Percy Jackson Tập 2: Biển Quái Vật

Chương 10: Chúng tôi đi nhờ tàu của quân liên minh


Chương trước Chương tiếp

“Cái bình!” tôi thét lên khi chúng tôi lao vào nước.

“Cái gì cơ?” Annabeth hẳn nghĩ rằng tôi bị mất trí. Cô ấy đang cố sống cố chết giữ chặt dây thuyền. Tóc cô ấy dựng đứng như ngọn đuốc.

Nhưng Tyson thì hiểu. Cậu ấy tìm cách để mở cái túi của tôi và lấy ra cái bình ma thuật của thần Hermes mà vẫn ghì chặt được chiếc túi và con thuyền.

Các mũi tên và lao vẫn phóng vun vút trên đầu chúng tôi.

Tôi chộp lấp cái bình và hy vọng mình làm đúng. “Giữ chặt nhé!”

“Tớ đang làm đây!” Annabeth kêu lên.

“Chặt hơn nữa!”

Tôi móc chân vào dưới cái ghế có thể thổi phồng trong thuyền và khi Tyson túm chặt phía sau áo của tôi và Annabeth, tôi xoay nắp chiếc bình góc một phần tư.

Ngay lập tức một làn gió nhẹ màu trắng bay ra khỏi cái bình và đẩy chúng tôi dạt sang một bên, rồi đưa chúng tôi trở xuống với cú hạ cánh bốn mươi lăm độ.

Tôi dường như nghe được tiếng cười của ngọn gió khi nó được bắn ra khỏi bình, như thể nó vui sướng vì được tự do. Khi chúng tôi đáp xuống mặt biển, chúng tôi lại nảy lên một lần, hai lần nữa như một hòn đá. Rồi chúng tôi lướt vèo như một con tàu cao tốc, nước biển bắn đầy mặt, chúng tôi tiếp tục lao về phía trước và không có gì ngăn cản, chỉ có nước biển phía trước.

Tôi nghe thấy những tiếng oán hận vang lên từ con tàu phía sau chúng tôi, nhưng chúng tôi đã thoát ra ngoài tầm vũ khí tấn công. Con tàu Công chúa Andromeda dần biến thành kích cỡ của một chiếc tàu đồ chơi màu trắng và sau đó biến mất.

Khi chúng tôi phi như bay qua biển, Annabeth và tôi cố gắng gửi một thông điệp Iris cho bác Chiron. Chúng tôi cho rằng nó rất quan trọng khi chúng tôi báo cho ai đó biết về việc Luke đang làm và chúng tôi không biết phải tin ai.

Ngọn gió từ chiếc bình làm bắn lên những hạt nước biển tuyệt đẹp, tạo nên cầu vồng trong ánh nắng – thật hoàn hảo cho một thông điệp Iris – nhưng việc kết nối của chúng tôi vẫn rất kém. Khi Annabeth ném một đồng drachma vàng vào sương mù và cầu nguyện nữ thần cầu vồng cho chúng tôi thấy bác Chiron, khuôn mặt bác đã hiện ra ngay lập tức. Nhưng có thứ ánh đèn lấp lóe rất kinh khủng cứ chớp phía sau và tiếng nhạc Rock ồn ã như thể bác ấy đang ở trong một câu lạc bộ khiêu vũ.

Chúng tôi kể với bác ấy về việc trốn ra khỏi trại. về Luke, về con tàu Công chúa Andromeda, về chiếc quách vàng có chứa hài cốt của Kronos. Nhưng trong tiếng ồn ào nơi bác ấy đang đứng, tiếng gió và tiếng sóng nước ở chỗ chúng tôi, tôi không chắc bác ấy nghe được bao nhiêu.

“Percy.” Bác Chiron kêu lên. “cháu phải coi chừng…”

Tiếng bác ấy bị nhận chìm bởi tiếng gào inh ỏi ngay sau lưng – một loạt tiếng reo hò như các chiến binh Comanche.

“Gì ạ?” Tôi hét lên.

“Nguyền rủa lũ họ hàng của ta!” bác Chiron thụp nhanh xuống để tránh một chiếc đĩa bay vào qua đầu và nó vỡ tan ở đâu đó. “Annabeth, cháu không nên để Percy rời trại! Nhưng nếu cháu có được Bộ Lông Cừu Vàng…”

“Ôi, bé yêu!” ai đó kêu toáng lên phía sau lưng bác Chiron. “Woo-hoooo!”

Tiếng nhạc được mở to hơn và tiếng phát ra từ loa siêu trầm quá lớn đến nỗi thuyền chúng tôi bị rung lên.

“…Miami.” Chiron kêu to. “Ta sẽ cố dõi theo…”

Màn hình mờ mờ của chúng tôi đã bị vơ ra như thể ai đó đứng bên cạnh đã ném một cái chai vào đó và bác Chiron biến mất.

Một giờ đồng hồ sau, chúng tôi nhìn thấy đất liền – một dãy biển trải dài được đánh dấu bởi những khách sạn cao tầng. Mặt nước đã chật kín thuyền đánh cá và tàu chở dầu. Một con tàu tuần tiễu bờ biển đi ngang qua bên hông con thuyền chúng tôi, rồi quay lại như muốn quan sát đôi chút. Tôi đoán rằng không phải ngày nào họ cũng nhìn thấy một con thuyền cứu sinh một vàng không động cơ, đi một trăm hải lý một giờ, được điều khiển bởi ba đứa nhóc.

“Đó là Virginia Beach!” Annabeth reo lên khi chúng tôi cập bến. “Ôi chúa ơi, làm thế nào mà con tàu Công chúa Andromeda trong một đêm lại có thể đi xa đến thế nhỉ? Nó giống như…”

“Năm trăm ba mươi hải lý,” tôi tiếp lời.

Cô ấy nhìn tôi chằm chằm. “Làm thế nào mà cậu biết vậy?”

“Tớ… tớ không chắc lắm.”

Annabeth suy nghĩ trong giây lát. “Percy, vậy vị trí của chúng ta là gì?”

“Ba mươi sáu độ, bốn mươi tư phút Bắc, bảy mươi sáu độ, hai phút Tây.” tôi đáp ngay tức thì, rồi lắc đầu. “Ôi trời, mình biết được điều này như thế nào nhỉ?”

“Vì do cha cậu đấy,” Annabeth gợi ý. “Khi cậu ở biển, cậu có thể xác định rõ phương hướng một cách chuẩn xác. Điều đó quá tuyệt.”

Tôi đã không dám chắc chắn về điều này. Tôi không muốn trở thành một thiết bị GPS người. Nhưng trước khi tôi có thể nói được điều gì, Tyson vỗ nhẹ vào vai tôi. “Một con thuyền khác đang tới.”

Tôi quay lại nhìn. Con tàu tuần tiễu lớn giờ dứt khoát đã bám theo đuôi con tàu chúng tôi. Đèn của nó đang chiếu sáng và nó đang tăng tốc.

“Không thể để họ tóm chúng ta được,” tôi nói. “Họ sẽ hỏi vô số câu hỏi mất.”

“Đi tiếp đến vịnh Chesapeake thôi!” Annabeth giục. “Tớ biết một chỗ mà chúng ta có thể trốn.”

Tôi không hỏi cô ấy nói vậy có ý gì hoặc làm thế nào mà cô ấy biết chỗ đó rành như thế. Tôi mạo hiểm mở cái nắp bình ra thêm một chút nữa. Và một luồng gió tươi mát đã đẩy chúng tôi lao như tên lửa về phía mũi bắc của Virginia Beach vào vịnh Chesapeake. Con tàu tuần tiễu bị rơi lại phía sau, phía sau mãi. Chúng tôi không hề đi chậm lại mãi cho tới khi phần đất hai bên của vịnh thu hẹp lại. Và tôi nhận ra chúng tôi đi vào cửa sông.

Tôi có thể cảm thấy sự thay đổi từ nước biển mặt chát biến thành nước ngọt. Đột nhiên, tôi thấy mệt mỏi và kiệt sức, như thể tôi bị tụt đường huyết vậy. Tôi không biết mình đang ở đâu hoặc hướng đi của con thuyền. May mà có Annabeth hướng dẫn tôi.

“Ở đó,” cô nói. “Qua bãi cát cửa sông ấy.”

Chúng tôi lái vào một khu vực đầm lầy đầy cỏ. Tôi kéo thuyền lên bờ, ở phía dưới gốc một cây bách lớn.

Cái cây phủ đầy dây leo lù lù bên trên chúng tôi. Lũ côn trùng kêu rỉ rả trong rừng. Không khí rất oi bức và nóng nực. hơi nước cuồn cuộn lên khỏi mặt sông. Về cơ bản, đây không phải là Manhattan và tôi không thích nơi này.

“Đi nào.” Annabeth giục giã. “Nó chỉ xuôi xuống phía bờ sông mà thôi.”

“Cái gì?” Tôi hỏi.

“Chỉ cần đi theo tớ thôi.” Cô ấy chộp lấy chiếc túi vải. “Và tốt nhất là chúng ta phải phủ còn thuyền này lại. Chúng ta không muốn nó bị chú ý.”

Sau khi che con thuyền cứu sinh bằng những cành cây, Tyson và tôi theo sau Annabeth đi dọc bờ sông. Chân chúng tôi lún sâu trong bùn đỏ. Một con rắn trượt qua giày tôi và mất hút trong đám cỏ.

“Không phải một nơi hay ho,” Tyson phàn nàn. Cậu ấy đập đôm đốp lên những con muỗi đang xếp hang dự buffet trên cánh tay cậu ấy,

Vài phút sau, Annabeth reo lên. “Đến nơi rồi.”

Tất cả những gì tôi nhìn thấy được là một bụi gai. Rồi Annabeth di chuyển một vòng tròn đan kết bởi những cành cây giống như một cánh cửa sang một bên. Và tôi nhận ra rằng tôi nhìn vào bên trong một nơi ẩn náu đã được ngụy trang.

Bên trong lán đủ rộng cho ba người, kể cả với Tyson. Các bức tường được đan bằng nguyên liệu thực vật như một căn lều của Người Da đỏ, nhưng chúng chống thấm khá tốt. Chất ở một góc lều là tất cả những gì bạn có thể cần cho việc cắm trại: túi ngủ, chăn, thùng đá, đèn dầu. Đây cũng là nơi cung cấp quân trang cho các á thần – các mũi lao bằng đồng, một bao đựng đầy tên, một thanh kiếm và một chiếc hộp thức ăn của thân linh. Nơi đây có mùi mốc, như thể được bỏ không từ rất lâu.

“Một nơi ẩn nấp cho con lai.” Tôi nhìn Annabeth đầy kính sợ. “Cậu đã tạo ra nơi này sao?”

“Thalia và mình đấy,” cô ấy đáp khẽ khàng, “Cả Luke nữa.”

Điều này không hề làm phiền tới tôi. Ý tôi là, tôi biết Thalia và Luke từng chăm sóc cho Annabeth khi cô ấy còn nhỏ. Tôi biết ba bọn họ đã chạy trốn cùng nhau. Cùng lẩn trốn những con quái vật, tự mình sinh tồn trước khi Grover tìm ra được họ và cố gắng đưa họ về Trại Con Lai. Nhưng mỗi lần Annabeth nhắc về thời gian mà cô đã chia sẻ cùng họ, tôi lại cảm thấy… Tôi cũng không biết nữa. Khó chịu?

Không, không phải từ đó.

Từ chính xác phải là ghen tị.

“Nên…” tôi cất tiếng. “Cậu không nghĩ rằng Luke sẽ tìm ra chúng ta ở đây sao?”

Cô ấy lắc đầu. “Chúng tớ đã làm một loạt các căn lều an toàn như vậy. Tớ không biết liệu Luke có còn nhớ vị trí của chúng không, hoặc có them quan tâm tới chúng không.”

Cô ấy quăng mình lên đám chăn và bắt đầu dốc mọi thứ từ túi xách của cô ấy ra. Ngôn ngữ cơ thể của cô ấy đã thể hiện rõ ràng rằng cô ấy không muốn nói nữa.

“Tyson này?” tôi gọi. “Cậu ra ngoài trinh sát một lát nhé? Giống như tìm kiếm một cửa hàng tiện lợi rộng lớn hoặc thứ tương tự như thế nhé?”

“Một cửa hang tiện lợi ư?”

“Ừ, có snacks, donut hoặc thứ gì đó. Chỉ có điều đừng đi quá xa nhé.”

“Donut,” Tyson reo lên đầy sốt sắng. “Tớ sẽ tìm donut ở nơi hoang dã.” Cậu ấy thò đầu ra ngoài và bắt đầu hét toáng lên. “Đến đây, donut!”

Ngay khi Tyson vừa đi khỏi, tôi ngồi xuống đối diện với Annabeth. “Này, tớ xin lỗi nhé, cậu biết đấy, về việc gặp Luke…”

“Đó không phải là lỗi của cậu.” Cô ấy rút con dao ra khỏi bao và lau sạch lưỡi dao bằng một miếng giẻ.

“Anh ấy để chúng ta thoát quá dễ dàng,” tôi nói.

Tôi hy vọng mình đang tưởng tượng ra điều đó, nhưng Annabeth đã gật đầu. “Tớ cũng đã nghĩ tới điều tương tự. Những gì chúng ta nghe lỏm được anh ấy nói về một việc mạo hiểm, và ‘chúng ta sẽ mắc câu’… Tớ nghĩ rằng anh ấy đang nói về chúng ta.”

“Bộ Lông Cừu Vàng là miếng mồi ư? Hay là Grover?”

Cô ấy đang nghiên cứu kĩ cái sống dao. “Tớ không biết, Percy à. Có lẽ anh ấy mốn có Bộ Lông Cừu Vàng cho riêng anh ấy. Có thể anh ấy đang hy vọng chúng ta sẽ làm phần việc khó khăn đó và sau đó anh ấy có thể trộm lại nó từ chúng ta. Tớ chỉ không thể tin được anh ấy đã đầu độc cái cây thôi.”

“Anh ấy có ý gì khi nói Thalia sẽ về phe anh ấy?” tôi hỏi.

“Anh ấy đã lầm”

“Giọng cậu có vẻ không chắc lắm.”

Annabeth nhìn tôi giận giữ. Và tôi bắt đầu ước rằng mình đừng hỏi gì trong lúc cô ấy đang cầm dao trên tay.

“Percy, cậu có biết cậu đã khiến tớ nhớ tới ai nhất không? Thalia. Các cậu quá giống nhau đến mức đáng sợ. Ý tớ là hoặc các cậu sẽ là bạn thân của nhau hoặc tự bóp nghẹt lẫn nhau.”

“Hãy trở thành ‘bạn thân của nhau’ thôi.”

“Đôi khi Thalia rất giận cha cô ấy. Cậu cũng vậy. Nhưng cậu có quay lại chống Olympus vì chuyện đó không?”

Tôi nhìn chằm chằm vào bó tên dựng trong góc, đáp. “Không.”

“Được, tiếp nhé. Cô ấy cũng vậy. Luke đã sai.” Annabeth cắm xọc lưỡi dao vào đất.

Tôi muốn hỏi cô ấy về lời tiên tri mà Luke đã đê cập tới và nó có liên quan gì đến sinh nhật mười sáu tuổi của tôi. Nhưng tôi đoán là cô ấy sẽ không chịu nói. Bác Chiron đã nói rõ ràng rằng tôi không được phép nghe cho tới khi các vị thần quyết định khác.

“Thế Luke có ý gì khi nói về người Cyclops?” tôi hỏi. “Anh ấy nói so với tất cả mọi người, cậu…”

“Tớ hiểu anh ấy nói gì. Anh ấy… anh nói đang nói về lý do thực sự khiến Thalia chết.”

Tôi chờ đợi, không biết phải nói những gì.

Annabeth hít một hơi run run. “Cậu không bao giờ có thể tin một Cyclops, Percy à. Sáu năm trước đây, vào cái đêm Grover đang dẫn chúng tớ lên Đồi Con Lai…”

Cô ấy ngưng bặt khi cánh cửa lều cọt kẹt mở. Tyson chui vào.

“Donut phủ đường đây!” cậu ấy lớn tiếng đầy tự hào, tay ôm một cái hộp bánh ngọt.

Annabeth nhìn cậu ấy trừng trừng. “Cậu đào được của này ở đâu thế? Chúng ta đang ở giữa rừng hoang cơ mà. Không có bất cứ thứ gì quanh đây để…”

“Cách đây mười lăm mét,” Tyson nói. “Tiệm Donut Quái vật - ở ngay phía trên đồi.”

“Điều này thật tệ.” Annabeth lầm bầm.

Chúng tôi đang núp sau một cái cây, nhìn chăm chăm về tiệm bánh donut ở giữa khi rừng. Nom nó khá mới với những hang cửa sổ sáng sủa, chỗ đậu xe và một con đường dẫn vào rừng. Nhưng không có gì xung quanh cả, xe hơi cũng không thấy đậu trên bãi. Chúng tôi có thể nhìn thấy một nhân viên tiệm bánh đang đọc tạp chí phía sau quầy tính tiền. Chính là nó. Trên mái hiên cửa tiệm là những chữ màu đen lớn mà tôi có thể đọc được:

BÁNH DONUT QUÁI VẬT

Một con yêu tinh trong phim hoạt hình đang ngoạm vào chữ A trong chữ QUÁI VẬT. Nơi này mùi thật tuyệt, giống như mùi bánh donut phủ socola vừa mới ra lò.

“Nó không thể ở đây được,” Annabeth thì thầm. “Không đúng.”

“Cái gì cơ?” Tôi hỏi. “Đó là một tiệm donut thôi mà”

“Suỵt”

“Tại sao chúng ta phải thầm thì thế? Tyson đã vào và mua một tá bánh mà. Có chuyện gì xảy ra với cậu ấy đâu.”

“Cậu ấy là quái vật.”

“À, thôi nào, Annabeth. Tiệm Donut Quái Vật không có nghĩ là lũ quái vật. Đó chỉ là một chuỗi nhà hàng. Chúng ta đã thấy chúng ở New York mà.”

“Ừ, một chuỗi,” cô ấy đồng ý “Và cậu không thấy lạ khi một tiệm đột ngột xuất hiện ngay sau khi cậu kêu Tyson đi tìm donut sao? Tại đây, ngay giữ rừng nữa chứ?”

Tôi nghĩ về điều này. Có thứ gì đó thật kỳ lạ. Nhưng ý tôi là, các tiệm bánh donut thật sự không nằm quá cao trong danh sách những lực lượng tà ác của tôi.

“Có thể đó là một cái ổ,” Annabeth giải thích.

Tyson thút thít khóc. Tôi e rằng cậu ấy hiểu điều mà Annabeth đang nói rõ hơn tôi, nhưng giọng điệu của cô ấy làm Tyson lo lắng. Cậu ấy đã ăn hết một nửa số bánh donut trong hộp bánh và đường đang dính khắp mặt cậu ấy.

“Ổ của cái gì?” tôi không hiểu.

“Chả lẽ cậu chưa bao giờ tự hỏi tại sao những cửa tiệm được cấp quyền kinh doanh lại phát triển nhanh tới vậy?” cô ấy nỏi. “Mọi thứ chưa có gì trong ngày hôm nay. Nhưng hôm sau, bùm, đã có một tiệm bán burger hoặc một tiệm café hoặc một cái gì đó? Đầu tiên là một tiệm duy nhất, rồi hai, rồi bốn cái… Chính xác là có bao nhiêu bản sao như vậy trải dài khắp đất nước?”

“Ừ, chưa, tớ chưa bao giờ nghĩ về chuyện này.”

“Percy này, một số chuỗi cửa tiệm phát triển nhanh như vậy vì tất cả địa điểm của nó được nối một cách ma thuật với sức mạnh cuộc sống của một con quái vật. Một vài người con của thần Hermes đã tìm hiểu được cách thức nó hoạt động vào những năm 1950 về trước. Chúng đã sinh ra…”

Cô ấy đột ngột im bắt.

“Cái gì?” Tôi thắc mắc. “Chúng sinh ra cái gì?”

“Không được – chuyển động – đột ngột,” Annabeth nói, như thể mạng sống của cô ấy phụ thuộc vào điều này. “Rất chậm rãi nhé, quay lại.”

Rồi tôi nghe thấy một tiếng lạo xạo, như thể một con gì đó to lớn đang kéo lê bụng mình qua những ngọn lá cây.

Tôi quay lại và nhìn thấy một thứ có kích thước của một con tê giác đang di chuyển qua bong râm của các cây trong rừng. Nó đang rít lên, nửa thân trước của nó vặn vẹo theo nhiều hướng khác nhau. Đầu tiên tôi không thể hiểu cái mình đang nhìn thấy là gì. Sau đó tôi nhận thấy vật này có nhiều cổ - ít nhất là có bảy cái, phía trên mỗi cái cổ là một cái đầu rắn đang rít lên phì phì. Da của nó như da người và dưới mỗi cổ được đeo một cái yếm có ghi dòng chữ: TA LÀ NHÓC TÌ QUÁI VẬT BÁNH DONUT!

Tôi rút chiếc bút ra nhưng Annabeth đã nhìn tôi – một lời cảnh báo im lặng. Chưa phải lúc.

Tôi hiểu. Rất nhiều quái vật đều có thị lực rất kém. Thế nên có thể con Hydra­­­(1) này cũng sẽ đi ngang qua chúng tôi thôi. Nhưng giờ nếu tôi mở nắp thanh kiếm. ánh sáng đồng chắc chắn sẽ khiến nó chú ý.

________________________

(1) ­­Hydra là một con quái vật được mô tả mang hình thù của một con rắn khổng lồ có nhiều đầu. Máu của nó có chứa chất độc và hơi thở của nó có mùi hôi đến mức có thể làm chết nhiều người.

Chúng tôi đành chờ đợi.

Con Hydra này chỉ dài hơn một mét hoặc hơn một chút. Nó đang đánh hơi trên đất và cây như đang săn lùng thứ gì đó. Bỗng tôi nhận ra hai trong số đám đầu của nó đang xé toạc một miếng vải bạt màu vàng – một trong số đám túi của chúng tôi. Con vật này đã tới khu vực lều của chúng tôi. Nó đang lần theo mùi của chúng tôi.

Tim tôi đập thình thịch. Tôi đã từng thấy một chiến lợi phẩm – một cái đầu Hydra được nhồi bông trước đây ở trại, nhưng nó cũng chắc giúp gì cho tôi khi đối diện với con vật thật này. Mỗi cái đầu có dạng viên kim cương, giống với đầu của rắn chuông, song những cái miệng của chúng cò các hàm răng lởm chởm như răng cá mập.

Tyson đang run bần bật. Cậu ấy lùi lại và vô tình làm gãy một nhánh cây con. Ngay lập tức, tất cả bảy cái đầu quay ngoắt lại chỗ chúng tôi và đánh hơi.

“Tản ra!” Annabeth hô to. Cô ấy lao về phía bên phải.

Tôi lăn về bên trái. Một trong số những chiếc đầu Hydra phun ra một dòng hình cung chất lỏng màu xanh lá cây bắn vọt qua vai tôi, vấy lên thân cây đủ. Thân cây tỏa khói và rã ra. Cả cái cây đổ sầm về phía Tyson, người vẫn đứng yên một chỗ, như hóa đá bởi con quái vật giờ đang đứng ngay trước mạnh cậu ấy.

“Tyson!” Tôi túm cậu ấy bằng tất cả sức mạnh của mình, đẩy cậu ấy sang một bên khi con Hydra nhào tới vào cái cây dổ sầm xuống hai đầu của nó.

Con Hydra loạng choạng lùi lại, giật mạnh những cái đầu của nó ra khỏi cái cây và kêu thét lên trong giận giữ với cái cây đổ. Cả bảy phần đầu đều bắn ra acid, và cây đu tan chảy ra trong bể phân chuồng đầy hơi nước đang bốc lên.

“Chạy đi!” Tôi hét lên với Tyson. Tôi chạy sang một bên và rút thanh Thủy Triều, hy vọng sẽ khiến con quái vật chú ý.

Và tôi đã thành công.

Cái nhìn của các con quái vật đối với kim loại màu đồng xanh luôn là sự chán ghét. Ngay khi lưỡi kiếm sáng bóng của tôi xuất hiện, tất cả các đầu của con Hydra đều lao về phía nó, rít lên và nhe răng ra.

Tin tốt là: Tyson đã kịp thoát khỏi nguy hiểm trong gang tấc. Tin xấu: Tôi sắp tan vào vũng chất nhầy đó.

Một cái đầu nó thử đớp lấy tôi. Không cần suy nghĩ tôi vung thanh kiếm lên.

“Đừng làm thế!” Annabeth hét lên.

Muộn rồi. Tôi đã chém bay cái đầu của Hydra. Nó lăn vào một bãi cỏ, để lại phần cổ đung đưa qua về, và rồi nó đột nhiên ngừng chảy máu, bắt đầu phình to như một quả bóng.

Trong khoảng một vài giây, cái cổ bị thương được tách làm hai, mỗi cái có một cái đầu to hoàn chỉnh. Gopwf đây tôi đang nhìn một con Hydra có tới tám cái đầu.

“Percy!” Annabeth gắt gỏng. “Cậu vừa mới mở thêm một tiệm bánh Donut Quái Vật ở nơi nào đấy!”

Tôi tránh một luồng acid. “Tớ thì sắp chết và cậu chỉ lo lắng về điều đó thôi sao? Chúng ta phải giết nó bằng cách nào?”

“Lửa!” Annabeth quát lên. “Chúng ta phải có lửa!”

Khi cô ấy vừa nói tới đó, tôi đã nhớ ra ngay chuyện. Đầu của Hydra chỉ có thể ngừng nhân đôi nếu chúng tôi đốt phần cổ trước khi nó mọc lại. Dù sao đó cũng là điều mà Heracles đã từng làm. Nhưng chúng tôi không có lửa.

Tôi đi lùi lại về phía dòng sông. Con Hydra đuổi theo.

Annabeth di chuyển về phía trái của tôi và ra sức làm rối trí một cái đầu Hydra, tránh hàm răng của nó bằng con dao của cô ấy. Một cái đầu khác như một cái dùi cui lao tới từ hướng khác hất cô ấy ngã nhào vào một đống chất nhầy.

“Không đánh các bạn của ta!” Tyson lao lên tấn công, đứng chắn giữa Hydra và Annabeth. Khi Annabeth đứng lên được, Tyson bắt đầu đấm mạnh vào những cái đầu của con quái vào với những nắm đấm nhanh tới nỗi chúng khiến tôi nhớ tới trò chơi đập chuột ở các cột máy chơi game. Nhưng ngay cả Tyson cũng không thể chống đỡ Hydra mãi mãi.

Chúng tôi tiếp tục lùi lại sau từng chút một, tránh những cũng acid và làm lệch hướng những cái đầu đang táp xuống mà không cần phải chém đứt chúng, nhưng tôi biết chúng tôi đang trì hoãn cái chết của chính mình. Cuối cùng chúng tôi sẽ mắc sai lầm và con vật này sẽ giết chết chúng tôi.

Rồi tôi nghe thấy một âm thanh lạ - là tiếng bình bịch, bình bịch, bình bịch mà thoạt đầu tôi cứ ngỡ là tiếng đập của trái tim tôi. Tiếng bình bịch đó lớn tới mức cả hai bờ sông làm rung cả lên.

“Tiếng gì thế?” Annabeth gào bên, mắt vẫn dán chặt vào con Hydra.

“Động cơ hơi nước,” Tyson đáp.

“Cái gì?” Tôi cúi thụp xuống, tránh một dòng acid do Hydra phun qua đầu tôi.

Rồi từ phía con sông đằng sau chúng tôi, một giọng nữ quen thuộc hét to. “Đây rồi, hãy chuẩn bị loại đại bác bắn đạn ba mươi hai pound!”

Tôi không dám rời mắt khỏi Hydra, nhưng nếu đó là người mà tôi nghĩ tới ở ngay sau chúng tôi, thì tôi đoán rằng giờ đây chúng tôi đã có kẻ thù từ cả hai phía.

Một giọng đàn ông lục cục đáp, “Họ ở quá gần, thưa quý cô!”

“Lũ anh hùng chết tiệt!” cô gái nói. “Tăng tốc lên nào!”

“Rõ, thưa quý cô!”

“Nhắm thẳng bắn, Thuyền trưởng!”

Annabeth hiểu ngay chuyện gì đã xảy ra chỉ một phần giây trước khi tôi kịp nhận ra. Cô ấy hét lên, “Nằm xuống!” và chúng tôi lao ngay xuống mặt đất khi một tiếng BÙM lở đất vọng lại từ phía sông. Đó là một thứ ánh sáng lóe lên, một cột khói cuồn cuộn và con Hydra nổ tung ngay trước mắt chúng tôi, trút lên người chúng tôi vô số chất lỏng màu xanh kinh tởm – những thứ này bốc hơi ngay khi chạm vào chúng tôi. Đó là cách thức mà mỗi con quái vật biến mất sau khi bị tiêu diệt.

“Kinh quá!” Annabeth la toáng lên.

“Tàu thủy chạy bằng hơi nước kìa!” Tyson la lên.

Tôi đứng dậy, hung hắng ho bởi đám khói thuốc sung đang dâng lên cuồn cuộn từ bờ sông.

Tiếng bình bịch tiến về phía chúng tôi phía dưới con sông được phát ra từ một con tàu kỳ lạ nhất mà tôi từng gặp. Nó lướt đi thấp bên dưới mặt nước như một tàu ngầm. Boong tàu được bọc bằng sát. Ở giữa là một hầm cuốn hình thang với những chốt trục dành cho súng thần công ở hai bên. Một lá cờ phấp phới trên đỉnh có hình một con lợn rừng và một ngọn giáo trên nền vải màu đỏ tươi. Đứng quanh boong tàu là các thây ma trong các bộ đồng phục màu xám – những người lính đã chết với gương mặt mờ mờ chỉ choán một phần sọ của chúng, giống như những con ma cà rồng canh giữ lâu đài của thần Hades khi tôi được nhìn thấy dưới m phủ.

Cả con tàu được bọc sắt. Một chiến hạm của cuộc Nội chiến. Tôi có thể đọc ra được cái tên những kí tự phủ rêu của nó dọc mũi tàu: C.S.S Birmingham.

Và đứng bên khẩu đại bác còn tỏa khói là người gần như đã suýt giết chúng tôi – Clarisse trong bộ áo giáp hoàn chỉnh dung trong các trận chiến của người Hy Lạp.

“Đồ thua cuộc!” cô ta cười nhạo. “Nhưng tớ cho rằng tớ phải cứu các cậu. Lên tàu đi!”


Bình luận
Sắp xếp
    Loading...