Mật Mã Phù Thủy

Chương 38


Chương trước Chương tiếp

“Hai tuần đã qua rồi, giờ cha phải đi thôi.”

không mấy bất ngờ nhưng những lời nói này cũng giáng vào tôi một đòn choáng váng. Tôi cụp mắt nhìn xuống để che giấu vẻ bối rối.

“Nếu cha không trình diện sớm, mẹ con sẽ nghĩ cha đang đi lại với người bán cam.”

“Người bán cam ngụ ý nhiều điều trong thế kỷ mười bảy này,” tôi lơ đãng nói, kéo thẳng mấy nút sợi thừng nằm trên lòng mình. Giờ tôi đã tiến bộ vững vàng trên mọi phương diện, từ những bùa chú đơn giản chữa bệnh đau đầu đến các nút dệt phức tạp hơn, có thể gây sóng gợn lăn tăn trên sông Thames. Tôi bện hai sợi thừng màu vàng kim và xanh dương quanh mấy ngón tay. Sức mạnh và sự hiểu biết.

“Ồ, con bình phục nhanh đấy Diana.” Cha tôi quay sang Matthew. “Con bé hồi phục nhanh quá.”

“Cha nói thêm về chuyện đó đi,” chồng tôi đáp lời bằng giọng đều đều khô khan. Cả hai đang cố gắng dùng các câu chuyện hài hước để làm mềm những khía cạnh thô cứng trong mối quan hệ giữa hai người, mà đôi khi khiến họ trở nên không thể chịu đựng nổi.

“Ta rất vui được gặp cậu, Matthew - không kể tới ánh mắt đáng sợ mỗi khi cậu nghĩ rằng ta đang sai khiến Diana,” cha cười nói. Tôi phớt lờ những lời giễu cợt của họ và bện xoắn sợi thừng màu vàng vào hai sợi vàng kim cùng xanh dương. Thuyết phục.

“Cha có thể ở lại tới mai không? Nếu để lỡ dịp lễ kỷ niệm thì cha sẽ thấy ân hận đấy.” Ngày mai là lễ hội Hạ Chí và cả thành phố đang nghỉ lễ. Tôi sợ rằng, cái cớ đêm cuối cùng ở bên con gái cũng không thể níu giữ cha ở lại, nên đành ngại ngùng dựa dẫm vào những hứng thú về học thuật của ông.

“Lễ hội có rất nhiều phong tục dân gian để cha quan sát.”

“Các phong tục dân gian sao?” Cha tôi bật cười. “Con thật khéo nói, nhưng tất nhiên cha sẽ ở lại tới ngày mai. Annie đã làm tặng cha một vòng hoa, và cha cùng Will sẽ đến hút thuốc với Walter, sau đó sẽ ghé thăm Cha Hubbard.”

Matthew cau mày. “Cha biết Hubbard sao?”

“Ồ, tất nhiên. Khi mới tới, ta đã chủ động giới thiệu bản thân với ông ta. Ta nên làm vậy khi ông ấy là người quản lý tại đây. Cha Hubbard nhận ra ta là cha của Diana ngay. Loài của cậu có khả năng khứu giác thật đáng nể.” Cha tôi nhìn Matthew bằng ánh mắt nhân từ. “một người đàn ông thú vị, với những ý tưởng xây dựng một gia đình lớn và hạnh phúc cho tất cả các sinh vật khác người.”

“Thế giới đó sẽ hoàn toàn hỗn loạn.” Tôi nói thẳng.

“Tất cả chúng ta đã góp phần tạo ra nó, như đêm qua, trong cùng một mái nhà với ba ma cà rồng, hai phù thủy, một yêu tinh, hai con người và một con chó. Đừng vội gạt bỏ các ý tưởng mới, Diana.” Cha nhìn tôi bằng ánh mắt phản đối. “Có thể cha sẽ qua chơi với Catherine và Marjorie. Rất nhiều phù thủy đổ ra đường lang thang vào tối nay nên cha tin hai người họ biết chỗ nào đông vui nhất.” Dường như ông giao tiếp bằng tên riêng với phân nửa thành phố này.

“Và cha phải cẩn thận, đặc biệt lúc ở quanh Will, cha ạ. Đừng nói ‘Oa’ hay ‘Được đấy, Shakespeare.’” Cha của tôi rất thích tiếng lóng. Ông từng nói, đó là dấu hiệu của một nhà nhân chủng học.

“Giá mà cha có thể đưa Will về nhà cùng mình, cậu ta sẽ là – xin lỗi con yêu - một đồng nghiệp thú vị. Cậu ta có khiếu hài hước và trường của chúng ta nên làm việc với những người như vậy. Thay đổi từng chút một, con hiểu ý cha chứ.” Ông xoa hai bàn tay vào nhau. “Kế hoạch của con thế nào?”

“Bọn con không có kế hoạch nào cả.” Tôi ngây người nhìn Matthew và anh nhún vai đáp trả.

“Con nghĩ mình sẽ trả lời thư từ,” anh ngập ngừng nói. Chồng thư gửi tới đã chất cao tới mức báo động.

“Ôi, không.” Cha tôi ngồi xuống ghế với vẻ mặt khó chịu.

“Chuyện gì vậy ạ?” Tôi quay đầu để xem ai hay cái gì mới bước vào phòng.

“Đừng nói với cha rằng con là kiểu người học thuật nhé, những kẻ chẳng phân biệt nổi sự khác biệt giữa cuộc sống và công việc.” Ông hất mạnh hai tay như thể né tránh một thứ khó chịu. “Cha không muốn tin rằng con gái mình là một kẻ giống họ.”

“Cha hơi cường điệu rồi,” tôi đáp khô khan. “Bọn con có thể ở bên cha vào buổi tối, nhưng con chưa bao giờ hút thuốc. Đầu tiên nó là vấn đề liên quan tới lịch sử với Walter, vì anh ta đã giới thiệu thuốc lá vào nước anh.”

Giờ đây, cha tôi còn tỏ vẻ kinh hãi hơn. “Hoàn toàn không. Chúng ta sẽ liên kết lại như những người đồng chí. Lionel Tiger biện luận rằng…”

“Con không phải người hâm mộ cuồng nhiệt của Tiger,” Matthew cắt ngang. “Gã ăn thịt đồng loại đó chẳng bao giờ khiến con thấy hứng thú.”

“Chúng ta có thể đặt chủ đề ăn thịt người sang bên và tập trung thảo luận lý do mà cha không muốn ở bên Matthew và con vào đêm cuối cùng trước không?” Tôi cảm thấy bị tổn thương.

“không phải vậy, con yêu. Matthew, giúp ta thoát khỏi chuyện này đi, hãy đưa Diana ra ngoài hẹn hò, hẳn cậu phải nghĩ ra điều gì đó để làm chứ.”

“Trượt pa-tanh ư?” Đôi lông mày của Matthew nhướn lên. “Chẳng có sân trượt pa-tanh nào tại London vào thế kỷ mười sáu cả và con muốn nói thêm rằng, ở thế kỷ hai mươi mốt cũng chỉ còn vài cái sân quý báu thôi.”

“Chết tiệt.” Cha tôi và Matthew đã chơi trò “mốt đối đầu theo xu thế” vài ngày nay và trong khi cha tôi cảm thấy vui mừng vì sự thịnh hành của nhạc disco hay xu hướng Pet Rock bị phai tàn dần theo thời gian thì lại hoàn toàn choáng váng lúc hay tin, những thứ khác như bộ com-lê quần ống loe giờ trở thành mục tiêu chế giễu. “Ta rất thích trượt pa-tanh. Rebecca và ta thường tới một sân tại Dorchester khi muốn tránh xa Diana vài tiếng, và…”

“Chúng con sẽ đi dạo,” tôi vội vàng lên tiếng. Cha tôi không cần phải thẳng thắn tới mức kể cho Matthew về những hoạt động cha và mẹ thường làm lúc rảnh rỗi. Có vẻ ông nghĩ rằng, những chuyện đó sẽ khiến Matthew bị choáng váng, nhưng một khi thất bại, ông liền quay sang gọi Matthew là “Ngài Lancelot”, một kiểu đánh giá khó chịu.

“đi dạo, con sẽ đi dạo.” Cha tôi tạm dừng lời. “Con muốn ám chỉ theo nghĩa đen phải không?”

Ông rời khỏi vị trí bên cạnh chiếc bàn. “Chả trách các sinh vật khác người sắp tuyệt chủng rồi. Ra ngoài đi, cả hai đứa, ngay lập tức. Và ta yêu cầu cả hai phải thật vui vẻ nhé.” Ông dẫn chúng tôi về hướng cửa.

“Làm thế nào ạ?” Tôi hỏi, lúc này đã hoàn toàn bối rối.

“một cô con gái không nên dành câu hỏi này cho cha mình. Giờ là đêm trước lễ hội Hạ chí. Con hãy ra ngoài và hỏi người đầu tiên con gặp ấy, mà tốt hơn là làm theo những người khác. Hú dưới ánh trăng chẳng hạn. Thi triển phép thuật. Hôn nhau ít nhất một lần. Hãy chắc chắn rằng cả quý ngài Lancelot đây cũng làm nhé.” Ông hất hàng lông mày. “Hãy vẽ một bức chân dung nhé, quý cô Bishop?”

“Con cũng nghĩ vậy.” Giọng nói của tôi đầy sự nghi ngờ về những gợi ý vui chơi của cha mình.

“Tốt. Ta sẽ không về trước bình minh đâu, nên đừng đợi. Tốt hơn là ở bên ngoài cả đêm ấy. Jack đang ở cùng Tommy Harriot, Annie ở với dì của con bé còn Pierre thì… ta cũng không biết đang ở đâu nhưng cậu ta không cần người trông nom. Ta sẽ gặp hai đứa vào bữa sáng mai.”

“Cha bắt đầu gọi Thomas Harriot là Tommy từ khi nào vậy?” Tôi hỏi nhưng ông giả bộ chẳng nghe thấy.

“Nào con, hãy ôm cha trước khi đi và đừng quên nếm trải thật nhiều niềm vui nhé, được chứ?” Ông dang tay ôm tôi vào lòng. “Hẹn gặp con ngày mai, con yêu.”

Cha đẩy chúng tôi ra khỏi cửa và đóng sầm lại trước mặt cả hai. Tôi định đưa tay với cái then cửa thì bàn tay mát lạnh của Matthew đã nắm lấy tay tôi.

“Ông ấy sẽ rời khỏi đây sau vài tiếng nữa, Matthew ạ.” Tôi đưa tay còn lại về phía cánh cửa và Matthew lại nắm lấy nó.

“anh biết và ông ấy cũng biết chúng ta hiểu,” Matthew giải thích.

“Vậy thì ông ấy nên hiểu rằng, em muốn được ở bên ông nhiều hơn.” Tôi nhìn chằm chằm vào cánh cửa, mong rằng cha sẽ mở nó ra. Tôi có thể trông thấy những sợi tơ xuất phát từ bản thân, xuyên qua các thớ gỗ trên cửa và dẫn tới vị pháp sư ở bên trong. một trong các sợi tơ bị cắt đứt và rơi lên bàn tay tôi như một dải cao su. Tôi thở hổn hển. “Cha ơi!”

“đi đi, Diana!” Ông hét lên.

Matthew cùng tôi lang thang quanh thành phố, quan sát các tiệm đóng cửa sớm và nhận thấy những đám ăn chơi đã lấp đầy các quán rượu. Những người bán thịt đang sắp xếp các chồng xương một cách kỳ lạ trước cửa nhà. Tất cả đều trắng ởn và sạch sẽ như thể chúng mới được luộc lên.

“Người ta dùng xương vào việc gì vậy?” Tôi hỏi Matthew sau khi cả hai nhìn thấy người thứ ba làm điều tương tự.

“Đống xương đó sẽ được đốt.”

“Lửa ăn mừng ư?”

“không,” Matthew đáp, “những đống lửa cháy trên xương. Theo truyền thống, mọi người ăn mừng đêm trước lễ Hạ chí bên ngọn lửa lớn: lửa từ xương, lửa từ củi và cả hai. Mặc dù ông thị trưởng đã cảnh báo về việc ngừng và chấm dứt các lễ kỷ niệm kiểu mê tín dị đoan như vậy mỗi năm, nhưng mọi người vẫn đốt lửa bằng mọi cách.”

Matthew chiêu đãi tôi một bữa tối tại quán trọ danh tiếng Belle Savage nằm ngay phía ngoài Blackfriars trên đồi Ludgate. không chỉ là một quán ăn bình thường, tiệm Belle Savage còn là một tổ hợp giải trí, nơi các vị khách có thể xem kịch nghệ và các trận đấu được rào chắn cẩn thận, chưa kể đến Marocco, con ngựa nổi tiếng vì có thể chọn ra những người còn trinh tiết giữa đám đông. Tuy nơi đây không phải sân trượt pa-tanh ở Dorchester nhưng nó gần chỗ chúng tôi ở.

Thanh thiếu niên của thành phố đều đổ ra đường thành từng đám, người này la hét lăng mạ và ám chỉ bóng gió với người kia mỗi khi họ đi từ quán rượu này sang quán rượu khác. Họ đã phải lao động nặng nhọc gần như cả ngày với vai trò người hầu hay thợ học việc, thậm chí nhiều buổi tối, họ cũng không có được thời gian riêng của bản thân mà phải làm thêm những việc được nhà chủ giao cho như trông tiệm, trông nhà, chăm sóc đám trẻ con, đi kiếm nước và thức ăn, làm hàng trăm việc nhà nhỏ nhặt khác nhau để duy trì lối sống trong một gia đình. Nhưng đêm nay, London là của họ và chính họ là những người tạo nên nó.

Chúng tôi đi về qua Ludgate và khi cả hai tiến tới gần lối vào khu Blackfriars thì hồi chuông điểm chín giờ tối vang lên. Thường ngày, vào giờ này, các thành viên của Đội Tuần Phòng bắt đầu đi tuần và mọi người nên trở về nhà, nhưng dường như đêm nay, không một ai muốn tuân theo các luật lệ, dù mặt trời đã lặn khoảng một tiếng trước và một ngày nữa trăng mới tròn, nhưng các con phố của London giờ đã ngập tràn ánh trăng.

“Chúng ta cứ lang thang tiếp có được không?” Tôi hỏi. Tôi và Matthew luôn đi tới một nơi cụ thể như tới lâu đài của Baynard để gặp Mary, tới St. James Garlickhythe để thăm nhóm hội phù thủy hay tới sân nhà thờ Thánh Paul để tìm sách. Cả hai chưa bao giờ đi dạo qua thành phố mà không có một đích đến cụ thể trong đầu như thế này.

“Vì chúng ta phải ở bên ngoài vui chơi, anh chẳng thấy lý do nào để phản đối cả.” Matthew nói rồi nghiêng đầu hôn trộm một cái.

Chúng tôi đi dạo quanh cổng phía Tây của nhà thờ Thánh Paul, nơi vẫn tấp nập và hối hả bất chấp giờ giấc, rồi cả hai ra khỏi sân nhà thờ bằng cổng phía bắc. Từ đây, khu Cheapside mở ra, con phố rộng rãi cũng như thịnh vượng nhất thành phố, nơi các thợ kim hoàn làm việc. Chúng tôi đi vòng qua đài phun nước tại ngã tư Cheapside, đang được trưng dụng thành bể lội nước của một nhóm mấy cậu chàng om sòm, rồi cả hai hướng về phía đông. Matthew chỉ cho tôi lộ trình của đám rước trong lễ đăng quang của Anne Boleyn và ngôi nhà mà Geoffrey Chaucer từng sống thời thơ ấu. Vài thương gia mời Matthew tham gia trò ném bi cùng họ nhưng sau ba lần trúng đích liên tiếp thì họ liền la ó đuổi anh ra. “Giờ anh có thấy vui khi chứng minh được vị trí đầu đàn của mình không?” Tôi trêu anh khi Matthew vòng tay qua để kéo tôi lại gần.

“Vô cùng,” anh đáp, sau đó trỏ vào một cây chỉ đường trên phố. “Nhìn này.”

“Khu Thương mại Hoàng gia.” Tôi quay sang anh với vẻ phấn khích. “Vào buổi đêm! anh vẫn nhớ.”

“một quý ông không bao giờ quên điều gì,” anh thì thầm và cúi thấp đầu. “anh không biết còn tiệm nào mở cửa không, nhưng đèn vẫn sáng. Em sẽ dạo bước cùng anh qua khu sân trong chứ?”

Chúng tôi đi qua các khung cửa tò vò rộng lớn, nằm bên cạnh là tháp chuông có đặt tượng một con châu chấu bằng vàng trên đỉnh. Vào đến bên trong, tôi chầm chậm xoay người để có cái nhìn đầy đủ nhất về tòa nhà bốn tầng này, cùng hàng trăm gian hàng bán mọi thứ đồ, từ áo giáp sắt tới đót giày. Loạt bức tượng của các vị vua nước anh nhìn xuống đám đông khách hàng và thương nhân, kèm theo đó là một đợt bệnh dịch châu chấu được trang trí trên đỉnh các ô cửa sổ mái vòm bằng kính.

“Châu chấu là biểu tượng của Gresham, ông ta cũng không hề ngần ngại tự quảng bá bản thân,” Matthew cười nói, dõi theo ánh mắt của tôi.

Quả thực, vài cửa tiệm vẫn mở và dãy đèn chạy dọc con đường mái vòm bao quanh khu sân trong vẫn thắp sáng, còn chúng tôi không phải là những người duy nhất thích thú buổi tối nay.

“Tiếng nhạc từ đâu vậy?” Tôi hỏi, nhìn ngó xung quanh tìm người hát rong.

“trên tháp,” Matthew đáp và chỉ về hướng cả hai tiến vào. “Các thương gia góp tiền tổ chức nhiều buổi hòa nhạc vào những ngày thời tiết ấm áp. Hoạt động này có ích cho việc kinh doanh”

Matthew cũng là một người có ích cho việc kinh doanh, dựa trên số lượng người bán hàng chào anh bằng tên riêng thì biết. anh cười đùa và hỏi thăm về vợ con của họ.

“anh sẽ quay lại ngay,” anh nói và tạt vào một cửa tiệm gần đấy. Tôi bối rối đứng nghe nhạc và quan sát một phụ nữ trẻ có uy quyền và quyết đoán tổ chức một buổi dạ vũ ngẫu hứng. Mọi người đứng thành vòng tròn, nắm tay nhau và nhảy lên nhảy xuống như bỏng ngô nổ trên chảo nóng.

Khi quay lại, Matthew tặng tôi quà kèm với tất cả các nghi thức kiểu cách.

“một cái bẫy chuột,” tôi cười khúc khích nhìn chiếc hộp gỗ nhỏ có cánh cửa trượt.

“Nó là một cái bẫy chuột đúng kiểu,” anh đáp và cầm lấy tay tôi, rồi bắt đầu lùi bước dẫn tôi vào trung tâm của đám đông. “Khiêu vũ cùng anh nào.”

“Hiển nhiên là em không biết điệu nhảy này rồi.” Nó không hề giống những điệu mà chúng tôi từng khiêu vũ tại Sept-Tours hoặc ở lâu đài của Rudolf.

“Đúng, anh cũng vậy,” Matthew đáp, không buồn ngó lại các cặp đôi đang xoay vòng sau lưng. “Đây là một điệu nhảy cổ – điệu Chú Ngựa Ô nhỏ – các bước cũng dễ thôi.” anh kéo tôi vào vị trí cuối hàng, giật cái bẫy chuột khỏi tay tôi và trao cho một cậu nhóc lang thang cầm hộ, hứa hẹn với nó một đồng xu nếu nó trả lại vào cuối bản nhạc.

Matthew nắm lấy tay tôi, bước vào hàng người khiêu vũ. Khi họ di chuyển, chúng tôi làm theo, tiến tới ba bước và một bước bật nhỏ, lùi sau ba bước kèm một bước bật nhỏ. Sau vài lần lặp lại, chúng tôi chuyển sang các bước nhảy phức tạp hơn khi mười hai người khiêu vũ trong hàng chia làm hai hàng nhỏ sáu người và bắt đầu đổi chỗ, bắt chéo từ hàng này sang hàng khác, tạo thành làn sóng ra sau và trước.

Lúc điệu nhảy kết thúc, chúng tôi nhanh chóng rời khỏi khu Thương mại Hoàng gia trước khi đám đông khiêu vũ trở nên quá khích, những tiếng yêu cầu đòi nhiều giai điệu đặc trưng hơn vang lên. Matthew lấy lại cái bẫy chuột cho tôi nhưng thay vì đưa tôi về thẳng nhà, anh đưa cả hai về phía nam, hướng ra sông. Chúng tôi đi xuôi xuống nhiều ngõ hẻm, cắt ngang rất nhiều sân nhà thờ, tới khi tôi hoàn toàn mất khả năng định hướng, cả hai đã tiến vào All Hallows Vĩ đại, cũng tòa tháp vuông cao lớn và dãy mái hiên bị bỏ hoang, nơi các thầy tu từng một thời đi qua. Giống hầu hết các nhà thờ khác tại London, All Hallows đang dần đổ nát, phần công trình bằng đá từ thời trung cổ của nó bị vỡ vụn.

“Em có hứng thú trèo lên không?” Matthew hỏi, cúi đầu tiến vào dãy mái hiên và bước qua một cánh cửa gỗ thấp.

Tôi gật đầu và cả hai bắt đầu trèo lên. Chúng tôi đi ngang qua mấy cái chuông, chúng mà kêu lên lúc này thì chẳng vui vẻ gì và Matthew kéo mạnh cánh cửa sập trên mái. anh nhảy vụt qua khung cửa rồi với xuống nhấc tôi lên cùng. Chúng tôi thấy mình bỗng nhiên đứng sau hàng lỗ châu mai của tòa tháp, với tất cả khung cảnh London trải rộng bao la dưới chân.

Những đống lửa hội trên nhiều quả đồi bên ngoài thành phố đã được đốt sáng, cả những chiếc đèn bão lúc lắc lên xuống trên mũi mỗi thuyền và xà lan đi ngang qua sông Thames. Từ khoảng cách này, trong bóng đêm bao phủ, con sông giống như một tấm màn sân khấu, còn những chiếc đèn chập chờn tựa đàn đom đóm ngang qua. Tôi nghe thấy tiếng cười đùa cùng tiếng nhạc, tất cả những âm thanh bình dị của cuộc sống mà tôi đã quá quen thuộc trong suốt nhiều tháng ở đây.

“Vậy em đã diện kiến nữ hoàng, trông thấy khu Thương mại Hoàng gia vào buổi tối, thực sự tham gia vào một vở diễn thay vì chỉ đứng quan sát từ bên ngoài,” Matthew nói, điểm lại trên đầu các ngón tay.

“Chúng ta cũng đã tìm ra Ashmole 782. Em khám phá ra mình là một thợ dệt và phép thuật chẳng có quy luật như em mong chờ.” Tôi nhìn bao quát toàn thành phố, nhớ lại lần đầu tiên chúng tôi tới London, Matthew đã chỉ ra giới hạn cho những nỗi sợ giờ không còn trong tôi nữa. Lúc này, tôi có thể tự mình gọi tên chúng. “Đó là Bridewell.” Tôi chỉ. “Và nhà thờ Thánh Paul. Cả khu đấu trường trò chó trêu gấu nữa.” Tôi quay sang chàng ma cà rồng đứng yên lặng bên mình. “Cảm ơn anh vì buổi tối nay, Matthew. Chúng ta chưa bao giờ có một buổi hẹn hò công khai như thế này. Quả là phép màu.”

“anh chưa làm tốt công việc tán tỉnh em thì phải? Chúng ta nên có nhiều buổi tối như thế này, khiêu vũ và nhìn ngắm trời sao.” anh ngẩng mặt lên và ánh trăng dìu dịu phản chiếu từ làn da tái nhợt của anh.

“anh thực sự đang tỏa sáng đó.” Tôi nhẹ nhàng nói, với tay chạm lên cằm anh.

“Em cũng vậy.” Bàn tay của Matthew trượt xuống eo tôi và hành động đó đã mang cả đứa con vào trong vòng tay ôm siết của cả hai. “Chuyện này nhắc anh nhớ, cha em đã cho chúng ta cả một danh sách công việc phải làm.”

“Chúng ta đã vui vẻ. anh tạo ra phép thuật bằng cách đưa em tới khu thương mại và khiến em bất ngờ trước khung cảnh này.”

“Vậy chỉ còn hai việc nữa, quý bà hãy chọn đi: anh có thể hú dưới ánh trăng hoặc chúng ta sẽ hôn nhau say đắm.”

Tôi mỉm cười và nhìn ra xa, cảm thấy xấu hổ một cách kỳ lạ. Matthew ngẩng đầu nhìn mặt trăng lần nữa, chuẩn bị sẵn sàng.

“không gào hú nhé vì anh sẽ khiến Đội Tuần Phòng tới đây mất,” tôi bật cười phản đối.

“Vậy thì hôn nhé,” anh dịu dàng nói, đặt môi mình lên môi tôi.

***

Ngày hôm sau, cả gia đình đều ngáp dài suốt bữa sáng, sau một đêm ở bên ngoài tới tận sớm mai. Tom và Jack vừa mới thức giấc và đang ngấu nghiến bát cháo đặc thì Gallowglass bước vào thì thầm điều gì đó với Matthew. Miệng tôi khô khốc khi nhìn thấy ánh mắt đượm buồn của Matthew.

“Cha tôi đâu?” Tôi đứng phắt dậy.

“Ông ấy đi rồi,” Gallowglass cộc cằn đáp.

“Tại sao cậu không ngăn ông ấy lại?” Tôi hỏi Gallowglass, nước mắt chực trào dâng. “Ông ấy không thể đi được. Tôi chỉ cần thêm chút thời gian bên cha thôi.”

“Tất cả thời gian trên thế giới gộp vào cũng không đủ đâu, cô ạ,” Gallowglass buồn bã nói.

“Nhưng ông ấy chưa chào tạm biệt,” tôi lặng người thì thầm.

“Cha mẹ sẽ chẳng bao giờ nói lời từ biệt cuối cùng với con của họ đâu,” Matthew lên tiếng.

“Ông Stephen bảo cháu đưa cô cái này,” Gallowglass nói. Đó là một mảnh giấy nhỏ, được gấp thành hình con thuyền buồm.

“Cha muốn gập hình thiên nga,” tôi nói, lau khô mắt, “nhưng ông gập thuyền giỏi hơn.” Tôi thận trọng gỡ tờ giấy nhắn ra.

Diana:

Con đã trưởng thành đúng như cha hằng mong đợi.

Cuộc sống là một sợi tơ dọc mạnh mẽ trên khung cửi thời gian. Cái chết chỉ là sợi tơ ngang bình thản.

Nhờ những đứa trẻ của con và cả những đứa con của chúng nữa mà cha vẫn sẽ tồn tại mãi mãi.

Cha

Tái bút: Mỗi khi con đọc câu “có thứ gì đó đang thối nát ở Đan Mạch” trong Hamlet,

hãy nhớ đến cha.

“Em nói với anh rằng, phép thuật chỉ là lòng khao khát tạo thành sự thật. Có thể các câu thần chú không là gì ngoài những lời nói mà ta tin tưởng bằng cả trái tim,” Matthew lên tiếng và bước tới đặt tay trên vai tôi. “Ông ấy yêu thương em. Mãi mãi. Và anh cũng vậy.” Những lời anh nói đan vào các sợi tơ gắn kết chúng tôi, phù thủy và ma cà rồng. Chúng chứa đựng mọi cảm xúc trong anh: dịu dàng, tôn trọng, kiên trì và hy vọng.

“Em cũng yêu anh,” tôi thì thầm, củng cố thêm cho câu thần chú của anh.


Bình luận
Sắp xếp
    Loading...