Mê Hành Ký
Chương 11: Sơn trung nhân hề
Hà Ngâm Thu đứng đợi ở trong bình phong, thấy Đường Ẩn Tăng đi về phía mình, nở nụ cười nhạt, khẽ hành lễ: “Lão gia đã về.”
Dường như sợ không được hợp với không khí tiêu điều tang thương ngập tràn trong trang viện, nụ cười của bà lập tức biến mất sau câu nói.
Đường Ẩn Tăng gật đầu: “Về rồi đây”.
Ông chăm chú nhìn thê tử, trong mắt thoáng một tia ấm áp. Tiếp đó Hà Ngâm Thu đánh mắt, ngầm ra hiệu cho ông. Thuận theo ánh mắt bà, ông ta nhìn thấy một nữ nhân cao gầy đang đứng tựa vào mép cửa tường bắc ở phía xa, mắt đăm đăm nhìn vào mấy cỗ quan tài tạm thời để ở nhà trước.
Mấy tờ tiền giấy tan tác trong gió, phiêu phiêu bồng bồng, rơi xuống trước mặt hai người. Hà Ngâm Thu không nén nổi thở dài nói: “Lại một mùa thu xảy ra lắm chuyện…”.
“Tiềm nhi đưa về một cô bé, là đại phu của Vân Mộng cốc. Dọc đường luôn nói muốn để dì ngắm xem”, Đường Ẩn Tăng nói.
“Đại phu của Vân Mộng cốc? Vào lúc này? Ài, đứa trẻ này thật tùy tiện”, Hà Ngâm Thu nhướng mày, bất an nhìn nữ nhân đứng tựa cửa, “Mấy người bọn Trúc Bội… giờ chỉ sợ đang muốn đem người của Mộ Dung gia ăn tươi nuốt sống”.
Trúc Bội là vợ lẽ của Đường Uyên, nhưng là người đàn bà Đường Uyên yêu thích nhất.
Tính tình ả phong lưu, sau khi gả cho Đường Uyên rồi mà vẫn không chịu yên phận, cuối cùng bị người ta nắm thóp tố cáo lên. Đợi tới khi sắp thi hành gia pháp, lại là Đường Uyên cầu xin được thay ả chịu phạt, từ đó mới bị chặt mất một chân.
Tất cả mọi người đều cho rằng Đường Uyên làm thế thật quá không đáng, huống chi Đường Uyên ngày thường tự cho mình phong lưu, trêu hoa ghẹo nguyệt, trước giờ không phải loại chung tình gì.
“Ta không thích nữ nhân một chân”, đây là Đường Uyên tự mình trả lời.
Trên thực tế, lưu truyền nhất chính là cách giải thích, Trúc Bội lúc ấy nói với Đường Uyên là:
“Hoặc là chàng chịu hình thay thiếp, hoặc là thiếp bỏ trốn, mãi mãi không quay về nữa”.
Đường Uyên sợ ả chạy mất, đành thay ả chịu một đao.
Nhưng lại có kẻ nói, dạng công tử đào hoa như Đường Uyên bên người tuyệt không thiếu nữ nhân, chẳng lẽ còn sợ thiếu một tiểu thiếp?
Thật chẳng biết Trúc Bội không phải là nữ nhân bình thường, ả là con gái của đường chủ Tích Lịch đường Phương Tế ở Giang Nam. Nghe nói lúc Trúc Bội bỏ trốn theo Đường Uyên, Phương Tế nổi trận lôi đình, lớn tiếng đòi san bằng Đường môn. Về sau nhiều người khuyên giải, mới không dễ dàng gì mà nuốt cơn giận này xuống, nhưng sau chuyện đó, hễ nhắc tới việc này là ông ta vẫn lửa giận bốc cao ba trượng.
Một năm sau, chính thất của Đường Uyên qua đời, Trúc Bội tiết hạnh không tốt, theo gia pháp vốn không được đưa lên làm chính. Đường môn vì kiêng nể Phương gia mới mắt nhắm mắt mở cho qua.
Đường Ẩn Tăng không nén được lại đưa mắt qua nhìn nữ nhân áo trắng đang tựa cửa kia. Mặt trắng bệch, đôi mắt sắc như kiếm, tay áo khẽ cuộn lại, không có gió mà lay động, toàn thân trên dưới mang một thứ khí âm hàn lạnh lẽo khó tả.
Trúc Bội lạnh lùng nhìn đám người trong viện, rồi “binh” một tiếng đóng sập cửa, thoắt cái không thấy bóng hình đâu nữa.
“Hôm trước nhận được tin, nói rằng phía Vân Mộng cốc có bốn người tới, đang hướng đến chỗ chúng ta, chỉ sợ chẳng mấy chốc nữa là tới nơi.
“Lại sắp đánh nhau rồi?”
“Phương Trúc Huy là đại công tử của Tích Lịch môn, ngoại hiệu là “Kinh thiên lôi”, tinh thông các loại cơ quan hỏa khí, hiện chuẩn bị chấp chưởng môn hộ.
“Bốn kẻ đang tới là ai?”
“Không rõ lắm… nghe nói Sở Hà Y cũng tới.”
“Là nữ nhân đó?”
“Ừ, là cô ta.”
“Dọc đường ta cố công khuyên Đường Hoài, muốn nó hành sự phải thận trọng, nếu không sẽ rước họa vào thân. Giờ thì hay rồi, hình như nó muốn đánh một trận sạch sẽ”, Đường Ẩn Tăng hừ một tiếng.
“Tân chưởng môn mới nhậm chức, tự nhiên muốn ra uy. Huống chi lại còn phải ứng phó với đám gia quyến đang nộ khí xung thiên này…”
“Đường Hoài không phái nàng làm gì chứ?”, Đường Ẩn Tăng hỏi.
“Thiếp nói thiếp đã sớm rửa tay gác kiếm rồi”, Hà Ngâm Thu lạnh nhạt nói, bất giác sờ sờ mấy vết chai chỗ ngón tay.
“Lần trước có tam ca, tam tẩu với “Thiết thủ tam tiên”, Tạ Đình Vân mới phải cụp cánh quay về. Lần này trong nhà còn có ai đây?”
“Lão cửu. Hắn mới vân du quay về, vừa đúng lúc nhận tin dữ của Đường Tế.”
“Ta thật hi vọng hắn không ở đây”, Đường Ẩn Tăng nhìn bầu trời màu trắng xám, tâm sự nặng nề nói.
Ông ta nhìn thấy một gia nhân hấp tấp từ cửa sau chạy tới, nói bên tai Đường Hoài vài câu.
***
Trời bỗng giăng mưa nhỏ.
Hạt mưa như sợi tơ, vương trên mặt Sơn Thúy.
“Hình như chúng ta vừa đến là đã trúng mai phục”, hắn vung một đao như bay, vừa thong thả ung dung chặt bay đầu một con chó săn đang nhảy tới, vừa nói lớn với Biểu Đệ.
Bọn họ đang dùng tốc độ nhanh nhất lẩn trốn về phía dãy núi sau lưng Đường môn. Phía sau bọn họ có ba mươi mấy kẻ áo xám tay lăm lăm các loại vũ khí đuổi theo.
Độc châm, tụ tiễn, phi hoàng thạch, liễu diệp đao… các loại ám khí biết tên và cả không biết tên cứ ào ào phóng tới.
Biểu Đệ tránh thoát hai mũi phong diệp tiêu, lại thấy vai sắp trúng một quả lưu tinh chùy đột nhiên từ bên trái bay tới, Sơn Thủy nhanh tay chặt đứt dây xích đồng, quả chùy găm đầy gai nhọn vù một tiếng quét qua đầu hai người, “lắc rắc” vài cái, đã va vào một cái cây nhỏ bên đường, cái cây lập tức gãy đoạn, làm vướng chân bảy tám tên.
Thực ra sau lưng họ vốn là có hơn sáu mươi tên đuổi theo, giữa đường bọn họ và Cố Thập Tam đành chia ra, nhờ đó mà làm giảm đi một nửa binh lực.
Đang đuổi theo bọn họ không chỉ là mấy thanh niên hung hãn, huấn luyện bài bản kia, mà còn một bầy chó săn hung dữ.
Mặc dù đao pháp kín kẽ, chân Sơn Thủy vẫn bị một con ác khuyển cắn bị thương, máu tươi thấm ra, thảm không nỡ nhìn.
Đến rìa rừng rậm, đám người áo xám đột nhiên dừng bước. Sơn Thủy và Biểu Đệ lại không chút do dự chạy vào.
“Tại sao bọn chúng không đuổi theo?”, Biểu Đệ lia mấy đao, chặt mấy bụi gai trước mặt mở đường, hỏi.
Trời u ám phát sợ, rõ ràng vẫn đang là buổi sáng, trong rừng rậm lại tối như đêm đen, bốn bề yên tĩnh tới kinh hồn.
“Có lẽ trước mặt có mai phục”, Sơn Thủy dừng lại, rút Kim sang dược trong người ra, nhanh nhẹn băng bó vết thương ở chân. Đợi khi bọn họ ngẩng đầu lên, phát hiện không xa phía trước có một đạo nhân, mũi ưng mặt gầy, đầu đội mũ hạc đang đứng.
Đôi mắt lão đạo màu tro xám, thần thái mang một vẻ lạnh lùng cao nhã. Ông ta đứng một mình trong một khoảng đất trống nhỏ giữa rừng cây, y phục khẽ động, mồ hôi bốc thành hơi bay lên từ đỉnh đầu.
Người sáng mắt nhìn là biết người này công phu nội gia rất cao thâm.
Đạo nhân khép hờ mắt, tựa như đang hít vào mùi hương nhãn từ trong rừng đưa tới, khẽ cười, vỗ vỗ tay nói: “Hoan nghênh tới Chiêu Hồn cốc”.
Giọng ông ta khô khốc, nghe cứ như tiếng mũi đao cọ vào vỏ đao.
Ánh mắt Sơn Thủy và Biểu Đệ lại đồng thời dừng ở tay phải ông ta.
Tay phải ông ta đeo một chiếc găng tay da hươu.
Biểu Đệ nhìn vào cánh tay phải cầm đao của mình, mi mắt khẽ động, lộ ra vẻ tôn kính: “Đường Ẩn Qua?”.
Mặt mũi đạo nhân cực kỳ âm trầm, cười lạnh nói: “Không sai. Đã ba mươi năm ta không vào giang hồ, không ngờ vẫn có người có thể nhận ra ta”.
Ông ta xem chừng hơn năm mươi tuổi, nội công ngoại công kiêm tu, tinh thông đạo pháp, khinh công với ám khí độc bộ thiên hạ, cùng với ngoại hiệu “Ẩn đao” và “Tiềm đao” phu phụ Đường Ẩn Tung hợp thành một trong những chiêu bài vững chắc của Đường môn. Mấy chục năm trước, ông ta từng dựa vào một cây Long đầu đại đao liên tục quét sạch bảy lộ thổ phỉ hung hãn bên trái Đường môn, từ đó đường vào Thục trước mặt gia môn thông suốt, các thương đoàn đi qua hễ nhắc tới việc này là đều muốn cảm tạ ông ta ba phần. Nhân vậy truyền kỳ này không biết do đâu, sau lần ấy đột nhiên lại một lòng theo đạo, bỏ nhà bỏ vợ con, sống cuộc sống vân du tứ hải.
Nghe nói ông ta thường từ ba tới năm năm mới về Đường môn một lần, chẳng đủ ba ngày lại rời đi. Đến cả con ông ta cũng chẳng biết tung tích của phụ thân mình.
Biểu Đệ trong lòng trầm xuống.
Đường Ẩn Qua là phụ thân của Đường Ngũ.
Sơn Thủy vươn thẳng lưng, lạnh lùng nói: “Sao các hạ còn chưa động thủ?”.
“Ta đợi ngươi xuất thủ”, Đường Ẩn Qua nói: “Các người là khách, khách thì được ưu tiên”.
Ông ta chắp tay sau lưng, không động đậy đứng nguyên, trừ chiếc găng tay đó, trên người không có một thứ binh khí nào khác.
“Vậy thì cung kính không bằng tuân lệnh rồi!”
Sơn Thủy tay nắm đao tới nổi gân xanh, đao chợt vung lên, “xoẹt” một tiếng rít gió bổ tới, đánh thẳng vào hạ bàn ông ta.
Hắn vốn là sát thủ, dùng đao gọn gàng nhanh chóng, không đẹp nhưng vừa thực dụng vừa hiệu quả.
Biểu Đệ kêu lớn một tiếng: “Coi chừng bên phải!”.
Đường Ẩn Qua chuyển thân, né một kích hung hiểm, tay vung lên, một nắm cát độc bay tới như mưa.
Biểu Đệ vươn tay kéo một cái, lôi Sơn Thủy ra khỏi vùng cát độc, đao múa như bay, cũng chỉ ngăn được toàn bộ cát bắn tới vùng mặt Sơn Thủy, một nửa kia vẫn tưới lên mình Sơn Thủy.
“Đây là độc sa hôm qua ta mới điều chế ra, cho dù là Mộ Dung Vô Phong ở đây, cũng phải mất hai ngày mới giải được.”
Nói xong câu này, thân hình ông ta đã biến mất.
Đó rõ ràng là một loại độc dược cực mạnh, chớp mắt đã ăn mòn một mảng lớn y phục của Sơn Thủy, một vùng da trên bụng hắn thoáng chốc đã biến màu đen.
Đỡ Sơn Thủy đi mấy bước, hắn đã bắt đầu thở dốc, sắc mặt xám ngoét.
Biểu Đệ moi trong người ra tất cả thuốc giải độc, tán thành bột, rắc lên vết thương của Sơn Thủy sau đó xé áo băng lại thật chặt.
“Huynh còn đi nổi không?”, hắn hỏi.
“Được”, mặt Sơn Thủy trắng bệch như tờ giấy, cắn chặt răng nói: “Đương nhiên được”.
Bọn họ nhặt đao lên, cuống cuồng hướng vào rừng sâu chạy gần nửa canh giờ mới phát hiện sau lưng mình chẳng hề có động tĩnh gì, đám truy binh kia căn bản không hề đuổi theo.
Một con thằn lằn từ tốn bò lên một cành cây bên đường. Mưa lạnh lẽo rơi lên người họ. Con đường nhỏ khúc khuỷu, không biết dẫn tới chỗ nào.
Sơn Thủy cặm cụi đi, đột nhiên đổ ập người xuống.
Biểu Đệ chạy tới đỡ hắn, hắn mới miễn cưỡng đứng dậy được, lại loạng choạng tiếp tục tiến tới.
“Nghỉ một chút đi”, giọng Sơn Thủy mềm đi: “Hình như ở đây chỉ có chúng ta thôi”.
Hắn chán nản gục xuống dưới một gốc cây, tựa lưng vào đó, nôn thốc nôn tháo vào bụi cỏ.
Lần này, thứ hắn nôn ra là từng ngụm từng ngụm máu tươi, dạ dày đau tựa như bị dao cắt.
Biểu Đệ ở bên lo lắng nhìn hắn, mặt của chính hắn cũng dần dần trở nên trắng bệch, than thở: “Không ngờ cát độc lại lợi hại thế này!”.
Biểu Đệ định kiểm tra vết thương của Sơn Thủy nhưng bị hắn ngăn lại.
“Không cần xem nữa”, hắn nhạt giọng nói: “Đệ phải lập tức rời khỏi nơi này, hiện ta đã hiểu tại sao bọn chúng không đuổi theo nữa”.
Trong sơn cốc trước mặt bắt đầu bốc lên một đám vân vụ, dọc đường bọn họ chỉ thấy cây lớn tán rợp trời, những bụi cây nhỏ lá héo úa, bốn phía là một bầy không gian yên tĩnh tới đáng sợ. Không có tiếng chim, tiếng côn trùng, loài động vật duy nhất nhìn thấy, trừ con thằn lằn leo trèo khi nãy thì chỉ còn lại xác một con nai chết nằm bên cạnh một gờ đá.
Con nai chết đã nhiều ngày, trong môi trường rừng núi ẩm ướt nhưng lại chẳng nhìn thấy ruồi nhặng và dòi bọ.
Trong không khí có một loại vị khí khó tả. Nước đọng trên lá cây nhỏ xuống, ngưng kết lại rơi trên da, lập tức khiến cho toàn thân ngứa ngáy.
Biểu Đệ thoáng nghĩ rồi đột nhiên nói: “Bọn chúng không đuổi theo lẽ nào là vì nơi đây có chướng khí?”.
“Không sai”, Sơn Thủy cười thảm một tiếng: “Trước đây ta từng nghe nói núi lớn phía sau Đường môn quanh năm đều có chướng khí đáng sợ, đó là thứ khí do một loài độc xà giao phối mà sinh ra”.
“Đệ cũng từng nghe qua”, Biểu Đệ thành thật nói.
“Cho nên đệ nhất định phải nhanh chóng rời khỏi đây. Thực ra bọn ta chạy chưa được bao xa, giờ chỉ sợ vẫn còn đang ở rìa khu rừng thôi. Đệ chỉ cần rời khỏi mảng rừng này, chướng khí lập tức tự giải. Nếu không…”, Sơn Thủy không nói tiếp nữa.
… Nếu không nơi đây sẽ là nơi bọn họ bỏ mạng.
Sơn Thủy lại ho dữ dội một trận, trong miệng nôn ra một búng máu.
“Uống chút nước rồi đi tiếp”, Biểu Đệ cởi bao nước bên người, định đổ nước vào miệng hắn.
Hắn lắc đầu, ngực phập phồng thở dốc: “Không cần, đệ giữ lại tự mình dùng đi, ta… trúng độc đã sâu”.
Trong bụng có một cơn bỏng rát trào lên, cơ thịt toàn thân Sơn Thủy theo đó mà co giật, hắn đã không thể đứng dậy nổi nữa.
Biểu Đệ chẳng nói chẳng rằng, giữ lấy miệng Sơn Thủy, dốc nước vào đó, sau đó hắn đỡ Sơn Thủy lên, cõng sau lưng mình: “Đệ cõng huynh đi”.
Sơn Thủy cố sức vùng vẫy trên lưng Biểu Đệ, vết thương bị động vào lại càng nghiêm trọng, đau tới mức khuôn mặt méo đi, nhưng không ngừng nói: “Bỏ ta xuống! Đệ bỏ ta xuống!”.
Biểu Đệ đành buông hắn xuống, thê lương nhìn tứ chi hắn co quắp lại, rúm ró nằm vật trên đất.
Mặt Sơn Thủy dần dần đen lại, đôi mắt tuyệt vọng nhìn về phía trước.
Đến cả Biểu Đệ cũng bắt đầu cảm thấy hít thở khó khăn, đầu váng mắt hoa.
Độc chướng giăng khắp chốn, quả nhiên không thể ở lâu trong rừng
“Nếu đệ còn không đi, chỉ sợ… chỉ sợ cũng phải chết ở nơi này!”, Sơn Thủy đẩy Biểu Đệ ra, thét lên với hắn: “Đi mau! Đi mau lên! Giờ này rồi còn đứng ngây ra sao?”.
Biểu Đệ không những không đi mà ngược lại còn ngồi bên cạnh, vỗ vai hắn, cười nhạt, nói: “Đệ đương nhiên sẽ đi, chỉ là muốn ở đây bầu bạn với huynh thêm chút nữa thôi”.
Nhìn là biết, mạng của Sơn Thủy chỉ còn chốc lát, sắc mặt đã xám như tro.
“Mấy bức họa của ta…”, hắn thở dài, “đều để lại cho đệ”.
Mấy bức họa ấy tuy chẳng ai có thể hiểu nhưng là thứ quý giá nhất của hắn.
“Đệ sẽ giữ gìn chúng cẩn thận.”
Sơn Thủy yên tâm gật đầu, hít vào từng hơi lớn, nhãn thần dần dần tán loạn.
“Huynh còn tâm nguyện gì không?”, Biểu Đệ run giọng hỏi, tay áp vào lưng hắn, truyền vào một chút chân khí.
“Hiện giờ ta… chỉ có một tâm nguyện… đệ… đệ mau chóng rời đi”, hắn túm lấy tay Biểu Đệ, gắng sức nói.
“… Đệ đi đây”, Biểu Đệ không đi mà lại ngồi xuống, để Sơn Thủy tựa lên chân mình.
“Hứa với ta, tiếp tục sống cho tốt”, ánh mắt cuối cùng của hắn sáng lên, chăm chú hồi lâu, khí tức đã không thể luân chuyển nữa, trong lúc hấp hối, chỉ đợi Biểu Đệ nhận lời.
“Đương nhiên!”, Biểu Đệ lớn tiếng nói.
Nghe được câu này, cuối cùng Sơn Thủy cũng nhắm mắt, hơi thở ngừng hẳn.
Khuôn mặt hắn là một màu xám đen, trên mặt còn lưu lại một chút đau đớn và nụ cười nhàn nhạt cuối cùng.
Thân thể hắn không còn ấm nữa mà dần dần lạnh đi, trở nên giá buốt tựa như cỏ cây xung quanh.
Biểu Đệ muốn gục đầu khóc lớn bên người tri kỷ nhưng không còn sức mà khóc, cứ tưởng bản thân sẽ thương tâm phát điên, nhưng lại cảm thấy sức cùng lực kiệt, tựa như mình cũng thành một kẻ mà tính mạng như mành chỉ treo chuông, không còn quan tâm tới kết cục sau cùng nữa, chỉ hi vọng có thể vĩnh viễn ở trong khu rừng yên tĩnh này, lặng lẽ đặt mình xuống.
Đằng xa tiếng nước róc rách, dòng nước trong khe suối chảy thật nhanh.
***
“Sớm thế này mà ngươi dám đưa ta tới đây tản bộ lung tung? Không sợ người nhà ngươi bắt ta đi mất à?”, Ngô Du hỏi.
Chợt nghe tiếng nước róc rách, đi mấy bước nữa đã thấy một con suối nhỏ chảy trước mắt.
Vừa về tới cổng nhà Đường Tiềm đã quăng ngay gậy trúc, hắn thân thuộc từng tấc đất nơi này, hoàn toàn không thể bị lạc.
“Người nơi đây đều nói, Đường môn là một nơi mỹ lệ. Ít nhất không phải ai ai cũng đáng hận như cô tưởng tượng”, hắn bật cười.
Nơi đây là một vườn cây cổ kính, qua nhiều đời tu sửa, hiện giờ quy mô hoàn thiện. Người đời trước vẫn thường hay nhắc tới cảnh tượng mở đất khơi dòng, đào hố khoan giếng, đắp núi xây lầu lúc bấy giờ. Giờ đây nơi này bốn phía đều là thềm hoa, cột khắc, lầu các thâm u. Vừa rời bậc cửa lại tới thềm nhà, đường hoa quanh co, cầu nhỏ thoai thoải, cứ đến lúc xuân hè giao nhau, cỏ cây tươi tốt thì càng là cỏ thơm nức lối, hoa suối dọc đường, đào hồng liễu xanh, chim hót hương đưa.
Ngô Du chỉ có thể thừa nhận: “Phong cảnh nơi đây đích xác không tệ. Ngươi xem, trên hòn đảo nhỏ giữa hồ còn có hai con hạc trắng!”.
Vừa nói xong câu này, nàng lập tức đỏ bừng mặt.
Người đứng bên cạnh rõ ràng chẳng “xem” được, thế mà nàng còn muốn người ta xem xem. Đây chẳng phải cố tình giễu cợt người ta là gì? Nàng len lén liếc hắn một cái, thấy hắn nét mặt bình thản, tựa như không hề để ý, trong lòng bèn thấy hổ thẹn, cúi gằm đầu xuống không nói gì nữa.
Hắn không để tâm, nói: “Cô nói không sai. Giữa hồ đó lúc nào cũng có hai con hạc trắng, trước đây tôi từng chạm vào chúng rồi đấy”.
Ngô Du vẫn rất lúng túng, ngượng nghịu không muốn tiếp lời.
Đường Tiềm đành đứng lại, hỏi: “Sao rồi?”.
“Hai con hạc trắng ấy, ta cũng muốn sờ thử.”
Hắn phì cười: “Cô có thể nhìn rồi sao còn muốn sờ?”.
“Ta cảm thấy sờ so với nhìn còn thú vị hơn.”
“Cô phải báo cho tôi trước, rốt cuộc bọn chúng đang ở chỗ nào”.
Nàng nắm lấy tay hắn, chỉ về hướng mấy con hạc trắng, hắn liền ôm lấy nàng nhảy một bước mười trượng, hai chân điểm xuống nước mấy lần, người lại vút lên, cứ thế nhẹ nhàng đáp xuống hòn đảo.
“Là ở đây?”, hắn hỏi.
“Ừ”, Ngô Du đáp: “Chúng ta tới đây rồi mà hạc vẫn không bay đi?”.
“Đã có người chỉnh sửa cánh của chúng rồi, không bay được xa.”
Hai con hạc đó không những không bay, lại còn phát ra mấy tiếng kêu trong sáng, rồi chạy tới chỗ bọn họ.
“Xin lỗi rồi, hạc huynh, hôm nay ta chẳng đem theo gì ăn cả”, Đường Tiềm vuốt ve cổ hạc, sau đó nắm lấy tay Ngô Du, nhẹ nhàng đặt lên cánh hạc.
Nàng nhắm mắt lại, trên tay có một cảm giác mềm mại trơn nhẵn trước nay chưa từng có.
“Có thú vị không?”, hắn quay đầu sang, dùng đôi mắt trỗng rỗng của mình nhìn nàng.
“Thú vị”.
Nàng nhìn vào đôi mắt hắn, phát hiện ra hắn luôn chăm chú nhìn mình, tựa như chạm vào một nỗi tâm sự nào đó, không nói câu nào.
“Ngươi có dám sờ đầu hạc không?”, nàng đành tìm đại một câu.
“Đương nhiên dám”, hắn vươn tay ra, có điều nhầm hướng, chạm đúng mặt nàng.
Ngô Du không nói, cũng không cử động, mặc cho ngón tay hắn nhè nhẹ vuốt ve khuôn mặt mình.
Ngón tay lướt trên làn da mềm mại, lưu luyến không rời.
“Này, đây đâu phải đầu hạc”, nàng nhỏ giọng nhắc một câu.
“Đương nhiên không phải”, hắn lẩm bẩm, cũng không hề rút tay về, ngược lại còn khẽ khàng nhích lên trán nàng.
Trong lòng nàng dấy lên một trận hoang mang nhưng vẫn buộc bản thân bình tĩnh.
“Ngươi muốn làm gì?”, nàng cảnh giác hỏi.
“Muốn nhìn cô”, hắn cười nhạt, miệng thì nhẹ nhàng nhưng tay vẫn lễ phép chạm vào môi nàng một cái.
Bất chợt, nàng không tự chủ được lùi lại nửa bước, mắt đã ươn ướt.
“Có phải cô vẫn sợ tôi?”, hắn giữ lấy tay nàng, dịu dàng vỗ về, “Bởi vì tôi sinh ra là người Đường môn?”.
“Không sợ?”
“Vậy tại sao vừa rồi lại run bắn lên thế?”
“Ta cảm thấy hơi lạnh”.
Con hạc trắng kêu lên một tiếng rồi bay khỏi.
Đường Tiềm cởi áo khoác ngoài, khoác lên mình nàng.
“Đêm nay cô muốn nghỉ ở đâu?”, trên đường quay về hắn chợt hỏi, “Trang viện của tôi có phòng khách với mấy nô bộc cũ. Nếu cô sợ ở một mình có thể ở chỗ dì tôi”.
“Sẽ không phải nghỉ ở thủy lao nhà các ngươi chứ?”, nàng hỏi ngược một câu.
“Đương nhiên không rồi”, sớm đã quen kiểu mỉa mai của nàng, hắn chuyển đề tài nói chuyện một cách nhẹ tênh, “Cơm trưa tôi mời. Tôi vẫn luôn muốn để cô thưởng thức tay nghề của mình. Có ai nói với cô chưa, tay nghề nấu bếp của tôi rất tốt?”.
Nàng cười nhạt nói: “Không có gì lạ, chẳng phải ngươi luyện đao sao?”.
“Nói như thế tay nghề bếp núc của cô chắc cũng không tồi.”
“Sao biết được?”.
“Cô cũng luyện đao mà”, hắn đưa tay làm tư thế mời, chậm rãi đáp một câu.
Xuyên qua một dãy hành lang dài treo đèn lồng lụa đỏ, Đường Tiềm dẫn Ngô Du tới một tòa trang viện yên tĩnh. Một mình hắn bận rộn trong nhà bếp một hồi rồi bưng lên một đĩa măng thái sợi.
“Sợi măng này mỏng như sợi tóc vậy”, Ngô Du kinh ngạc thốt lên.
“Thật sự rối tung thế cơ à? Tôi nhớ hình như mỗi sợi măng đều có dùng một sợi bún cuộn lại rồi mà, tránh cho đặt lên đĩa trông bị xấu.”
Hắn u ám nhìn nàng.
Ngô Du suýt nữa bị bộ dạng cầu tiến cầu toàn này của hắn chọc cho ôm bụng cười, nhưng vẫn nhịn không cười thành tiếng: “Làm món này nhất định rất phí công sức”.
“Nếu như đao pháp tốt thì sẽ làm rất nhanh”, hắn không bận tâm nói.
“Xấu hổ quá, tay nghề của ta chỉ sợ không bằng một nửa của ngươi rồi.”
“Không dám, không dám.”
Nàng khúc khích một tiếng, cuối cùng phá lên cười.
“Sao lại cười?”
“Lẽ nào ngươi thường tự nấu ăn?”
“Đương nhiên.”
“Ta không tin.”
“Tôi là một người khẩu vị rất khó chiều, thứ người khác làm nếu không ngon, tôi sẽ không nuốt nổi. Mà việc này thì lại thường gặp quá nhiều, buộc tôi chỉ còn cách phải tự mình động thủ.”
Đường Tiềm ngừng một chút rồi nói tiếp: “Cô cứ ngồi đây một lát, còn mấy món nữa, canh cũng sắp xong rồi, tôi đi bưng lên”, hắn đứng dậy, hé cửa, bước ra ngoài.
Ngô Du mỉm cười nhìn hắn, lúc quay đầu lại phát hiện đĩa măng thái sợi đã biến mất.
Nàng kinh ngạc nhìn xung quanh, không thấy một ai, chỉ nghe thấy có tiếng người đằng sau tấm bình phong bằng lưu ly truyền tới.
“Tôi ở đây.”
Ngô Du giật mình, đi ra đằng sau tấm bình phong, nhìn thấy Hà Y đang bốc măng nhét vào miệng nhồm nhoàm ăn.
“Phu nhân!”, nàng khẽ thốt lên.
“Ấy, nhỏ tiếng thôi! Tên mù ấy cực kỳ thính tai, vừa nãy tôi trốn ở ngoài cửa sổ nếu không đã sớm bị hắn phát hiện rồi.”
Tự nhiên nghe thấy hai tiếng “tên mù”, không biết tại sao, trong lòng Ngô Du thấy nôn nao, đành nói: “Cô phải đi mau một chút… Hắn… hắn sắp quay lại ngay đấy”.
“Xem ra hắn tạm thời sẽ không làm hại cô”, chớp mắt, Hà Y đã ăn sạch đĩa măng, thở phào một tiếng, tặc lưỡi than: “Ha, đồ ăn Đường Tiềm quả thật rất ngon, chỉ tiếc không cay chút nào”.
“Đây là thức ăn vùng Tô châu.”
“Đợi bọn tôi làm xong việc sẽ tới đón cô… Nơi đây dù có Đường Tiềm chiếu cố cô nhưng vẫn rất nguy hiểm.”
“Phu nhân hiểu nhầm rồi”, nàng bình tĩnh nói, “Tôi ở lại không phải là vì muốn thân thiết với Đường Tiềm”.
Hà Y ngây người, kinh ngạc nhìn nàng.
“Tôi đang tìm túy ngư thảo.”
“Quá nguy hiểm! Cô lại không biêt võ công”, Hà Y vội nói, “Nói cho tôi loại ấy trông thế nào, tôi đi tìm!”.
“Có những việc không nhất định phải cướp đoạt”, Ngô Du nhạt giọng nói, “Khéo léo cũng có thể đạt được”.
Hà Y nói: “Cô…”, chợt thấy ngoài cửa có chút động tĩnh, vội vàng phi thân đi mất.
Đường Tiềm đặt bát canh lên chính giữa bàn.
“Xin lỗi, măng quá ngon, ta đã ăn hết rồi”, nàng giả bộ áy náy nói.
Trong lòng Đường Tiềm dấy lên niềm vui. Kế đó, hắn nghe thấy tiếng nàng múc canh, tiếng nàng động đũa, tiếng nàng khe khẽ nếm náp, biết hẳn nàng ăn sẽ rất nhanh. Quả nhiên, nàng húp sạch bát canh, mềm giọng khen: “Trước giờ ta chưa từng ăn món canh nào ngon như thế”.
“Quá khen”, hắn liền cao hứng cười nói.
Người ta vẫn nói, tâm tình con gái giống hệt như thời tiết, nắng mưa bất thường, cực khó dự liệu. Tuy tạm thời hắn vẫn chưa nắm được quy luật nhưng rõ ràng đồ ăn cũng có thể giải quyết được một phần vấn đề rồi.
Thậm chí hắn còn đang nghĩ tới ngày mai nên làm gì, đưa nàng tới quán trà có được không? Hay là đi nghe hí kịch thì hơn?
Mưa đêm tầm tã. Ẩn thân trên một thanh xà ngang trên nóc hiên đã ba canh giờ, cuối cùng Hà Y cũng đợi được tới khi màn đêm buông xuống.
Một nô bộc già tay cầm nến đang thắp từng ngọn đèn lồng dọc hành lang dài.
Thấy người này sắp tới chỗ mình, Hà Y lộn người như cá chép, ẩn thân trên nóc hành lang.
Đúng lúc đang định lẻn vào khu nhà Ngô Du nói cho nàng thì chợt nghe thấy trên mái có tiếng bước chân cực khẽ truyền lại. Nàng nhanh trí nhảy lên mái hiên, sau lưng tòa nhà có bóng đen đang nhanh chóng phóng tới.
Nàng tung sợi Tố Thủy Băng Tiêu của mình ra, bóng đen kia bỗng quay đầu lại, chạy tới chỗ nàng.
Là Cố Thập Tam.
“Sao muội cũng tới đây vậy?”, hắn thấp giọng hỏi.
“Đường Dung trộm mất bản thảo của Vô Phong. Muội tới muộn hơn mọi người mấy canh giờ, Sơn Thủy và Biểu Đệ đâu?”
“Bọn ta tách ra rồi, bọn họ chạy về phía núi lớn đằng sau. Có điều bọn họ sẽ để lại ký hiệu.”
“Sẽ tập hợp ở đâu?”, Hà Y hỏi.
“Vốn đã hẹn tới đêm thì gặp nhau trên mái nhà, ta đã đợi rất lâu mà vẫn chưa thấy ai đến, đang đi tìm khắp nơi đây.”
Hà Y nhíu mày, nói: “Bọn họ sẽ không gặp chuyện gì chứ?”.
“Khó nói lắm, lần này Đường gia chuẩn bị rất kĩ lưỡng, thiếu chút nữa là ta trúng bẫy của bọn chúng.”
Ngập ngừng một lúc, Cố Thập Tam tiếp lời: “Nhân lúc đêm khuya người vắng, tốt nhất muội cứ về trước đi. Việc tìm sách một mình ta là được rồi”.
“Coi thường muội hả?”, nàng trợn mắt.
“Lúc muội đi, Mộ Dung Vô Phong có biết không?”, hắn hỏi.
“Không nói với chàng.”
“Bây giờ nhất định nó đang rất lo lắng.”
“Không đâu, trước giờ chàng đều rất yên tâm về muội.”
“Nó không phải là người dễ yên tâm”, Cố Thập Tam nói, “Muội cứ nhanh nhanh về trước thì tốt hơn”.
“Không, muội nhất định phải lấy lại cho được bản thảo cho chàng rồi mới về”, nàng kiên quyết nói, “Huống chi, chúng ta cũng phải đi tìm mấy người Sơn Thủy nữa”.
“Vậy chúng ta đi thôi”.
“Nếu bọn họ chạy vào trong rừng thì bây giờ không ổn, quá tối, chúng ta không thể đốt đuốc.”
Cố Thập Tam thở dài một tiếng, nói: “Muội nhắc không sai”.
Bọn họ len lén tìm tòi trong trang viện của Đường Dung, phát hiện phòng ốc trống không, chỉ có vài nô bộc đi lại ngoài cửa. Hai người họ chia nhau mỗi người một đầu lục tìm từng phòng nhưng đều không tìm thấy tung tích bản thảo.
Không dám đánh rắn động cỏ, hai người đành ẩn thân trên xà nhà, đợi Đường Dung quay lại. Lúc trời vừa sáng, Cố Thập Tam đánh thức nàng, Đường Dung cả đêm không về, hai người quyết định vào rừng tìm Sơn Thủy và Biểu Đệ.
Gió sớm tinh sương rất lạnh, không có chút dấu hiệu nào là sẽ phát sinh chuyện xấu.
Bọn họ phi thân vượt đường, mặt trời vẫn còn ngủ say ở chân núi, trên trời mới chỉ có mấy tia sáng hồng hồng nhạt nhạt.
“Thời tiết hôm nay không tệ”, Hà Y vừa thi triển khinh công vừa nói với Cố Thập Tam.
Nàng phát hiện Cố Thập Tam môi mím chặt, bộ dạng cực kỳ cảnh giác.
“Muội có phát hiện ra không, nơi này yên ắng quá mức”, hắn sải chân, lộn người đẹp mắt, thân hình đã di chuyển tới cạnh một cây đại thụ, nhảy lên đầu một cành cây. Hà Y điểm mũi chân, chuyển mình, nhẹ nhàng bám theo.
“Có phải chúng ta đã đi tới mảnh rừng đó rồi không?”, nàng hỏi.
“Tốt nhất là di chuyển trên cây, bên dưới có tình hình gì cũng dễ dàng phát hiện hơn. Huống chi ta vẫn lo có ám khí và mai phục của Đường môn.”
Hà Y khẽ cười không đáp.
Lần đầu tiên nàng phát hiện ra vị nam tử lớn lên trong miền gió cát hoang sơ nhất vùng Tây Bắc lại cẩn thận kỹ lưỡng như thế.
Bọn họ chuyền cành di chuyển trên cây một vòng, thiếu chút nữa thì lạc đường, chỉ đành nhảy xuống dưới, tìm ký hiệu của Sơn Thủy.
Chẳng bao lâu Hà Y phát hiện trên thân một cây lớn có vết đao chém.
Bọn họ một đường tìm tới đây, đại khái đã đi non nửa canh giờ, đột nhiên đứng lại.
Trước mặt không xa, có một hố lớn mới đào.
Tựa như đã đoán ra gì đó, cả người Hà Y bắt đầu run lên, run mãnh liệt. Cố Thập Tam giữ chặt lấy nàng, hai người cùng đi tới trước hố đất.
Đất đào lên vẫn còn mới, đắp thành một đống ở bên cạnh.
Hai thanh Kim ngư thốn khấu đao cắm thẳng bên hố, trên tua đao màu đỏ tươi còn buộc ba thỏi bạc và mấy tờ ngân phiếu. Trên thân cây bên cạnh, có mấy chữ lớn vạch ngang dọc.
“Người lấy tiền, xin lấp cho ta một vốc đất.”
Hà Y mềm nhũn người tựa người vào thân cây, đã mất đi dũng khí nhìn xuống dưới.
Nàng đã không cần nhìn nữa, bởi vì ở trên một khối đá lớn bên cạnh lại có sáu chữ lớn rắn rỏi.
“Sơn Thủy, Từ Khản chi mộ”.
Bất tri bất giác, nước mắt đã chan hòa.
Biểu Đệ bình yên nằm dưới hố, thi thể Sơn Thủy nằm bên phải, dĩ nhiên đã được mai táng xong, chỉ chừa ra một cánh tay, đang được nắm chặt trong tay Biểu Đệ.
Hà Y chợt cảm thấy khó thở, một cơn đau lòng nặng nề khó nói, quỳ gục xuống đất, khóc lóc thống thiết.
Cố Thập Tam than một tiếng, nhẹ bước nhảy vào trong hố.
Người dưới hố qua đời đã lâu, thi thể đã hoàn toàn cương cứng.
“Hình như hắn không bị ngoại thương gì”, hắn buồn bã nói, “Có điều trong sơn cốc này có khả năng có chướng khí độc chết người”.
Hà Y run giọng hỏi: “Sao hắn không đi? Rõ ràng hắn vẫn có thể rời đi!”.
“Chúng ta không hiểu được họ”, Cố Thập Tam thở dài.
Nàng rút hai thanh đao lên, đặt vào trong hố, giúp Cố Thập Tam đem đống đất bên cạnh lấp xuống.
Đất vàng ẩm ướt, trong đó lẫn toàn lá cây với rễ cỏ, trong hố lại đã tích không ít nước mưa đêm qua.
Ngón tay của Biểu Đệ đã bị nước ngâm cho trương phù lên.
Hà Y nâng tay hắn đặt lên ngực, trong lòng chua xót.
Sau đó nàng nhìn Biểu Đệ lần cuối rồi lấp đất chôn cất.
Lúc đứng lên, nàng cảm thấy choáng váng, vội vàng nói: “Nơi này quả nhiên có chướng khí, trước đây Vô Phong từng nhắc đến rồi. Chàng nói đó là khí của trăn, người thể chất yếu ở lại đây một canh giờ sẽ chết, thân thể khỏe mạnh cũng không trụ nổi quá một ngày… Nhưng… nhưng…”, nàng khóc không ra tiếng: “Muội vẫn không hiểu, tại sao Biểu Đệ không chịu đi…”.
Trời đất yên ắng, dáng vẻ cuối cùng của Biểu Đệ không ngờ lại rất thung dung yên ổn.
Trừ người chết, chẳng ai có thể cho nàng đáp án.
“Trên đời, những việc chúng ta không hiểu rất nhiều”, Cố Thập Tam lại thở dài một tiếng, “Chỉ cần bọn họ tự hiểu là được rồi”.
Hai người đứng trước mộ trầm mặc không nói năng gì, cúi đầu rất lâu. Hà Y lại đưa mắt nhìn những chữ trên tảng đá, nói với Cố Thập Tam: “Thì ra Biểu Đệ họ Từ, chữ kia là chữ gì… Muội không nhận ra được”.
“Ta cũng không biết”, Cố Thập Tam nói.