Đặc biệt là bảy năm trước, Lý Nguyên Hạo của tộc Đảng Hạng chiếm cứ khu Thiểm Tây và Hà Sáo, ngang nhiên tuyên bố độc lập, thành lập đế quốc Tây Hạ.
Từ bất cứ góc độ nào mà nói, triều Tống đều không thể dễ dàng tha thứ. Vì thế hai năm sau, hai quân chiến ở Diên An, quân Tống thất bại. Năm sau đó, Hàn Kỳ thống lĩnh quân Tống lại thất bại ở Lục Bàn Sơn. Năm thứ ba, hai bên giao chiến ở Trấn Nhung, quân Tống vẫn đại bại.
Tây Hạ mặc dù thắng, nhưng bắt người cướp của chiếm đoạt của cải, dựa theo hòa ước trước đó, sẽ thông qua mậu dịch để lấy số của cải so sánh, thì thật sự là mất nhiều hơn được. Ngoài ra, do trong nhân dân mậu dịch bị gián đoạn khiến cho dân chúng Tây Hạ “không trà uống, áo quần đắt”, tiếng than khắp nơi, hơn nữa quan hệ Tây Hạ và nước Liêu cũng càng tồi tệ, vì thế Tây Hạ chủ động đề xuất nghị hòa.
Năm Khánh Lịch thứ tư, hai nước cuối cùng cũng đã đạt được hiệp ước. Hòa ước quy định: Hạ hủy bỏ đế hiệu, xưng thần với Tống trên danh nghĩa, triều Tống mỗi năm phải cống cho Tây Hạ năm mươi ngàn lượng bạc, lụa một trăm ba mươi nghìn xấp, trà hai trăm nghìn cân, đôi bên bãi binh.