Percy Jackson Tập 4: Cuộc Chiến Chốn Mê Cung
Chương 10
Trăng tròn vằng vặc. Những đám mây bạc trôi lững lờ trên bầu trời.
“Giờ này Minos đáng lẽ phải ở đây rồi,” Nico cau mày khó chịu. “Trời đã tối hẳn rồi.”
“Có thể ông ta bị lạc,” tôi nói đầy hy vọng.
Nico rót bia và ném thịt nướng vào trong hầm, sau đó bắt đầu niệm chú bằng tiếng Hy Lạp cổ. Ngay lập tức tiếng côn trùng kêu trong rừng im bặt. Trong túi quần, chiếc còi gọi chó làm từ băng của sông Styx càng lúc lạnh, làm một bên chân tôi tê buốt.
“Bảo cậu ta ngừng lại,” Tyson thì thầm với tôi.
Một phần trong tôi cũng đồng ý với Tyson. Điều này trái với tự nhiên. Bầu không khí ban đêm lạnh lẽo và hăm dọa. Nhưng trước khi tôi kịp nói bất cứ điều gì, những linh hồn đầu tiên đã xuất hiện. Làn khói địa ngục rỉ ra từ dưới mặt đất. Các hình bóng đó bắt đầu đậm dần biến thành hình dáng con người. Một cái bóng màu xanh trôi về phía rìa hố và quỳ xuống để uống.
“Ngăn hắn” Nico nói, gián đoạn lời thần chú. “Chỉ có Bianca mới được uống!”
Tôi rút thanh Thủy triều ra. Những con ma lui về với tiếng kêu xì xì ngay trước mũi lưỡi kiếm đồng celestial của tôi. Nhưng đã quá muộn để ngăn linh hồn đầu tiên lại. Hắn đã biến thành hình dạng của một người đàn ông có râu trong chiếc áo choàng màu trắng. Hắn đội một vòng bằng vàng trên đầu, và mặc dù đã chết nhưng đôi mắt hắn vẫn đầy còn toát ra vẻ gian ác.
“Minos!” Nico nói. “Ngươi làm cái gì thế?”
“Xin lỗi, chủ nhân,” hồn ma nói, mặc dù hắn chẳng có vẻ gì là xin lỗi cả. “Món hiến tế thơm quá, tôi không cầm lòng được.” Hắn giơ tay lên xem xét rồi mỉm cười. “Lại được nhìn thấy chính mình thật là thích! Ở trong hình dạng gần như nguyên vẹn...”
“Ngươi đang phá vỡ nghi lễ đấy!” Nico giận dữ. “Biến...”
Những vong hồn bắt đầu sáng lên, một thứ ánh sáng lờ mờ đầy nguy hiểm, và Nico phải tiếp tục đọc thần chú để giữ cho chúng không lại gần.
“Đúng, làm thế đúng đấy, thưa chủ nhân,” Minos nói với vẻ vui thích. “Ngài cứ tiếp tục đọc thần chú đi. Tôi tới chỉ để bảo vệ ngài khỏi những kẻ dối trá lừa dối ngài thôi.”
Hắn quay người nhìn về phía tôi như thể tôi là một loài gián bẩn thỉu nào đó vậy. “Percy Jackson... chà chà. Những đứa con trai của Poseidon qua bao thế kỷ cũng chẳng tiến bộ được mấy nhỉ?”
Tôi muốn đấm hắn, nhưng tôi nghĩ nắm đấm của tôi sẽ chỉ xuyên qua mặt hắn mà thôi. “Chúng ta đang tìm Bianca di Angelo,” tôi nói. “Biến đi.”
Con ma cười mỉa. “Tao biết mày từng giết con Minotaur của tao bằng tay không. Nhưng những thứ kinh khủng hơn đang đợi mày dưới mê cung đấy. Mày thực sự nghĩ Daedalus sẽ giúp mày à?”
Những hồn ma khác nhao nhao lên ủng hộ. Annabeth rút dao ra và giúp tôi giữ chúng cách xa khỏi cái hố. Grover thì đang lo lắng đến nỗi phải bám dính vào vai Tyson.
“Daedalus chẳng quan tâm gì tới các ngươi đâu, các con lai à,” Minos cảnh báo. “Các ngươi không nên tin hắn ta. Hắn ta già khú rồi, và xảo trá nữa. Hắn ta cay đắng với mặc cảm tội lỗi vì đã giết người và bị các vị thần nguyền rủa.”
“Mặc cảm tội lỗi vì đã giết người ư?” Tôi hỏi. “Ông ấy đã giết ai
“Đừng có đánh trống lảng!” con ma gầm gừ. “Ngươi đang cản đường Nico. Ngươi đang cố thuyết phục cậu ấy từ bỏ mục đích của mình. Ta sẽ biến cậu ấy thành chúa tể!”
“Đủ rồi, Minos,” Nico ra lệnh.
Con ma cười nhạt. “Ông chủ, chúng là các kẻ thù của ngài. Ngài không được nghe lời chúng! Hãy để tôi bảo vệ ngài! Tôi sẽ biến đầu óc chúng thành điên dại, như tôi đã làm với những kẻ khác.”
“Những kẻ khác?” Annabeth kinh ngạc. “Ý ngươi là Chris Rodriguez? Hóa ra là ngươi à?”
“Cái mê cung là tài sản của ta,” con ma nói, “không phải là của Daedalus! Bọn khách không mời xứng đáng bị như vậy.”
“Đi đi, Minos!” Nico ra lệnh. “Ta muốn gặp chị ta!”
Con ma cố kiềm chế cơn thịnh nộ. “Xin tuân theo lệnh chủ nhân. Nhưng tôi cảnh báo ngài. Ngài không thể tin các vị anh hùng này được đâu.”
Sau đó, hắn biến vào màn sương.
Những linh hồn khác lao về phía trước, nhưng tôi và Annabeth ngăn chúng lại.
“Bianca, xuất hiện!” Nico ngâm lên. Cậu bé bắt đầu đọc thần chú nhanh hơn, và những linh hồn di chuyển không ngừng nghỉ.
“Bất cứ khi nào,” Grover thầm thì.
Sau đó một ánh sáng màu bạc lập lòe trong bụi cây – một linh hồn có vẻ sáng hơn và mạnh mẽ hơn những linh hồn khác. Nó tiến tới gần, và có một cái gì đó mách bảo tôi phải cho nó qua. Đốm sáng quỳ xuống và uống nước trong cái hố. Khi ngẩng dậy, nó hiện ra là linh hồn của Bianca di Angelo.
Những câu niệm chú của Nico ngừng dần. Tôi hạ thanh kiếm xuống. Những linh hồn khác bắt đầu xúm về phía trước, nhưng Bianca giơ hai tay lên, và chúng rút vào rừng.
“Chào Percy,” cô ấy nói.
Cô ấy trông giống hệt như lúc còn sống: một cái mũ lưỡi trai màu xanh lá đội lệch trên mái tóc đen dày, đôi mắt đen và làn da ô liu giống em trai cô ấy. Cô ấy mặc quần jeans và một chiếc áo vest bằng bạc, trang phục của Đội Thợ Săn của nữ thần Artemis. Một cây cung được đeo ở một bên vai. Cô ấy mỉm cười yếu ớt, và cả cái bóng của cô ấy rung lên.
“Bianca,” tôi nói. Giọng tôi khàhàn. Bấy lâu nay tôi vẫn thấy tội lỗi trước cái chết của cô ấy, nhưng nhìn thấy cô ấy ngay trước mặt cảm giác còn kinh khủng gấp năm lần, như thể chuyện vừa mới xảy ra thôi vậy. Tôi vẫn còn nhớ mình đã lục tung cả cái đống đổ nát còn lại của gã chiến binh bằng đồng khổng lồ mà Bianca hi sinh cả thân mình để đánh bại, vậy mà vẫn chẳng thấy tăm hơi cô ấy ở đâu.
“Anh xin lỗi,” tôi nói.
“Anh chẳng có gì phải xin lỗi cả, Percy. Đó là lựa chọn của em. Em không hối hận đâu.”
“Chị Bianca!” Nico lao ra phía trước như thể vừa mới hết bàng hoàng.
Cô ấy quay về phía em trai. Trông cô ấy khá buồn, như thể cô đang hoảng sợ thời điểm này vậy. “Chào Nico. Em cao quá nhỉ!”
“Sao chị không trả lời em sớm hơn?” cậu bé gào lên. “Em đã cố gắng suốt hàng tháng trời!”
“Còn chị thì hy vọng rằng em sẽ bỏ cuộc.”
“Bỏ cuộc ư?” Giọng cậu bé nghe như vô cùng đau khổ. “Sao chị có thể nói thế? Em đang cố gắng để cứu chị!”
“Em không thể, Nico. Đừng làm thế. Anh Percy nói đúng đấy.”
“Không, anh ta để cho chị phải chết! Anh ta không phải là bạn chị.”
Bianca giơ tay ra như để chạm vào mặt cậu em trai, nhưng cô ấy là sương khói. Tay cô ấy bốc hơi khi chạm gần đến da con người.
“Em phải nghe chị,” cô ấy nói. “Mang trong mình sự oán giận là vô cùng nguy hiểm đối với những đứa con của thần Hades. Đó là sai lầm chí tử của chúng ta. Em cần phải biết tha thứ. Em phải hứa với chị điều này.”
“Em không thể. Không bao giờ.”
“Anh Percy đã rất lo lắng cho em, Nico. Anh ấy có thể giúp. Chị đã để anh ấy biết tình hình của em, và hy vọng rằng anh ấy sẽ tìm thấy em.”
“Vậy hóa ra chính là em à,” tôi nói. “Em đã gửi đi những thông điệp Iris đó.”
Bianca gật đầu.
“Sao chị lại giúp anh ta mà không phải là em?” Nico gào lên. “Thế là không công bằng!”
“Giờ em đã đến gần với sự thật rồi,” Bianca nói với cậu bé. “Không phải em bực mình với Percy, Nico. Mà là với chị.”
“Em bực bội vì chị đã bỏ em lại, để trở thành Thợ Săn của nữ thần Artemis. Em bực mình vì chị ra đi để lại em một mình. Chị xin lỗi về điều đó, Nico. Chị thực sự xin lỗi. Nhưng em phải vượt qua được sự bực tức này. Và ngừng việc đổ lỗi cho Percy vì những quyết định của chị. Vì nó sẽ là cái chết của chính em.”
“Cô ấy nói đúng đấy,” Annabeth chen vào. “Kronos đang sống lại, Nico. Hắn sẽ lợi dụng bất cứ ai để đạt được mục đích.”
“Tôi chẳng quan tâm Kronos,” Nico nói. “Tôi chỉ muốn chị tôi quay trở lại.”
“Điều đó là không thể, Nico,” Bianca nói nhẹ nhàng.
“Em là con trai của thần Hades! Em có thể.”
“Đừng cố,” cô ấy nói. “Nếu em yêu chị thì đừng...”
Giọng cô ấy tắt dần. Các linh hồn bắt đầu tụ tập quanh chúng tôi lần nữa, và dường như chúng đang hoảng sợ. Những cái bóng lập lòe và cất tiếng thì thầm: Nguy hiểm!
“Tartarus đang chuyển động,” Bianca nói. “Sức mạnh của em đã thu hút sự chú ý của Kronos. Đã đến lúc các linh hồn trở về với Địa Ngục. Bọn chị không thể an toàn ở đây được nữa.”
“Chờ đã,” Nico nói. “Xin chị đấy...”
“Tạm biệt, Nico,” Bianca nói. “Chị yêu em. Nhớ những lời chị nói nhé.”
Hình dáng cô ấy tan dần và những con ma khác cũng biến mất, để lại chúng tôi với một cái hố, một cái thùng rác tự hoại Dội Rửa Hạnh Phúc và một vầng trăng tròn lạnh lẽo.
Chẳng ai trong chúng tôi thiết tha muốn lên đường đêm hôm đó, vì thế chúng tôi quyết định chờ đến sáng hôm sau. Grover và tôi gieo mình vào chiếc ghế bành da trong phòng khách của Geryon. Nó thoải mái hơn rất nhiều so với túi ngủ trong mê cung; nhưng nó cũng chẳng thể làm cho cơn ác mộng của tôi tốt hơn chút nào cả.
Tôi mơ thấy mình đang cùng Luke đi xuyên qua lâu đài tối tăm trên đỉnh Núi Tam. Bây giờ nó thực sự là một tòa nhà – không còn là một vài hình ảnh hư hư ảo ảo không hoàn chỉnh như tôi thấy hồi mùa đông năm ngoái nữa. Lửa xanh cháy trong những lò than chạy dọc theo tường. Sàn nhà được lót đá cẩm thạch đen sáng bóng. Một ngọn gió lạnh thổi dọc hành lang, bay qua đầu chúng tôi và xuyên qua trần nhà đang mơầu trời vần vũ với những đám mây xám xịt.
Luke đang mặc đồ chiến binh. Hắn mặc một chiếc quần lính, áo phông trắng và giáp che ngực bằng đồng, nhưng thanh kiếm của hắn, thanh Backbiter, lại không ở bên – chỉ là cái bao kiếm bỏ không. Chúng tôi đi vào một cái sân nhỏ nơi có hàng tá chiến binh và dracaenae đang chuẩn bị cho chiến tranh. Khi nhìn thấy hắn, các á thần đứng dậy và tạo sự chú ý. Bọn họ đập kiếm vào khiên uỳnh uỳnh.
“Giiiiiiờ đã phải lúc chưa, Chúa tể?” một dracaena hỏi.
“Sắp rồi,” Luke hứa. “Tiếp tục làm việc đi.”
“Thưa chúa tể,” một giọng nói vang lên từ đằng sau. Kelli – ả ma nữ đang cười với hắn. Tối hôm nay cô ta mặc một bộ đầm xanh, trông cô ta cực kỳ xinh đẹp. Đôi mắt cô ta long lanh – lúc thì màu nâu sậm, lúc chỉ hoàn toàn là màu đỏ. Tóc cô ta được tết ngang lưng và dường như muốn níu lấy ánh sáng từ những cây đuốc, như thể nó đang nóng lòng được trở lại thành lửa.
Tim tôi đập thình thịch. Tôi chờ Kelli nhìn thấy tôi và đuổi tôi ra khỏi giấc mơ như cô ta từng làm trước đây, nhưng có vẻ lần này cô ta đã không chú ý đến tôi.
“Anh có khách đấy,” cô ta nói với Luke. Kelli bước sang một bên, và ngay cả Luke dường như cũng sững sờ trước những gì hắn nhìn thấy.
Con quái vật Kampê bay vèo về phía hắn. Những con rắn của Kampê phì phì quanh chân bà ta. Những cái đầu động vật gầm gừ quanh hông mụ. Hai thanh kiếm của bà ta tỏa ra chất độc, và với đôi cánh dơi sải rộng, bà ta chắn hết toàn bộ hành lang.
“Ngươi.” Giọng Luke có phần run run. “Ta nói ngươi phải ở Alcatraz cơ mà.”
Mắt Kampê chớp ngang như mắt loài bò sát. Bà ta nói bằng một thứ tiếng kỳ quái, nhưng lần này tôi hiểu, đâu đó từ sâu trong tâm trí tôi: Tôi đến để phục vụ đây. Hãy để tôi trả thù.
“Ngươi là cai ngục,” Luke nói. “Công việc của ngươi...”
Tôi sẽ tiêu diệt chúng. Không ai có thể thoát được.
Luke chần chừ. Một dòng mồ hôi chảy xuống một bên mặt của hắn ta. “Tốt lắm,” hắn nói. “Ngươi sẽ đi với chúng ta. Ngươi sẽ mang sợi dây của Ariadne. Đây là niềm vinh dự lớn lao đấy.”
Kampê hướng lên bầu trời đầy sao và rít phì phì. Mụ ta tra kiếm vào bao và quay đi dọc hành lang trên đôi chân rồng khổng lồ.
“Đáng lẽ chúng ta nên để con quái vật đó ở Tartarus mới phải,” Luke làu bàu. “Mụ ta quá phiền hà. Quá mạnh.”
Kelli cười nhẹ nhàng. “Anh không được sợ hãi trước sức mạnh, Luke. Hãy sử dụng nó!”
“Chúng ta phải đi càng sớm càng tốt,” Luke nói. “Ta muốn kết thúc chuyện này.”
“Ôi,” Kelli tỏ ra thông cảm, vuốt lên tay hắn ta. “Anh thấy khó chịu khi phải tiêu diệt chính doanh trại trước đây của mình đúng không?”
“Ta không nói thế.”
“Anh sẽ không đổi ý về, gì nhỉ, một phần đặc biệt của anh chứ?”
Mặt Luke trở nên sắt đá. “Ta biết nhiệm vụ của mình.”
“Vậy là tốt,” con quái vật nói. “Anh có nghĩ đội quân tiên phong của chúng ta đã đủ mạnh chưa? Hay là ta phải gọi Mẹ Hecate đến giúp?”
“Quá đủ rồi,” Luke tỏ vẻ dứt khoát. “Cuộc thương lượng đã gần như ngã ngũ. Tất cả những gì ta cần bây giờ là đi qua được đấu trường một cách an toàn.”
“Ừm,” Kelli nói. “Thú vị đấy. Tôi sẽ rất buồn nếu phải nhìn thấy cái đầu đẹp trai của anh treo trên ngọn giáo khi anh thất bại.”
“Ta sẽ không thất bại. Và cô, ác quỷ, cô không có việc gì khác để làm à?”
“Ồ, có chứ.” Kelli mỉm cười. “Tôi sẽ đem niềm tuyệt vọng đến cho kẻ thù đang nghe lỏm chúng ta. Ta sẽ làm việc đó ngay bây giờ.”
Mắt cô ta hướng về phía tôi, để lộ những móng vuốt và rạch vào giấc mơ của tôi.
Đột nhiên tôi ở một nơi hoàn toàn khác.
Tôi đang đứng trên đỉnh một tòa tháp bằng đá, nhìn ra một vách đá và sâu dưới đó là đại dương bao la. Người đàn ông già Daedalus đang còng người trước một cái bàn làm việc, đánh vật với một loại dụng cụ hàng hải nào đó giống như chiếc la bàn khổng lồ vậy. Trông ông ta già hơn rất nhiều so với lần cuối cùng tôi gặp ông. Dáng Daedalus còng còng và đôi bàn tay thì nhăn nheo. Ông ta chửi rủa bằng tiếng Hy Lạp cổ và nheo mắt như thể ông không thể nhìn thấy gì, mặc dù lúc đó trời đang nắng.
“Chú!” một giọng nói
Một cậu bé khoảng bằng tuổi Nico tươi cười lao tới, mang theo một cái hộp làm bằng gỗ.
“Chào, Perdix,” người đàn ông già nói, mặc dù nghe giọng ông vẫn rất lạnh lùng. “Đã xong việc rồi à?”
“Vâng thưa chú. Dễ quá mà!”
Daedalus quạu lại. “Dễ à? Đem nước lên đồi trong khi không có lấy một cái bơm là dễ sao?”
“Vâng, đúng thế. Nhìn này!”
Cậu bé thả chiếc hộp và lục lọi đống đồ lổn nhổn bên trong. Cậu nhóc lôi ra một cuộn giấy cói và đưa cho nhà phát minh già xem một vài biểu đồ và ghi chú. Chúng chẳng có ý nghĩa gì với tôi, nhưng Daedalus thì gật đầu miễn cưỡng. “Ta thấy rồi. Không tệ.”
“Nhà vua thích nó!” Perdix nói. “Ông ấy nói cháu có thể còn thông minh hơn chú đấy!”
“Ông ta nói vậy sao?”
“Nhưng cháu không tin điều đó. Cháu rất vui vì Mẹ gởi cháu đến học với chú! Cháu muốn biết tất cả những gì chú biết.”
“Đúng,” Daedalus lẩm bẩm. “Và khi ta chết, cậu có thể thay thế ta đúng không?”
Mắt cậu bé mở to. “À không chú ơi! Nhưng cháu đang nghĩ... tại sao con người lại phải chết nhỉ?”
Nhà phát minh nổi quạu: “Mọi việc được sắp đặt như vậy. Mọi người đều phải chết, trừ các vị thần.”
“Nhưng tại sao?” cậu bé vẫn khăng khăng hỏi. “Nếu chú có thể bắt được animus, một dạng khác của linh hồn... Ừm, không phải chú đã kể với cháu về những người máy của chú sao? Những con bò, đại bàng, rồng và ngựa bằng đồng. Vậy tại sao lại không có người đồng?”
“Không, cậu bé của ta,” Daedalus nói giọng đanh sắc. “Cậu ngây thơ quá. Không thể có chuyện đó được.”
“Cháu không nghĩ thế,” Perdix vẫn cứ khăng khăng. “Với một chút ma thuật thôi...”
“Ma thuật? Chà!”
“Vâng thưa chú! Ma thuật và cơ khí cùng nhau – chỉ cần một chút công sức, chúng ta có thể tạo ra một cơ thể giống hệt con người, chỉ có điều mạnh hơn thôi. Cháu đã viết ra một vài ghi chú về điều đó
Cậu ta đưa cho người đàn ông già một cuộn giấy dày. Daedalus mở nó ra. Ông đọc nó rất lâu. Đôi mắt ông nheo lại. Ông liếc nhìn chàng trai, rồi cuộn tờ giấy lại và hắng giọng. “Chẳng có tác dụng gì đâu, cậu bé của ta. Khi lớn lên cậu sẽ hiểu.”
“Thế cháu có thể sửa đĩa trắc cao thiên văn kia nhé chú? Các khớp xương của chú có lại sưng lên nữa không?”
Người đàn ông già nghiến chặt răng. “Không, cảm ơn. Giờ sao cậu còn chưa đi đi?”
Perdix dường như chẳng để ý đến sự tức giận của người đàn ông già. Cậu ta lôi một con bọ cánh cứng màu đồng trong đống đồ của mình và chạy tới rìa tòa tháp. Một ngưỡng cửa bao quanh và cao đến đầu gối cậu nhóc. Gió thổi rất mạnh.
Lùi lại, tôi muốn nói với cậu bé như thế, nhưng tôi không thể cất giọng lên.
Perdix vặn dây cót và tung con bọ lên trời. Nó xòe cánh và vo ve bay đi mất. Perdix cười đầy sung sướng.
“Thông minh hơn ta à,” Daedalus lẩm bẩm, nhưng quá nhỏ nên cậu bé không nghe thấy.
“Có đúng là con trai chú đã chết khi bay không? Cháu nghe mọi người nói rằng chú đã làm một đôi cánh khổng lồ cho cậu ấy nhưng nó đã bị hỏng.”
Hai bàn tay của Daedalus siết chặt lại. “Thay vị trí của ta,” ông ta lẩm bẩm.
Gió quất từng hồi quanh cậu bé, kéo giật quần áo và làm đầu tóc cậu xác xơ.
“Cháu cũng muốn bay,” Perdix nói. “Cháu sẽ tự làm cho mình một đôi cánh không bao giờ rơi. Chú nghĩ cháu có làm được không?”
Có lẽ đó chỉ là một giấc mơ trong giấc mơ của tôi, nhưng đột nhiên tôi tưởng tượng vị thần hai đầu Janus hiện ra lờ mờ trong không khí bên cạnh Daedalus, mỉm cười khi ông ta tung qua tung lại chiếc chìa khóa bạc. Chọn đi, ông ta thì thầm vào tai nhà phát minh già. Hãy chọn đi.
Daedalus nhặt một con bọ bằng kim loại khác của cậu bé lên. Mắt nhà phát minh già đỏ lên vì giận dữ.
“Perdix,” ông ta gọi. “Bắt lấy.”
Ông tung con bọ cánh cứng bằng đồng về phía cậu bé. Vui sướng, Perdix cố bắt lấy nó, nhưng cú ném quá xa. Con bọ bay lên trời và Perdix đã phải với hơi xa. Cậu bé bị gió thổi tu
Bằng cách nào đó cậu bé chộp lấy được mép tòa tháp khi ngã xuống. “Chú!” Perdix gào thét. “Cứu cháu!”
Người đàn ông già mặt không hề đổi sắc. Ông ta chẳng nhúc nhích một phân.
“Cố lên, Perdix,” Daedalus nói nhẹ nhàng. “Hãy tự làm cho mình đôi cánh đi. Nhanh lên.”
“Chú!” cậu bé khóc thét khi tuột tay khỏi rìa tòa tháp. Cậu ta bị thổi bay ra biển.
Một khoảnh khắc yên lặng đến chết người. Thần Janus mờ dần và biến mất. Rồi sấm nổ vang bầu trời. Một giọng phụ nữ nghiêm nghị từ trên cao vọng xuống: Ngươi sẽ trả giá vì điều đó, Daedalus.
Tôi đã nghe thấy giọng nói này trước đây. Đó là mẹ của Annabeth: nữ thần Athena.
Daedalus giận dữ nhìn lên bầu trời. “Tôi luôn tôn vinh người, Mẹ. Tôi đã hi sinh mọi thứ để đi theo người.”
Nhưng cậu bé cũng được nhận phúc lành của ta. Và ngươi đã giết nó. Vì thế, ngươi phải trả giá.
“Ta đã phải trả giá rồi đó thôi!” Daedalus gầm lên. “Ta đã mất tất cả. Ta sẽ phải chịu đau khổ dưới Địa Ngục thôi, chắc chắn thế. Nhưng trong khi chờ đợi...”
Ông ta nhặt cuộn giấy của cậu bé lên, nhìn kỹ nó một lúc rồi đút nó vào tay áo.
Ngươi không hiểu đâu, nữ thần Athena nói một cách lạnh lùng. Ngươi sẽ phải trả giá, bây giờ và mãi mãi.
Daedalus bỗng nhiên đổ sụp xuống trong đau đớn. Tôi cảm nhận được những gì ông ấy cảm nhận. Một cảm giác đau đớn đến khô héo quấn quanh cổ tôi giống như chiếc vòng cổ làm bằng kim loại nấu chảy. Nó làm tôi nghẹt thở, mọi thứ chuyển dần thành một màu đen kịt.
Tôi bật dậy trong bóng tối, hai tay ôm lấy cổ.
“Percy?” Grover gọi từ phía chiếc sô pha còn lại. “Cậu ổn chứ?”
Tôi điều chỉnh nhịp thở của mình. Tôi không biết phải trả lời như thế nào nữa. Tôi vừa chứng kiến người chúng tôi đang tìm kiếm, Daedalus, giết chết chính đứa cháu của mình. Thế thì sao tôi ổn được? Ti vi vẫn đang bật. Ánh sáng xanh của nó lập lòe trong căn phòng.
“Mấy... mấy giờ rồi?” tôi thều tha
“Hai giờ sáng,” Grover nói. “Tớ không ngủ được. Tớ đang xem Kênh Tự nhiên.” Cậu ấy khịt mũi. “Tớ nhớ Juniper.”
Tôi dụi dụi mắt cho tỉnh ngủ. “Ừ, được rồi,... cậu sẽ sớm gặp lại cô ấy thôi.”
Grover lắc đầu buồn bã. “Cậu có biết ngày nào rồi không, Percy? Tớ vừa nhìn thấy trên ti vi. Hôm nay là ngày mười ba tháng Sáu. Đã bảy ngày kể từ khi chúng ta rời trại rồi.”
“Cái gì?” Tôi sửng sốt. “Không thể như thế được.”
“Thời gian trôi nhanh hơn khi ở trong Mê Cung,” Grover nhắc tôi. “Lần đầu tiên cậu và Annabeth xuống dưới đó, cậu nghĩ các cậu chỉ đi có vài phút đúng không? Nhưng thực ra đã là cả tiếng đồng hồ đấy.”
“Ừ,” tôi nói. “Đúng thật.” Rồi sau đó tôi nhận ra những gì cậu ấy đang nói, cổ tôi lại nóng lên rừng rực. “Thời hạn của cậu với Hội đồng Trưởng Lão.”
Grover cho cái điều khiển ti vi vào miệng và nhai đến hết. “Tớ hết giờ rồi,” cậu ta nói với cái mồm đầy mảnh nhựa. “Ngay khi tớ quay lại, họ sẽ tước giấy phép tìm kiếm của tớ. Tớ sẽ chẳng bao giờ được phép ra ngoài nữa.”
“Chúng ta sẽ nói chuyện với họ,” tôi hứa với cậu ấy. “Để họ cho cậu thêm thời gian.”
Grover nuốt cái điều khiển. “Họ sẽ chẳng bao giờ đồng ý đâu. Thế giới đang chết dần, Percy. Mỗi ngày nó lại trở nên tồi tệ hơn. Thiên nhiên... tớ cảm thấy nó đang héo mòn dần. Tớ phải tìm thần Pan.”
“Cậu sẽ tìm được, anh bạn ạ. Chắc chắn là như thế.”
Grover nhìn tôi với đôi mắt dê buồn rười rượi. “Cậu luôn là người bạn tốt, Percy. Những gì cậu làm hôm nay – cứu cả trại gia súc khỏi tay Geryon – điều đó thật tuyệt vời. Tớ... tớ ước gì được giống như cậu.”
“Này,” tôi nói. “Đừng có nói thế. Cậu cũng rất anh hùng đấy chứ...”
“Không, không đâu. Tớ đã cố lắm, nhưng...” Cậu ấy thở dài. “Percy, tớ không thể quay về trại mà không tìm được thần Pan. Không thể. Cậu hiểu điều đó, đúng không? Tớ không thể nhìn mặt Juniper nếu tớ thất bại. Tớ cũng không còn mặt mũi nào đối diện với chính mình nữa.”
Giọng cậu ấy đau khổ đến nỗi làm người he cũng thấy đau. Chúng tôi đã cùng nhau trải qua bao nhiêu chuyện, nhưng tôi chưa bao giờ thấy cậu ấy sầu não đến như vậy.
“Chúng ta sẽ tìm được cái gì đó,” tôi nói. “Cậu chưa bao giờ thất bại. Cậu là một anh chàng dê vô địch, đúng không nào? Juniper biết điều đó. Tớ cũng thế.”
Grover nhắm mắt. “Anh chàng dê vô địch à,” cậu ấy lẩm bẩm một cách chán nản.
Sau khi cậu ấy đã ngủ một lúc lâu, tôi vẫn còn đang thức, mắt nhìn chăm chăm vào ánh sáng xanh phát ra từ Kênh Tự nhiên phủ lên những cái đầu thú nhồi đang treo trên tường nhà Geryon.
Sáng hôm sau, chúng tôi đi bộ tới chỗ người canh gia súc để nói lời tạm biệt.
“Nico, em có thể đi với bọn anh,” tôi buột miệng nói. Tôi đoán lúc đó tôi đang nghĩ về giấc mơ, và cậu bé Perdix làm tôi nhớ đến Nico.
Cậu ta lắc đầu. Tôi nghĩ tối qua chẳng ai trong chúng tôi có thể ngủ ngon trong một trại chăn nuôi của quái vật, nhưng trông Nico là tệ hơn cả. Mắt cậu ta đỏ ngàu và khuôn mặt thì trắng bệch. Cậu bé khoác trên mình một chiếc áo choàng màu đen, có lẽ trước đó thuộc về Geryon, vì ngay cả với một người trưởng thành thì chiếc áo cũng rộng hơn ba cỡ.
“Tôi cần thời gian để suy nghĩ.” Cậu ta không nhìn vào mắt tôi, nhưng nghe giọng nói tôi biết cậu bé vẫn còn đang tức giận. Sự thật rằng chị gái cậu ấy đã ra khỏi Địa Ngục vì tôi chứ không phải vì cậu ta dường như là điều mà cậu bé không thể chấp nhận được.
“Nico,” Annabeth nói. “Bianca chỉ muốn những điều tốt đẹp cho em.”
Cô ấy đặt một tay lên vai cậu bé, nhưng Nico đã tránh đi và quay người lê bước chậm chạp về phía nhà trệt. Có thể đó chỉ là tưởng tượng của tôi, nhưng dường như sương mù buổi sớm bám vào người Nico khi cậu bé bước đi.
“Tớ lo cho thằng bé,” Annabeth nói với tôi. “Nếu cậu ta lại nói chuyện với hồn ma Minos nữa thì...”
“Cậu bé sẽ ổn thôi,” Eurytion hứa. Anh chàng chăn bò giờ trông đã gọn gàng sạch sẽ. Anh ta đang mặc quần jean mới và áo sơ mi kiểu miền Tây sạch sẽ. Thậm chí anh ta còn cắt tỉa râu và đi đôi ủng của Geryon. “Cậu nhóc có thể ở đây suy nghĩ đến bao giờ cũng được. Cậu ta sẽ được an toàn. Tôi hứa.”
“Còn anh thì sao
Eurytion gãi gãi vào một bên cằm Orthus. “Từ giờ mọi chuyện ở đây sẽ khác một chút. Sẽ không còn việc bán hay ăn thịt gia súc hiến tế nữa. Tôi đang nghĩ đến những chiếc bánh hamburger nhân đậu nành. Và tôi sẽ đối xử tốt với những con ngựa ăn thịt kia. Có lẽ nên đăng ký tham gia cuộc thi chăn bò lần tới nhỉ?”
Một ý kiến khiến tôi rùng mình. “Ừm, chúc may mắn.”
“Ờ.” Eurytion nhổ xuống cỏ. “Tôi nghĩ giờ cậu sẽ đi tìm xưởng của Daedalus đúng không?”
Annabeth mắt sáng lên. “Anh giúp chúng tôi được không?”
Eurytion nghiên cứu tấm lưới ngăn gia súc, và tôi cảm giác chủ đề về xưởng của Daedalus khiến anh ta khó chịu. “Tôi không biết nó ở đâu. Nhưng thần Hephaestus chắc chắn biết.”
“Đó là những gì nữ thần Hera đã nói,” Annabeth đồng ý. “Nhưng bọn em tìm thần Hephaestus bằng cách nào đây?”
Eurytion lôi cái gì đó bên dưới cổ áo sơmi ra. Đó là một cái vòng cổ – một cái mặt bằng bạc bóng láng cùng một sợi dây chuyền bạc. Mặt dây có một vết lõm ở chính giữa, giống như một dấu điểm chỉ tay. Anh ta đưa nó cho Annabeth.
“Thần Hephaestus thỉnh thoảng lại đến đây,” Eurytion nói. “Để tìm hiểu về lũ động vật và từ đó tạo ra những bản sao của chúng bằng đồng. Lần trước, tôi... ờ... đã giúp ông ấy một lần. Một trò nhỏ mà ông ấy muốn để chơi xỏ cha tôi – thần Ares và nữ thần Aphrodite. Ông ấy đã đưa cho tôi sợi dây để thể hiện lòng biết ơn. Nói rằng nếu tôi có cần tìm gặp, mặt dây chuyền sẽ dẫn tôi đến lò rèn của ông ấy. Nhưng chỉ được một lần duy nhất thôi.”
“Và bây giờ anh tặng nó cho tôi?” Annabeth hỏi.
Eurytion đỏ mặt. “Tôi không muốn đến thăm cái lò rèn đó đâu, quý cô. Có đủ việc phải làm ở đây rồi. Chỉ cần ấn nút và các cậu sẽ tới được đó.”
Annabeth ấn nút và chiếc đĩa biến thành một thực thể sống. Nó mọc ra tám cái chân bằng kim loại. Annabeth rùng mình và đánh rơi nó xuống đất trước sự lúng túng của Eurytion.
“Nhện!” cô ấy hét lên.
“Cô ấy, ừm, cô ấy hơi sợ nhện,” Grover giải thích. “Mối hận thù ngày xưa giữa nữ thần Athena và Arachne2).”
“Ôi.” Trông Eurytion có vẻ ngượng ngùng. “Xin lỗi, quý cô.”
Con nhện bò tới chỗ tấm lưới ngăn gia súc và biến mất giữa các chấn song.
“Nhanh lên nào,” tôi nói. “Nó sẽ không chờ đợi chúng ta đâu.”
Annabeth ngần ngại không muốn đi theo, nhưng chúng tôi không còn lựa chọn nào khác. Chúng tôi chào tạm biệt Eurytion, Tyson kéo tấm chắn ra khỏi cái lỗ, và chúng tôi quay trở lại mê cung.
Tôi ước gì mình có thể xích cổ cái con nhện bằng kim loại đó lại. Nó chạy thoăn thoắt trong các đường hầm, hầu như tôi chẳng bao giờ nhìn thấy nó cả. Nếu không nhờ khả năng nghe tuyệt vời của Tyson và Grover thì chúng tôi sẽ chẳng bao giờ biết đường nào mà đi.
Chúng tôi đi dọc một cái hầm bằng đá cẩm thạch, rồi quẹo trái và suýt nữa thì rơi xuống vực. May mà Tyson kịp chộp lấy tôi và kéo lại trước khi tôi ngã. Đường hầm vẫn hiện ra trước mặt chúng tôi, nhưng khoảng ba chục mét không hề có sàn mà chỉ là bóng tối và một loạt các thanh sắt ngang trên trần. Con nhện máy đang đi được nửa đường, đu từ thanh này qua thanh khác bằng cách nhả ra các sợi tơ bằng kim loại.
“Xà khỉ,” Annabeth nói. “Tớ giỏi khoản này.”
Cô ấy nhanh chóng chen lên đầu và đu lên xà đi vèo vèo. Cô ấy sợ những con nhện nhỏ xíu nhưng lại chẳng hề sợ hãi trước những thanh xà khỉ đang đe dọa mạng sống của cô. Kỳ cục thật.
Annabeth tới được đầu bên kia và chạy theo sau con nhện. Tôi đuổi theo. Khi quay lại, tôi thấy Tyson đang cõng Grover trên vai. Anh chàng to lớn đó chỉ cần ba lần đu là đã qua được, và đó cũng là điều may mắn vì ngay khi cậu ấy chạm đất, thanh xà khỉ cuối cùng gãy đôi dưới sức nặng của cậu ta.
Chúng tôi tiếp tục tiến lên và băng ngang qua một bộ xương dúm dó ở góc hầm. Nó mặc một chiếc áo sơ mi, quần thường phục và đeo một cái cà vạt. Con nhện không chịu đi chậm lại. Tôi trượt vào một cái ống toàn đầu mẩu gỗ, nhưng khi chiếu đèn pin vào chúng, tôi nhận ra đó là những cây bút chì – hàng trăm cây bút chì và tất cả đều bị gãy đôi.
Cuối đường hầm là một căn phòng rộng. Một luồng ánh sáng làm chúng tôi chói mắt. Khi mắt tôi kịp điều chỉnh, thứ đầu tiên mà tôi chú ý là những bộ xương. Hàng chục bộ nằm rải rác trên khắp sàn nhà xung quanh chúng tôi. Một số cái đã lâu lắmuyển thành màu trắng. Một số cái có vẻ mới gần đây và bóng bẩy hơn. Mùi ở đây không kinh khủng bằng ở chuồng gia súc của Geryon, nhưng cũng chẳng thua kém là bao.
Sau đó tôi nhìn thấy con quái vật. Nó đang đứng trên một cái bục phát sáng lấp lánh ở phía đối diện của căn phòng. Nó có thân sư tử và phần đầu là đầu của một phụ nữ. Người phụ nữ đó trông khá xinh, nếu bà ta không buộc hết tóc thành một búi chặt cứng ở đằng sau và không trang điểm quá đậm. Bà ta làm tôi liên tưởng đến cô giáo trong đội hợp xướng của tôi hồi lớp ba. Bà ta đeo một dây ruy băng màu xanh biển trước ngực mà phải mất một lúc tôi mới đọc được, trên đó viết: CON QUÁI ṾT NÀY ĐƯỢC XẾP VÀO HÀNG M̃U!
Tyson rên rỉ, “Nhân sư.”
Tôi biết quá rõ lý do tại sao cậu ấy sợ hãi. Khi còn nhỏ, Tyson đã bị một con Nhân sư tấn công khi ở New York. Giờ trên lưng cậu ấy vẫn còn một vết sẹo chứng minh.
Đèn pha rọi vào tứ phía xung quanh con quái vật. Lối ra duy nhất là một đường hầm nằm sau cái bục. Con nhện máy chui tọt vào giữa các móng vuốt của con nhân sư và lặn mất tăm.
Annabeth tiến lên phía trước, nhưng con Nhân sư gầm lên, để lộ những cái răng nanh trên bộ mặt người của nó. Các thanh chắn sập xuống ở cả hai cửa hầm, đằng trước và đằng sau chúng tôi.
Ngay lập tức tiếng gầm của con quái vật chuyển thành một nụ cười tươi rói.
“Xin chào, những thí sinh may mắn!” con quái vật tuyên bố. “Chuẩn bị cho màn... GIẢI CU ĐỐ nhé!”
Tiếng vỗ tay được ghi âm sẵn vọng xuống từ trên trần, giống như có những chiếc loa phóng thanh vô hình ở quanh đây vậy. Đèn pha quét một lượt căn phòng và phản chiếu cái bục, chiếu thứ ánh sáng loang loáng lên những bộ xương nằm ở trên sàn.
“Những giải thưởng vô cùng hấp dẫn!” con Nhân sư nói. “Qua được cuộc thi, các ngươi sẽ được tiến lên! Còn nếu thua, ta sẽ ăn thịt các ngươi! Ai sẽ là thí sinh đây?”
Annabeth nắm lấy cánh tay tôi. “Tớ biết rồi,” cô ấy thì thầm. “Tớ biết nó đang định hỏi gì rồi.”
Tôi cũng không tranh cãi quyết liệt nữa. Tôi không muốn Annabeth bị một con quái vật xơi ngấu nghiến, nhưng nếu con Nhân sư định chơi trò giải đố thì chắc chắn cô ấy là người có khả năng nhất trong số chúng tôi.
Cô ấy bước tới cái bục dành cho thí sinh, với một bộ xương mặc đồng phục học sinh đang phủ lên nó. Cô ấy đẩy bộ xương ra, bộ xương kêu loảng xoảng khi rơi xuống nền nhà.
“Xin lỗi,” Annabeth nói với bộ xương.
“Xin chào, Annabeth Chase!” con quái vật gào lên, mặc dù Annabeth chưa hề nói tên. “Ngươi đã sẵn sàng chưa?”
“Rồi, hỏi câu nào thì hỏi đi.”
“Thực ra là hai mươi câu hỏi mới đúng!” con Nhân sư vui sướng nói.
“Cái gì? Nhưng ngày xưa...”
“À, nhưng bọn ta đã nâng chuẩn lên rồi! Để hoàn tất cuộc thi, ngươi phải chứng tỏ khả năng của mình qua hai mươi câu đố! Tuyệt không?”
Tiếng vỗ tay vang lên và ngừng lại như thể ai đó vặn vòi nước vậy.
Annabeth nhìn tôi lo lắng. Tôi gật đầu trấn tĩnh.
“Được rồi,” cô ấy bảo con Nhân sư. “Tôi đã sẵn sàng.”
Một tiếng trống vang lên từ phía trên. Mắt con Nhân sư sáng lên với vẻ hân hoan. “Thủ... thủ đô của Bulgaria là gì?”
Annabeth nhíu mày. Trong khoảnh khắc tồi tệ đó, tôi nghĩ cô ấy không trả lời được.
“Sofia,” cô ấy trả lời, “nhưng...”
“Chính xác!” Lại tiếng vỗ tay được thu sẵn vang lên. Con Nhân sư cười nhăn nhở nhe hết cả răng nanh. “Nhớ đánh dấu rõ ràng vào đáp án trong bài kiểm tra bằng cây bút chì số 2.”
“Cái gì?” Annabeth trông hoang mang. Sau đó một cuốn sách bài tập nhỏ xuất hiện trên cái bục phía trước cô ấy, cùng với một cây bút chì đã được gọt sẵn.
“Ngươi phải khoanh tròn các đáp án một cách rõ ràng, đáp án không được thừa ra ngoài,” con Nhân sư nói. “Nếu cần phải tẩy xóa thì phải tẩy sạch sẽ, nếu không máy không đọc được đáp án của ngươi đâu.”
“Máy nào?” Annabeth hỏi.
Con Nhân sư chỉ bằng bộ móng vuốt của nó. Bên cạnh cái đèn pha là một cái hộp bằng đồng với một đống bánh răng, đòn bẩy và một chữ cái Hy Lạp Êta to đùng ở bên cạnh, dấu hiệu của thần
“Giờ là câu hỏi tiếp theo,” con Nhân sư nói.
“Chờ một chút,” Annabeth chen vào. “Thế còn câu ‘Con gì đi bốn chân vào buổi sáng’ thì sao?”
“Ngươi vừa nói cái gì cơ?” giờ thì rõ ràng là con Nhân sư đang giận dữ.
“Câu đố về con người. Anh ta đi bằng bốn chân vào buổi sáng, giống như trẻ con, bằng hai chân vào buổi chiều, giống như người lớn, và bằng ba chân vào buổi tối, giống như ông già chống gậy vậy. Đó là câu ngươi thường hỏi.”
“Đó chính là lí do tại sao chúng ta đổi câu hỏi!” con quái vật tuyên bố. “Ngươi đã biết đáp án rồi. Bây giờ là câu tiếp theo, căn mười sáu bằng bao nhiêu?”
“Bốn,” Annabeth nói, “nhưng...”
“Chính xác! Tổng thống Mỹ nào ký Tuyên ngôn giải phóng nô lệ?”
“Abraham Lincoln, nhưng...”
“Đúng! Câu số bốn...”
“Dừng lại đã!” Annabeth gào lên.
Tôi muốn bảo cô ấy đừng phàn nàn gì nữa. Cô ấy đang làm rất tốt. Cô ấy chỉ cần trả lời các câu hỏi và chúng tôi có thể đi.
“Đó không phải là những câu đố,” Annabeth nói.
“Ngươi nói thế có ý gì?” con Nhân sư đớp lời. “Tất nhiên đó là câu đố rồi. Đây là bài kiểm tra được thiết kế đặc biệt...”
“Đó chỉ là một mớ những câu hỏi ngớ ngẩn về sự kiện,” Annabeth khăng khăng. “Câu đố phải khiến người ta suy nghĩ.”
“Nghĩ à?” con Nhân sư nhíu mày. “Làm sao ta kiểm tra được các ngươi có khả năng suy nghĩ hay không? Thật là lố bịch! Nào, bây giờ cần bao nhiêu lực để...”
“Dừng lại!” Annabeth vẫn khăng khăng. “Đây là một bài kiểm tra ngu ngốc.”
“Ừm, Annabeth,” Grover lo lắng xen vào. “Có lẽ cậu cứ, uhm, cậu biết đấy, thi trước đi rồi phàn nàn sau được không?”
“Tớ là con của nữ thần Athena,” cô ấy nhấn mạnh. “Và đây là sự sỉ nhục với trí tuệ của tớ. Tớ sẽ không trả lời những câu hỏi này.”
Một phần trong tôi bị ấn tượng bởi cá tính mạnh mẽ của cô ấy, nhưng một phần tôi lo lắng rằng niềm kiêu hãnh của Annabeth có thể khiến cả lũ đi tong!
Ánh đèn pha chiếu chói lòa. Mắt con Nhân sư sáng lên toàn một màu đen.
“Thế thì sao, thí sinh yêu quý,” con quái vật nói chậm rãi. “Nếu ngươi không trả lời, ngươi thua cuộc! Và vì chúng ta không thể để đứa trẻ nào được phép tiết lộ bí mật nên ngươi sẽ bị ĂN THỊT!”
Con Nhân sư giơ bộ móng vuốt sáng bóng như thép không gỉ. Nó nhào đến chỗ cái bục.
“Không!” Tyson lao lên. Cậu ấy rất khó chịu khi thấy ai đó bắt nạt Annabeth, nhưng tôi không thể tin được là cậu ấy lại dũng cảm đến thế, đặc biệt là khi cậu ấy bị ám ảnh với con Nhân sư đến vậy trong quá khứ.
Cậu ta chặn con Nhân sư lại giữa không trung và cả hai rơi xuống đống xương bên cạnh. Điều đó giúp Annabeth có đủ thời gian vận dụng trí khôn của mình và rút dao ra. Tyson đứng dậy, chiếc áo sơ mi của cậu ấy bị xé vụn. Con Nhân sư gầm gừ, tìm kiếm cơ hội tấn công.
Tôi rút thanh Thủy Triều ra và bước lên phía trước Annabeth.
“Tàng hình đi,” tôi nói với cô ấy.
“Tớ có thể chiến đấu!”
“Không!” Tôi la lên. “Con Nhân sư muốn ăn cậu! Để bọn tớ xử nó.”
Như để chứng minh lời nói của tôi, con Nhân sư đẩy Tyson sang một bên và cố gắng vượt qua tôi. Grover chọc nó một nhát vào mắt bằng một khúc xương cẳng chân của ai đó. Con Nhân sư thét lên đau đớn. Annabeth đội cái mũ lưỡi trai lên và biến mất. Con Nhân sư nhảy bổ vào chỗ cô ấy vừa đứng, nhưng không bắt được gì.
“Không công bằng!” con Nhân sư la hét. “Đồ lừa đảo!”
Không còn nhìn thấy Annabeth đâu nữa, con Nhân sư quay sang tôi. Tôi giơ kiếm lên, nhưng trước khi tôi kịp ra đòn, Tyson đã nhấc bổng cái máy chấm điểm lên khỏi mặt sàn và ném vào đầu con Nhân sư, làm hỏng búi tóc trên đầu nó. Cái máy tan tành thành từng mảnh và rơi vãi xung quanh con quái vật.
“Máy chấm điểm của ta!” nó gào lên. “Ta không thể trở thành hàng mẫu nếu không có cái máy chấm điểm!”
Ở lối ra, các thanh chắn được nhấc lên. Chúng tôi cùng lao vào đường hầm. Và tôi chỉ rằng Annabeth cũng đang làm như vậy.
Con Nhân sư bắt đầu đuổi theo, nhưng Grover đưa cây sáo bằng sậy của mình lên và bắt đầu thổi. Đột nhiên những cây bút chì nhớ ra rằng chúng từng là một phần của thân cây. Chúng tụ tập lại quanh móng vuốt của nhân sư, mọc rễ và cành và bắt đầu quắp chặt lấy bốn chân của con quái vật. Con Nhân sư vùng vẫy thoát ra, nhưng điều đó cũng giúp chúng tôi có đủ thời gian để tháo chạy.
Tyson kéo Grover vào đường hầm, và các thanh chắn đóng sầm lại phía sau chúng tôi.
“Annabeth!” tôi hét lớn.
“Đây!” cô ấy ở ngay bên cạnh tôi. “Tiếp tục chạy đi!”
Chúng tôi chạy xuyên qua đường hầm tối om như mực, vẫn nghe thấy tiếng con Nhân sư ở phía sau kêu gào về tất cả các bài kiểm tra mà nó sẽ phải chấm bằng tay.