ông trưởng nhóm phục vụ bàn là họ muốn ngồi ở phía cuối nhà hàng. Không chường mặt ra phía trước mà ở phía cuối. Hết.”
Những lần đầu tiên nói chuyện với Miranda, tôi cứ nghĩ là khi bà chấm dứt bằng chữ “hết” thì thực ra có nghĩa là “cảm ơn”. Ảo tưởng đó chấm dứt sau tuần thứ hai.
“Tất nhiên rồi, Miranda. Cảm ơn.” Tôi mỉm cười đặt máy. Bên kia đầu dây tôi cảm thấy bà ngập ngừng, như không biết đáp lại ra sao. Liệu bà có nghe ra cú chọc ngóay của tôi? Liệu bà có thấy lạ lùng khi tôi cảm ơn vì đã bị sai bảo suốt ngày? Dạo này tôi bắt đầu nói cảm ơn sau mỗi câu bình phẩm nhạo báng và mỗi mệnh lệnh độc địa qua điện thoại. Nhất định bà biết tôi có ý châm chọc, nhưng biết nói gì? Aan-dree-aa, tôi không muốn nghe chị cảm ơn lần nữa đâu nhé. Tôi cấm chị tỏ ý hàm ơn kiểu ấy! Thật ra thì cũng chẳng lạ, nếu bà ta phát ra câu ấy.
Le Cirque, Le Cirque, Le Cirque,tôi lẩm bẩm nói đi nói lại, nhất định tôi phải đặt bàn ở đó càng nhanh càng tốt, để rảnh tay vượt qua thử thách Harry Potter rõ ràng còn khó khăn hơn nhiều. Người nhận đặt bàn ở Le Cirque đồng ý tắp lự sẽ có bàn cho các vị Tomlinson và Irv bất cứ lúc nào họ xuất hiện.
Sau khi lượn một vòng qua ban biên tập, Emily ngó vào hỏi Miranda có gọi điện không.
“Mỗi ba lần thôi, và không lần nào dọa sa thải tôi cả,” tôi hãnh diện khoe. “Tất nhiên là bà ấy có nói xa xôi, nhưng không dọa hẳn ra mồm. Tiến bộ đấy chứ?”
Emily cười, theo cái cách mà cô vẫn cười khi tôi tự lấy mình ra làm trò cười, và hỏi vị thánh sống Miranda của cô muốn gì.
“Tôi phải đổi chỗ đặt bàn ăn trưa cho Mister Mờ-Cờ-Đờ. Không rõ tại sao việc đó lại rơi vào tôi, vì ông ấy có trợ lý riêng cơ mà, nhưng không sao, ai cho phép tôi hỏi ahn cơ chứ.” Mr. Mờ-Cờ-Đờ hay Mù-Câm-Điếc là biệt danh mà chúng tôi đặt cho ông chồng thứ ba của Miranda. Mặc dù ông ta về bề ngoài không có gì bất thường, giới thạo tin trong bọn tôi cho rằng ông ta vừa mù vừa câm vừa điếc, đơn giản vì nếu không thì làm sao một người dễ mến như ông lại chiu đựng nổi cuộc sống với bà ấy được.
Bây giờ đến lượt gọi điện cho Mờ-Cờ-Đờ. Nếu tôi không kịp làm thì có thể ông ấy sẽ không tới nhà hàng đúng giờ. Ông vừa bay từ chỗ nghỉ mát về để làm việc vài hôm, trong đó bữa ăn trưa với Irv Ravitz - chủ tịch hội đồng quản trị của Elias Clark – là buổi quan trọng nhất. Miranda muốn kỹ càng đến từng chi tiết, cứ làm như đây là chuyện gì mới. Mờ-Cờ-Đờ tên thật là Hunter Tomlinson, ông và Miranda vừa cưới hồi Hè năm nay, sau một khởi đầu hi hữu mà theo tin đồn là Miranda là người tán tỉnh ông trước, còn ông thì e dè. Emily nói bà bám nhằng nhằng lấy ông như đ********* đói, cho đến khi rốt cuộc ông cũng ưng thuận vì quá kiệt sức không chạy trốn được nữa. Chồng thứ hai của Miranda (ca sĩ chính của một ban nhạc hồi cuối thập kỷ 60, bố của cặp song sinh) hoàn toàn bất ngờ khi nhận được đơn ly hôn từ tay luật sư của Miranda. Mười hai ngày sau khi hoàn tất thủ tục li dị thì Miranda đã lại lên xe hoa. Mr. Tomlinson tuân lệnh vợ chuyển đến nhà Miranda ở đại lộ Park Avenue. Tôi mới thấy mặt Miranda một lần và chưa bao bao giờ gặp Mr. Tomlinson, nhưng tôi đã nói chuyện với họ không biết bao nhiêu lần, đến nỗi tôi cảm thấy như người trong nhà vậy, chán thật.
Ba chuông, bốn chuông, rồi năm chuông… Hừm, trợ lý của ông ta trốn đâu rồi? Cầu trời, làm sao tôi vớ được máy trả lời nhỉ. Hôm nay tôi không có lòng dạ đâu nghe những chuyện thân mật và vô bổ mà ông Tomlinson rất ưa kể lể. Đúng lúc đó thì thư ký của ông nhấc máy.
“Văn phòng Mr. Tomlinson đây.” thổ ngữ miền Nam của cô ta ngân lên. “Tôi có thể giúp gì được không ạ?” Tôi cố nhịn cười.
“Chào Martha, Andrea đây. Tôi không muốn quấy rầy ông Tomlinson, phiền chị nhắn lại cho ông rằng tôi đã đặt…”
“Andrea, chị biết là Mr. Tomlinson luôn muốn tiếp chị. Chị giữ máy nhé.” Trước khi tôi kịp thoái thác thì trong loa đã vang lên giai điệu Don’t Worry, Be Happy của Bobby McFerrin. Tuyệt. Ông Mờ-Cờ-Đờ thật khéo chọn ra một âm điệu hơi bị siêu lạc quan để giải trí cho người gọi điện đến trong khi phải cầm máy đợi.
“Andy đấy à, cô bé yêu quý của tôi.?” Ông khẽ nói với giọng trầm dễ nhận. “Cô bé định tránh mặt Mr. Tomlinson hay sao đấy? Đã bao lâu rồi tôi chưa có hân hạnh được nói chuyện với cô rồi ấy nhỉ?” Lâu la gì đâu, nói cho thật chính xác là mới có một tuần rưỡi. Ông Mr. Tomlinson không chỉ mù, câm và điếc, mà c òn có thói quen ngớ ngẩn là nói về mình bằng ngôi thứ ba.
Tôi hít một hơi thật sâu. “Chào ông Tomlinson, Miranda nhờ t ôi nhắn lại cho ông là bữa trưa tổ chức ở nhà hàng Le Cirque, bà nói là ông đã…”
“Cô bé,” giọng ông chậm rãi và bình thản. “Tạm gác qua một bên chuyện kế hoạch được không. Cô hãy cho ông già này một niềm vui, và kể cho Mr. Tomlinson nghe về cuộc đời mình đi. Cô kể cho ông ấy nghe được chứ? Nào, cô bé, nói cho tôi biết là cô có thích được làm việc cho bà nhà tôi không?” Tôi có thích làm việc cho vợ ông hay không à? Hừm, nói sao nhỉ. Gà con có reo lên sung sướng khi bị diều hâu xòe móng túm không? Tất nhiên là tôi vô cùng hạnh phúc được làm việc cho vợ ông, ông già đần ạ. Mỗi khi rỗi rãi, chúng tôi đắp mặt nạ dưỡng da cho nhau và trao đổi về chuyện yêu đương của mình. Sống với Miranda chẳng khác gì một cuộc liên hoan giữa các bạn bè thân thiết, ông nên biết thế. Lúc nào cũng tràn ngập tiếng cười đùa.
“Ông Tomlinson, tôi yêu công việc của mình và rất sung sướng được làm việc cho Miranda.” Tôi nín thở, cầu cho ông già chấm dứt ở đây.
“Tốt, Mr. Tomlinson rất xúc động khi thấy cô yêu thích công việc đó.” Tuyệt vời, ông già lẩm cẩm ạ, thế nhưng tôi có xúc động không?
“Cảm ơn ông Tomlinson, chúc ông ăn ngon miệng.” tôi cắt lời ông trước khi ông kịp đặt câu hỏi không thể tránh được về kế hoạch của tôi vào cuối tuần, và đặt máy.
Tôi dựa lưng vào ghế và ngó dọc phòng làm việc. Emily đang nhíu mày tập trung tinh thần kiểm tra một hóa đơn 20.000 dollar thanh toán qua thẻ American Express của Miranda. Vụ Harry Potter vẫn án ngữ sừng sững trước mặt tôi, và tôi không được phép bỏ phí một giây nào, nếu còn muốn được yên ổn vào cuối tuần này.
Lily và tôi đã lên kế hoạch cuối tuần này chỉ toàn xem video. Tôi mệt mỏi vì công việc, còn Lily cũng nhức đầu vì học hành. Vì vậy, chúng tôi định cả hai hôm cuối tuần sẽ lăn ra đi văng, chỉ sống bằng bia và chip bột ngô. Không phải loại chip ít mỡ và Coca-Cola không đường. Và tuyệt đối không mặc đồ tử tế. Mặc dù chúng tôi gọi điện cho nhau liên tục nhưng từ khi chuyển đến thành phố tôi chưa thực sự dành nhiều thờì gian cho cô.
Từ hồi còn học lớp tám, chúng tôi là đôi bạn thân nhau nhất. Tôi nhìn thấy Lily khi cô ngồi khóc bên bàn căng tin. Cô vừa chuyển đến đây sống với bà và bắt đầu vào học ở trường tôi khi trước đó có dấu hiệu là bố mẹ cô không bao giờ quay lại nữa. Từ vài tháng họ theo chân ban nhạc Grateful Dead (khi sinh Lily cả hai mới mười chín tuổi và mê hút hít hơn trẻ con), để con lại cho một lũ bạn trốn nhà đi sống tại một cộng đồng ở New Mexico (mà Lily vẫn thích gọi là sống tập thể). Một năm sau vẫn chưa thâýa họ quay về, bà Lily đón cô từ cộng đồng (hay từ chỗ “lũ tà giáo” theo cách gọi của bà) về sống với mình ở Avon. Hôm Lily ngồi khóc ở căng tin là vừa lúc bà bắt cô cắt những lọn tóc xoắn thừng bẩn thỉu và mặc một chiếc áo dài mà Lily không ưa chút nào. Tôi thích kiểu cô nói chuyện, kiểu như “Câu làm rất Thiền” hay “Ta hạ áp suất chút nào” và chúng tôi nhanh chóng kết bạn. Những năm cuối ở trung học chúng tôi như hình với bóng, lên đại học chúng tôi ở chung phòng cả bốn năm ở Brown. Lily vẫn dùng dằng giữa son môi MAC hay dây chuyền bện bằng dây gai và còn hơi lập dị so với những người “bình thường” xung quanh, nhưng chúng tôi bù trừ cho nhau rất tốt. Tôi nhớ cô. Vì dạo này, khi cô viết luận án tién sĩ năm đầu và tôi vất vả như một nô lệ, chúng tôi hiếm khi thấy mặt nhau.
Tôi chỉ mong sớm đến cuối tuần. Những ngày làm việc kéo dài mười bốn giờ làm chân, tay và lưng tôi ê ẩm. Giờ đây tôi phải đeo kính thay vì dùng kính áp tròng mà tôi đã quen mười năm nay, vì mắt quá khô và mỏi. Mỗi ngày tôi hút hết một bao thuốc, chỉ sống bằng cafê Starbucks (trừ vào lương, tất nhiên) và sushi mua về (cũng trừ vào lương). Chỗ cân bị sụt sau trận kiết lị rồi cũng nhanh chóng phục hồi, nhưng chúng lại biến mất từ khi tôi bắt đầu làm việc ở Runway. Lý do có thể là không khí ở đây, hoặc sự ghẻ lạnh của mọi người trong ban biên tập đối với tất cả các thứ gì ăn được. Tôi đã bị một trận viêm xoang, da dẻ cũng tái nhợt đi trông thấy - vỏn vẹn trong vòng bốn tuần, mà tôi thì mới hai mươi ba tuổi đầu. Và Miranda còn chưa có mặt ở văn phòng đấy! Kệ thây tất cả. Tôi đáng được hưởng những ngày cuối tuần nhàn nhã lắm chứ.
Ngán ngẩm thay, thằng bé Harry Potter lại xía vào chuyện này. Miranda gọi điện từ sáng sớm. Bà không cần đến một một phút để nói ra ý muốn của mình, chỉ có tôi là lớ ngớ mãi mới diễn giải nổi lời bà. Tôi đã nhanh chóng học được một điều, đó là trong thế giới của Miranda priestly thà làm sai một việc rồi sửa sai bằng một đống thời giờ và tiền bạc, còn hơn thú nhận là không hiểu những mẹnh lệnh rối mù và khó nghe của bà rồi bắt bà nói lại lần nữa cho rõ. Khi bà làu bàu gì đó về chuyện mua quyển sách Harry Potter cho hai đứa song sinh sắp bay sang Paris là tôi có linh cảm ngay rằng nhiệm vụ này sẽ đảo lộn kế hoạch cuối tuần của tôi. Mấy phút sau, khi bà ta đột ngột đặt máy, tôi hốt hoảng ngó sang Emily.
“Trời ơi, bà ấy vừa nói gì ấy nhỉ?” Tôi rên rỉ và tự oán trách mình sao hèn nhát đến mức không dám xin Miranda nói lại lần nữa cho rõ. “Tại sao tôi không thể hiểu lấy một chữ nào từ miệng bà ta? Có phải lỗi của tôi đâu, Emily. Tiếng Anh là tiếng mẹ đẻ của tôi cơ mà. Nhất định bà ấy cố tình làm thế để tôi phát điên lên.”
Emily nhìn tôi với ánh mắt pha lẫn chán chường và thương hại như thường lệ. “Cuốn sách này ngày mai sẽ có bán ngoài hiệu, nhưng Miranda không có mặt ở đây để mua được nên bảo chị kiếm hai quyển đem ra phi trường Teterboro. Sách theo máy bay qua Paris.” Cô lạnh lùng tóm tắt lại. Và liệu hồn chớ có kêu ca gì về mệnh lệnh quỷ quái này. Tôi lập tức nhớ ra rằng Emily làm tất cả - đúng là tất cả - để Miranda vừa lòng; tôi nhứn vai và câm miệng.
Nhất định tôi sẽ KHÔNG hy sinh một giây nào trong cuối tuần cho Miranda! Và do tôi được sử dụng quyền lực và tiền bạc vô hạn (của Miranda) nên tôi cắm đầu lao vào nhiệm vụ ấy ngay để tổ chức cho Harry Potter bay sang Paris. Trước hết viết vài dòng cho Julia ở nhà xuất bản giáo dục cái đã.
Julia yêu quý,
Như trợ lý Andrea của tôi nói lại, chị là con người rất dễ mến mà tôi phải cảm ơn nồng nhiệt. Andrea nói với tôi, chịi là người duy nhất ở New York có khả năng kiếm được cho tôi vài quyển Harry Potter đáng yêu vào ngày mai. Tôi đánh giá cao cố gắng và tài trí của chị. Chị cũng phải biết là chị sẽ làm hai đứa con xinh đẹp của tôi hạnh phúc biết nhường nào. Và chị đừng ngại nói với tôi, nếu tôi làm được bất cứ gì để đền ơn một người dễ mến như chị.
Thân mến chào chị,
Miranda Priestly
Tôi nhái chữ ký của Miranda với nét bay bướm hoàn hảo (bõ công hàng tiếng đồng hồ tập ký dưới con mắt giám sát của Emily, cô cũng hướng dẫn viết chữ “a” thứ hai có nét móc hơi dài hơn), đính bức thư vào ấn bản mới nhất của Runway – chưa có ngoài sạp báo - rồi gọi người dưa thư hỏa tốc đem ngay cả gói đến văn phòng nhà xuất bản giáo dục ở trung tâm thành phố. Cú này mà không kết quả thì tài thánh cũng bó tay. Miranda không bận tâm chuyện chúng tôi mạo chữ ký - nhờ thế bà cũng bị quấy rầy bởi những tiểu tiết lặt vặt – song nếu biết tôi ký tên bà dưới một bức thư lịch thiệp và thân mật như vậy thì chắc bà sẽ nhảy chồm lên mất.
Chỉ mới trước đây mấy tuần thôi, nếu Miranda gọi điện đòi tôi làm việc gì đó cho bà vào cuối tuần thì nhất định tôi sẽ răm rắp cắt bỏ mọi kế hoạch riêng, nhưng gìơ thì tôi đã đủ kinh nghiệm – và lì lợm - để du di tí chút các quy định. Đằng nào thì ngày mai Miranda và hai đứa nhỏ cũng không có mặt ở phi trường New Jersey khi Harry Potter đến nơi, vì vậy tôi không có cớ gì mà phải tự tay đem sách ra phi trường cả. Cầm chắc là Julia sẽ nhả ra cho mình hai quyển, tôi đi ngay vào các việc cụ thể. Nhấn một vài số điện thoại, sau một vài giờ là kế hoạch hoàn tất.
Tôi chắc chắn là vài tiếng sau, Julia sẽ bật đèn xanh. Brian, trợ lý cộng tác ở nhà xuất bản giáo dục, tối nay sẽ cầm hai cuốn Harry Potter về nhà để sáng mai, thứ Bảy, không phải quay lại văn phòng. Brian sẽ gửi sách lại cho thường trực của tòa nhà Upper West Side nơi anh ở, và mười một giờ trưa mai tôi cho ôtô ghé qua lấy. Yuri, tài xế của Miranda, sẽ gọi vào số di động của tôi để báo là sau khi ấy được sách ông đang trên đường ra sân bay Teterboro. Hai cuốn sách ấy sẽ được chuyển tới phi cơ riêng của ông Tomlinson để bay qua Paris. Tôi thoáng nghĩ xem có nên đặt mã số bí mật cho vụ này giống một phim tình báo kiểu KBG, nhưng chợt nhớ ra rằng tiếng Anh của Yuri không được tử tế cho lắm. Tôi cũng đã kiểm tra khả năng gửi sách qua dịch vụ DHL để chuyển phát theo đường nhanh nhất, nhưng ở đó người ta không bảo đảm là sẽ tới trước thứ Hai, nghĩa là cách này không thể chấp nhận được. Vậy chỉ còn phi cơ riêng. Nếu mọi việc diễn ra đúng kế hoạch thì hai đứa nhỏ, Cassidy và Caroline, sớm Chủ nhật này khi thức dậy tại phòng riêng ở Paris và uống cốc sữa buổi sáng sẽ được đọc ngay chuyện mạo hiểm cảu Harry Potter - sớm hơn tất cả các bạn chúng trọn một ngày. Nghĩ đến thế là tôi đã rạo rực cả người.
Mấy phút sau khi phân xong xe cộ và lên dây cót các cá nhân liên quan, Julia gọi điện đến. Tuy là một chuyện rất mệt mỏi và có thể Julia bị lôi thôi nhg Julia đã lo được hai quyển sách cho bà Priestly và trao cho Brian rồi. Ơn Chúa lòng lành.
“Không sao tin được, hắn đính hôn rồi.” Lily hỏi khi tua lại cuốn băng Ferris Bueller mà chúng tôi vừa xem xong. “Trời ơi, tớ định nói là hắn ta mới hai mươi tư tuổi, vội vàng làm gì nhỉ?”
“Đúng thế, tớ thấy chuyện có vẻ kì quái.” Tôi trả lời từ trong bếp. “Có thể hắn không được bố mẹ cho chạm vào chỗ tài sản khổng lồ đang được ủy thác quản lý, nếu chưa ổn định được cuộc sống. Đó đủ là duyên cớ để hắn phải lồng nhân đính hôn vào ngón tay. Hoặc có thể hắn cô đơn quá cũng nên?”
Lily nhìn tôi cười. “Tất nhiên, hắn yêu và sẵn sàng sống suốt phần đời còn lại cùng cô ta là chuyện không thể xảy ra được, đúng không. Cậu cũng đồng ý với tớ là chuyện khó tin lắm, phải không?”
“Chính xác. Chuyện không tưởng. Cậu có cách giải thích nào khác không?”
“Nhất định rồi. Tớ đang vén màn cho khả năng thứ ba: hắn là một tên đồng tính và vừa mới nhận ra điều đó - mặc dù tớ biết ngay từ đầu – và cũng hiểu là bố mẹ hắn không chịu nổi cú sốc. Vì thế hắn cưới luôn cô gái đầu tiên mà hắn vớ được. Cậu nghĩ sao?”
Phim tiếp theo trong chương trình là Casablanca. Trong khi Lily tua nhanh phần giới thiệu đầu băng, tôi vào nhà bếp minỉntong căn hộ mini làm hai cốc cacao trong lò vi sóng. Cả tối thứ Sáu chúng tôi nằm ườn xác ra xem video, không làm gì thêm khác ngoài hút thuốc và chạy băng. Mãi đến chiều thứ Bảy chúng tôi mới có hứng la cà xuống khu SoHo đi shopping vài tiếng. Lily mua áo nịt mới cho buổi liên hoan giao thừa sắp tới, rôi chúng tôi uống chung một cốc kem trứng to đùng trong quán càfê bên đường. Mệt mỏi nhưng vui vẻ lê chân về đến nhà, chúng tôi bật tới bật lui tivi giữa When Harry Met Sally trên kênh TNT và Saturday Night Live. Nghỉ ngơi xả láng sau một tuần quay cuồng đã thành thông lệ, làm tôi quên khuấy vụ Harry Potter cho đến tận Chủ nhật, khi điện thoại chợt réo lên. Chết rồi, Miranda! May mà đó là điện thoại di động của Lily, cô tán chuyện tiếng Nga với ai đó, chắc là bạn cùng lớp. ơn Chúa, ơn Chúa, ơn Chú lòng lành: không phải Miranda. Nhưng việc của tôi đâu đã xong. Đã sang Chủ nhật rồi, và tôi vẫn chưa biết mấy quyển sách khốn nạn kia đã sang Paris chưa. Tôi tận hưởng cuối tuần theo quyết tâm đã vạch ra một cách say sưa đến nỗi quên cả kiểm tra công việc. Tất nhiên tôi vẫn mở điện thoại di động và để chuông ở mức to nhất, nhưng chẳng may ai đó gọi điện để báo có sự cố thì đăng nào cũng quá muộn và không làm gì được nữa. Lẽ ra hôm qua tôi nên cẩn thận phòng xa và xác định với từng người trong cuộc là mọi công đoạn trong kế hoạch chi li tuyệt vời của tôi đều ổn thỏa cả.
Tôi bới trong túi đồ đem theo, tìm chiếc điện thoại di động của Runway phát cho mà nhờ nó lúc nào tôi cũng chỉ cách Miranda bảy con số. Tìm mãi mới thấy nó ở tận đáy túi dưới mớ quần lót, rồi tôi lại lăn ra giường. Màn hình báo là ở đây ngoài vùng phủ sóng, nhưng linh tính báo cho tôi biết rằng Miranda đã gọi điện và bị nối thẳng với hộp thoại. Sao mà tôi căm thù cái điện thoại này thế. Và cái điện thoại Bang & Olufsen mới tinh ở nhà nữa. Tôi ghét cả điện thoại của Lily. Ghét tất cả điện thoại trên đời, ghét luôn ông Alexander Graham Bell đã phát minh ra nó. Làm việc cho Miranda đồng nghĩa với việc chịu đựng nhiều hiệu ứng phụ trong cuộc sống thường nhật, nhưng điên nhất là lòng căm thù vô bờ bến mà tôi dành cho các loại điện thoại.
Đa số những người khác cảm nhận tiếng chuông điện thoại như một tín hiệu vui. Ai đó tìm họ để chào hỏi, thăm sức khỏe, hay bàn kế hoạch. Với tôi thì tiếng chuông thật đáng sợ hãi và lo lắng đến đứng tim. Tuy rằng trước đây không khi nào tôi sử dụng công dụng báo cuộc gọi đợi, nhưng ký xong hợp đồng lao động ở Runway thì tôi phải bật báo cuộc gọi đợi (để Miranda không bao giờ bị nghe tín hiệu bận), hiển thị số điện gọi đến (để tránh các cuộc gọi Miranda), báo cuộc gọi đợi với số điện của người gọi (để tránh tiếp bà ta khi đang nói với người khác) và kích hoạt hộp thoại (để bà ta không nhận ra là tôi trốn bắt máy, vì ít nhất thì cũng nghe được băng ghi âm trả lời). Tất cả những dịch vụ gia tăng đó tốn 50 dollar mỗi tháng, nhưng cũng đáng đồng tiền bát gạo, vì chúng giữ cho tôi được rảnh rang đầu óc. Thật ra cũng chẳng hẳn được rảnh rang, nhưng tôi được cảnh báo.
Với điện thoại di động thì những rào cản hữu hiệu đó chanửg có ích gì. Nó có những công như điện thoại bàn, đương nhiên, nhưng Miranda cho rằng chẳng có bất cứ lý do gì để tắt nó đi cả. Tôi lúc nào cũng phải sẵn sàng nhận điện. Khi Emily trao cho tôi điện thoại – trang bị bắt buộc ở Runway – và dặn luôn mở máy, tôi đã rụt rè hỏi khi nào được tắt điện thoại, nhưng cô lập tức gạt ngay.
“Thế lúc đi ngủ thì sao?” Tôi cố hỏi một cách vô vọng.
“Thì thức dậy mà nghe điện chứ sao nữa.” cô vừa trả lời vửa giũa lại móng tay bị sứt.
“Còn nếu đang ngồi ở một nhà hàng sang trọng?”
“Thì chị làm như mỗi người New York vẫn làm: vừa ăn vừa gọi điện.”
“Ở bác sĩ phụ khoa cũng thế?”
“Bác sĩ phụ khoa có khám tai đâu?” Ok, được rồi, tôi hiểu rồi.
Tôi miễn cưỡng với cái điện thoại di động khốn nạn nhưng không lờ nó đi được. Vì nó mà tôi bị cột vào Miranda như đứa trẻ chưa được cắt rốn, rời nó ra là tôi mất dưỡng khí để tồn tại và lớn lên. Miranda gọi điện liên tục, và tôi phản xạ như con chó trong thí nghiệm của Pavlov. Reng reng – tay tự động nắm thành quả đấm, vai ưỡn lên. Reng reng reng reng. Ôi tại sao bà ta không để cho tôi yên, trời ơi, hãy quên đi là tôi có trên đời này - mồ hôi rịn ra trên trán. Những ngày cuối tuần tôi đã quên kiểm tra xem máy có trong vùng phủ sóng hay không , cứ ỷ lại là nếu có vấn để gì thì chuông đã réo. Đó là sai lầm thứ nhất. Tôi tìm khắp phòng mới tìm ra một nơi có sóng cho mạng AT&T, rồi nín thở bấm số đến hộp thoại.
Mẹ tôi để lại một tin nhắn rất đáng yêu, chúc tôi vui vẻ với Lily. Một người bạn ở San Francisco tuần này có công chuyện ở New York và gọi tôi đi chơi cùng. Chị tôi nhắc chớ quên gửi thiệp mừng sinh nhật cho ông anh rể. Và lúc tôi tưởng là tai qua nạn khỏi thì trong ống nghe vang lên giọng nói đặc Anh đáng sợ. “Aan-dree-aa. Miranda đây. Bây giờ là chín giừo sáng Chủ nhật ở Paris và hai chúa bé vẫn chưa nhận được sách. Gọi điện lại cho tôi ở khách sạn Ritz để báo chắc chắn là sách sắp đến rõ chưa. Hết.”
Tôi ức nổ con ngươi. Như mọi khi, không có một lời thân thiện, không chào hỏi, tạm biệt hay cảm ơn. Chuyện đương nhiên. Nhưng dở nhất là đã gần nửa ngày trôi qua từ khi có tin nhắn mà tôi vẫn chưa gọi điện lại cho bà. Đủ lý do để bị sa thải, tôi biết, và đó là chuyện bất khả kháng. Như một kẻ nghiệp dư, tôi đã ỷ lại kế hoạch tôi đã vạch ra rất hoàn hảo, thậm chí chẳng thèm để ý là Yuri không gọi điện lại để báo đã lấy sách và đem tới sân bay. Tôi vội tra dnah bạ trong máy và gọi ngay vào điện thoại di động của Yuri. Miranda tất nhiên cũng trang bị cho Yuri một chiếc để sẵn sàng nhận lệnh 24/24.
“Alô Yuri, Andrea đây. Xin lỗi đã quấy quả ông vào Chủ nhật. Tôi chỉ muốn hỏi hôm qua ông đã lấy sách ở địa chỉ đã nói chưa?”
“Alô Andy, rất vui được nghe tiếng cô,” giọng Nga ngọng nghịu của ông như an ủi tôi. Ngay từ khi gặp tôi lần đầu ông đã gọi tôi bằng cái tên Andy thân mật, như một ông chú trong nhà vậy, nghe dễ cảm tình chứ không như Mr. Mờ-Cờ-Đờ. “Tất nhiên tôi đi lấy sách đúng như lời cô dăn. Tôi muốn giúp cô mà.”
“Vâng, vâng, Yuri, chỉ vì Miranda vừa nhắn tin cho tôi là bà ấy vẫn chưa nhận được sách, và tôi không biết là đã xảy ra chuyện gì.”
Yuri im lặng một lát, sau đó ông đưa tôi tên và số máy của phi công lái chuyến máy bay riêng tối qua.
“Cám ơn, cám ơn ông rất nhiều,” tôi nói và vôi vàng nguệch ngoạc ghi lại. Hy vọng là tay phi công giúp tôi tiếp. “Tôi phải gọi điện ngay. Xin lỗi không nói chuyện tiếp được, chúc ông cuối tuần vui vẻ.”
“Chúc cô cuối tuần vui vẻ, Andy. Tôi tin là anh phi công sẽ giiúp chị tìm được sách. Chúc chị may mắn.” ông hớn hở nói và cúp máy.
Lily đang làm bánh quế. Tôi cũng muốn phụ cô một tay, nhưng tôi phải giải quyết vụ này ngay, không thì mất việc như bỡn. Có thể tôi đã mất việc rồi cũng nên, chỉ tội chưa ai nói với tôi mà thôi. Ở vương quốc Runway này đã từng xảy ra chuyện một biên tập viên thời trang bị đuổi việc khi đang hưởng tuần trang mật. Và cô ta cũng chỉ biết tin đó khi tình cờ đọc tờ Thời trang Phụ nữ Hằng ngày ở đảo Bali. Tôi vội nhấn số điện thoại của tay phi công mà Yuri vừa đưa cho. Bực thật, chỉ gặp tin nhắn tự động.
“Alô Jonathan, đây là Andrea Sachs ở tạp chí Runway. Tôi làm trợ lý cho Miranda Priestly, và định hỏi ông về chuyến bay hôm qua. Ồ, bây giờ tôi mới nhớ ra là có khi ông vẫn còn ở Paris hoặc đang trên đường về. Vâng, tôi chỉ muốn hỏi xem mấy quyển sách, vâng, tất nhiên là cả ông nữa, đã hạ cánh an toàn xuống Paris chưa. Phiền ông gọi lại cho tôi theo số 917-555-8702, càng sớm càng tốt. Cảm ơn ông. Bye bye.”
Tôi suy nghĩ, liệu có nên gọi cho lễ tân của khách sạn Ritz và hỏi có ai nhớ đã nhận được sách từ sân bay tư nhân ngoại ô Paris chuyển đến, nhưng lại sực nhớ ngay rằng điện thoại của tôi không gọi ra nước ngoài được. Thế đấy, hàng đống công dụng, nhưng tất nhiên riêng cái tôi cần thì không có. Đúng lúc đó Lily cất tiếng gọi, cô đã làm xong cho tôi một đĩa bánh quế và cafê. Tôi vào bếp lấy đồ ăn. Cô đang nhấm nháp một ly Martini đỏ. Khiếp quá. Ai lại uống rượu vào sáng Chủ nhật cơ chứ?
“Lại có chuyện gì với Miranda rồi hả?” Cô nói với giọng thông cảm.
Tôi gật. “Tớ nghĩ rằng lấn này chẳng còn gì để cứu vớt nữa.” Tôi khoan khoái đón lấy đĩa đồ ăn. “Chắc tớ mất việc rồi.”
“Ồ cưng, lúc nào cậu cũng nói thế. Bà ấy sẽ không đuổi cậu đâu. Thậm chí bà ấy còn chưa thấy cậu làm việc vất vả ra sao. Bà ấy khôn ngoan thì nên giữ cậu. Cậu đúng là có công việc thú vị nhất thế giới!”
Tôi nghi ngại nhìn cô và ép mình phải giữ bình tĩnh.
“Tớ nói có đúng không?” Cô nói. “Bà Miranda của cậu nghe có vẻ khó chiều và hơi điên điên. Nhưng có ai lại không thế? Bù lại thì cậu nhận được khối giày dép, mỹ phẩm, quần áo và làm đầu miễn phí. Chỉ tính riêng quần áo thôi! Có ai trên thế giới này được tặng quần áo mốt mới nhất, chỉ vì hàng ngày có mặt ở nơi làm việc? Andy, cậu đang làm việc ở Runway, hiểu chưa nào? Hàng triệu cô gái sẵn sàng chết vì việc của cậu đấy.”
Tôi hiểu. Giờ thì tôi hiểu ra rằng Lily - lần đầu tiên kể từ khi tôi gặp cô chín năm trước đây - chẳng hiểu gì cả. Giống như mọi bạn bè và người quen khác của tôi, cô chỉ khoái nghe những chuyện giật gân về máy cô ả ngồi lê đôi mách và những người giàu có mà tôi lượm lặt trong tuần ở Runway, chứ không thực sự thấu hiểu lý do tại sao hằng ngày tôi phải vác xác đến đó. Không phải vì mấy thứ quần áo miễn phí. Chẳng có thứ quần áo nào trên đời khả dĩ làm công việc của tôi dễ chịu hơn. Chắc chắn đã đến lúc tôi phải làm cho cô bạn thân nhất đời mở mắt ra, để cô nhìn thấy tình cảnh của tôi. Phải nói cho cô biết. Đúng thế! Đã đến lúc giải thích cho mọi người hiểu chính xác những gì diễn ra ở đó. Tôi mở miệng toan bắt đầu, đúng lúc âýa, điện thoại của tôi réo chuông.
Đồ chết tiệt! Tôi chỉ muốn ném nó vào tường cho bõ ghét, chỉ muốn nói với người đầu dây bên kia hãy im đi cho tôi nhờ. Nhưng trong thâm tôi vẫn hy vọng là Jonathan gọi đến báo tin gì đó. Lily mỉm cười và giục tôi bắt máy.
“Có phải Andrea không?” Giọng đàn ông hỏi.
“Jonathan phải không ạ?”
“Đúng thế. Tôi vừa nghe hộp thoại và nhận được tin nhắn của chị. Tôi đang trên chuyến bay về từ Paris, đâu đó trên Đại Tây Dương. Nghe giọng chị có vẻ lo lắng nên tôi muốn gọi lại ngay.”
“Cảm ơn, cảm ơn ông, tôi rất biết ơn ông. Đúng là tôi có chuyện lo lắng thật, vì tôi nhận được điện thoại của Miranda sớm nay, bà ấy nói là chưa nhận được gói quà. Ông đã đưa gói đó cho tài xế ở Paris rồi, đúng không ạ?”
“Chắc chắn như vậy. Chị biết không, trong nghề này tôi ít khi đặt câu hỏi, nhưng bỏ công bay qua Đại Tây Dương chỉ để chuyển một gói quà nhỏ thì không phải ngày nào cũng làm. Chắc là thứ gì quan trọng lắm, tôi nghĩ thế. Một bộ phận để phẫu thuật ghép tạng chẳng hạn, hay tài liệu mật. Vì vậy tôi rất cẩn trọng và trao gói cho tài xế như người ta đã dặn tôi. Ông tài xế của khách sạn Ritz rất tốt. Không có vấn đề gì.”
Tôi cảm ơn ông và tắt máy. Lễ tân ở Ritz đã bố trí cho lái xe ra phi cơ riêng của Mr. Tomlinson ở sân bay Charles de Gaulle và đem sách về khách sạn. Nếu mọi việc đều diễn ra đúng kế hoạch thì Miranda phải nhận được sách lúc bảy giờ sáng giờ địa phương rồi mới phải. Bây giờ thì ở Pháp đã lầ buổi chiều muộn, tôi không tưởng tượng ra có thể có chyện trục trặc gì. Không còn sự lựa chọn nào khác là phải gọi điện cho lễ tân ở Ritz, và do máy di động của tôi không gọi ra nước ngoài được nên tôi phải đi tìm một điện thoại khác.
Tôi vào bếp và dốc cả đĩa bánh nguội ngắt vào thùng rác . Lily đã lại lăn ra đi văng, nửa thức nửa ngủ. Tôi ôm từ biệt Lily và hứa sẽ gọi điện lại .
“ Kế hoạch hôm nay thì sao?” cô rên lên. “ Tớ đã cho băng The American President vào máy rồi, chỉ cần bấm nút nữa thôi. Cậu không được bỏ đi, ngày cuối tuần của chúng mình đã hết đâu!”
“ Tớ biết, Lily, xin lỗi cậu. Tớ phải làm việc này ngay. Tớ không ước gì hơn là được ở lại đây, nhưng lúc này thì bà ấy đã nắm được gáy tớ. Tớ gọi điện cho cậu ngay nhé?” Tôi nói và ra đường gọi taxi về văn phòng.
Văn phòng vắng ngắt, tất nhiên, chắc chắn mọi người đang ngồi với người yêu là các chủ ngân hàng đầu tư ở Paris. Tôi ngồi trong phòng tối mò, hít sâu một hơi và bấm số. May mắn thay, người nhận điện là ông Renaud, người tôi quen nhất ở khách sạn Ritz.
“ Andrea thân mến, chị có khỏe không? Chúng tôi rất vui mừng được đón tiếp Miranda và hai cô bé song sinh quay lại sớm như vậy,” ông ta nói dối trơn tru. Emily đã kể với tôi rằng Miranda thường xuyên ở Ritz và nhân viên ở đó biết rõ tên bà và hai đứa con gái.
“ Vâng , thưa ông Renaud, tôi cũng biết là Miranda thích ở đó lắm,” tôi cũng nói dối lại, thừa biết là ông già tội nghiệp này có cố gắng đến mấy thì Miranda cũng luôn có cớ gì đó để phàn nàn. Cũng phải công nhận là ông không bao giờ ngừng cố gắng hoặc không bao giờ ngừng nói dối là ông rất quý Miranda.
“Chiếc ô tô mà ông sai đến chỗ phi cơ của Miranda đã quay về đến khách sạn chưa?”
“Tất nhiên rồi, thưa chị. Trước đây mấy tiếng rồi. Tôi tin là trước tám giờ sáng nay. Tôi đã cử lái xe cừ nhất của khách sạn làm việc này,” giọng ông đầy kiêu hãnh. May mà ông không biết lái xe cừ nhất của ông phải lòng vòng quanh thành phố để làm gì…
“ Lạ thật. Vì tôi nhận được một cú điện thoại của Miranda, bà ấy nói là chưa nhận được gói hàng. Nhưng tôi đã kiểm tra hết cả rồi, ông lái xe thề là đã đưa hàng đến sân bay, tay phi công thề là đã bay tới Paris và đưa nó cho tài xế của ông, ông thì vừa nói là gói ấy đã đến khách sạn. Thế thì tại sao bà ấy chưa nhận được nhỉ?”
“ Có lẽ cách duy nhất để làm sáng tỏ chuyện này là hỏi thẳng bà ấy,” ông tung tẩy với giọng vui vẻ giả cầy. “ Tôi nối máy cho chị nhé?”
Cho đến lúc đó tôi vẫn ngoan cố hy vọng sẽ giải quyết ổn thỏa mọi chuyện mà không phải nói chuyện với Miranda. Tôi biết nói gì với bà, một khi bà khăng khăng chưa hề nhận được gói hàng ? Chẳng lẽ gợi ý bà chạy ra xem trên bàn ngoài hành lang, liệu nhân viên khách sạn có đem sách đến đó trước đây mấy tiếng? Hay bà ấy yêu cầu tôi từ giờ đến tối đi kiếm hai quyển Harry Potter mới rồi gửi máy bay riêng qua Paris? Hoặc tốt nhất là lần sau tôi thuê một thám tử luôn ôm chặt quyển sách trên chuyến bay vượt đại dương và bảo đảm với tôi không có gì phương hại đến nó.
“ Vâng, thưa ông Renaud, cám ơn ông.
Có tiếng lích kích nối máy, rồi tiếng tút dài. Tôi căng thẳng rịn mồ hôi, chùi bàn tay ướt dâm dấp vào chiếc quần thể thao và cố không nghĩ đến hậu quả gì xảy ra nếu Miranda thấy tôi mặc bộ đồ xộc xệch này tới văn phòng. Bình tĩnh nào, có gì phải sợ, tôi tự nhủ, bà ấy không thể chặt đầu mình qua điện thoại được đâu.
“ Ai đấy?” Tiếng nói xa lắc dứt tôi khỏi ý nghĩ tự an ủi. Đó là Caroline, con bé mới hơn mười tuổi nhưng đã học được giọng gọi điện rất hách dịch của mẹ nó một cách hoàn hảo. Cassidy ít nhất còn nói “ A lô” khi nhấc máy.
“ A lô, cưng à,” tôi ẽo ợt, tự cảm thấy xấu mặt vì phải giở giọng nịnh nọt với con nhãi ranh. “ Chị là Andy ở văn phòng đây. Mẹ có nhà không?”
“ Đợi đấy, em đi gọi.”
Một lát sau Miranda lên tiếng. “ Aan-dree-aa? Tôi hy vọng hộ chị đây là chuyện quan trọng. Chị biết là tôi không muốn bị quấy rầy khi đang ở bên bọn trẻ,” giọng bà lạnh lùng và ngang tai như thường lệ. Tôi suýt nghẹn. Chị biết là tôi không muốn bị quấy rầy khi đang ở bên bọn trẻ? Thiếu chút nữa thì tôi hét lên. Bà có định đùa với tôi không đấy? Bà tưởng tôi gọi điện để giải trí hay sao? Bà tưởng tôi đau khổ vì suốt hai ngày cuối tuần không được nghe cái giọng khốn nạn của bà hay sao? Còn tôi có bị quấy rầy hay không thì bà chẳng cần quan tâm chứ gì? Tôi giận điên người, nhưng vẫn hít một hơi thật sâu và nhẹ nhàng trả lời.
“ Miranda, xin lỗi, tôi biết là không phải lúc, nhưng tôi đã gọi điện khắp nơi để lo chuyện gửi quyển Harry Potter cho ổn thỏa. Tôi nghe tin nhắn là bà chưa nhận được, nhưng tôi đã nói chuyện với mọi người và …”
Bà chặn lại giữa câu hỏi của tôi, trả lời chậm rãi và tự tin: “Aan-dree-aa. Lần sau chị phải chú ý nghe cho thủng. Tôi không hề nói câu nào như vậy. Sáng sớm nay tôi đã nhận được gói hàng , sớm đến nỗi nhân viên phải đánh thức tôi dậy để nhận cái đồ ngớ ngẩn này.”
Tôi choáng váng không tin vào tai mình nữa. Chẳng lẽ tôi nằm mơ thấy tin nhắn, hay mới tuổi này mà tôi đã sớm mắc chứng Alzheimer?
“ Tôi gọi vì lý do khác, đó là trong gói không phải là hai quyển Harry Potter như tôi đã yêu cầu. Chỉ có một quyển thôi, và chị có thể tưởng tượng ra là hai cháu bé thất vọng đến chừng nào. Chúng nó được tôi hứa là mỗi đứa được một quyển riêng. Tôi muốn chị giải thích tại sao yêu cầu của tôi không được đáp ứng chính xác.”
Không thể. Không thể thế được. Đúng là tôi nằm mơ thật rồi, đúng là tôi sống ở một thế giới khác, một thế giới không biết đến phải trái và logic là gì. Ngay chính tôi cũng chẳng dám tin vào những gì trái khoáy đã xảy ra.
“ Miranda, tôi nhớ là bà muốn có hai cuốn, và tôi cũng đặt hai cuốn,” tôi lắp bắp, lại lần nữa tự căm ghét mình cứ phải cố gắng chiều lòng bà ta. “ Tôi nói chuyện với bên nhà xuất bản và tôi tin họ hiểu rằng bà cần hai quyển. Không thể tưởng tượng …”
“Aan-dree-aa, chị biết tôi không ưa nghe lý do lý trấu, bây giờ tôi cũng chẳng hứng thú nghe chị kể lể làm gì. Tôi mong là không bao giờ xảy ra những chuyện tương tự một lần nữa, được không? Hết.” Bà cúp máy.
Tôi đứng đực ra, dễ có đến năm phút, tai vẫn áp vào ống nghe và nghe tiếng tút tút liên tục. Trong đầu tôi quay cuồng hàng nghìn câu hỏi. Tôi sẽ giết chết bà ta! Và liệu có ai điều tra được nguyên nhân không? Liệu tôi có nhất thiết là nghi phạm chính? Nhất định không, bởi vì nói cho cùng thì mọi người – ít nhất là ở Runway – ai cũng có động cơ muốn giết bà ta. Liệu tôi có thực sự đủ dũng cảm nhìn bà ta quằn quại giãy chết một cách từ từ và đau đớn? Câu trả lời rất đơn giản: có. Tôi chỉ còn phải nghĩ ra một phương pháp khoái trá nhất để đưa bà ta xuống suối vàng.
Tôi chậm chạp đặt ống nghe xuống. Tôi có thể hiểu sai tin nhắn trong hộp thoại của bà ta sáng nay không? Tôi móc di động ra và nghe lại tin nhắn: “ Aan-dree-aa. Miranda đây. Bây giờ là chín giờ sáng Chủ Nhật ở Paris và hai cháu bé vẫn chưa nhận được sách. Gọi điện lại cho tôi ở khách sạn Ritz để báo chắc chắn rằng là sách sắp đến rõ chưa. Hết.” Tôi không làm gì sai cả. Tất nhiên, rất có thể là bà ấy chỉ nhận được một cuốn chứ không phải hai, nhưng bà ta đã gián tiếp nói đó là lỗi của tôi, một lỗi lầm kinh khủng có thể chấm dứt sự nghiệp. Bà ta gọi điện lúc chín giờ sáng và không thèm biết rằng lúc đó ở đây mới ba giờ rạng sáng một ngày Chủ Nhật ngon lành nhất trong tháng của tôi. Bà gọi điện để chọc cho tôi điên lên, làm tôi quay cuồng, thúc tôi phản kháng. Để tôi căm thù bà hơn gấp bội.