Mặc một chiếc áo thụng len với thắt lưng bằng dây thừng, trông hắn giống như một giáo sĩ thời trung cổ. Sophie không hình dung nổi hắn là ai, tuy nhiên, cô bỗng cảm thấy một sự kính phục mới có đối với sự nghi ngờ của Teabing khi cho rằng Giáo hội đứng sau vụ này.
"Các người biết tôi đến đây là vì cái gì", gã thầy tu nói, giọng ồm ồm.
Sophie và Teabing ngồi trên đi-văng, tay giơ lên theo lệnh của kẻ tấn công. Langdon nằm rên trên sàn. Cặp mắt của gã thầy tu ngay lập tức dừng trên viên đá đỉnh vòm trong lòng Teabing.
Giọng Teabing đầy thách thức: "Ông sẽ không mở được nó đâu,, "Thầy tôi rất thông thái", gã thầy tu đáp, nhích lại gần, khẩu súng lia qua lia lại giữa Teabing và Sophie.
Sophie không biết người phục vụ của Teabing ở đâu. Ông ta không nghe thấy Robert ngã sao?
"Thầy của ông là ai?" Teabing hỏi. "Có lẽ chúng ta có thể đạt được một thoả thuận về tài chính".
"Chén Thánh là vô giá", hắn ta tiến lại gần hơn.
"Ông đang chảy máu kìa", Teabing nhận xét một cách bình tĩnh, hất đầu về phía mắt cá chân bên phải của gã thầy tu, nơi một vệt máu đang chảy xuống từ chân hắn, "và ông đang đi tập tễnh".
"Cũng như ông thôi", gã thầy tu trả lời, chỉ vào những chiếc nạng bằng kim loại bên cạnh Teabing. "Bây giờ, hãy đưa cho tôi viên đá đỉnh vòm".
"Ông cũng biết về viên đá đỉnh vòm?" Teabing hỏi, giọng ngạc nhiên.
"Đừng bận tâm đến cái mà tôi biết. Hãy đứng lên từ từ và đưa nó cho tôi".
"Đứng lên là một việc rất khó khăn đối với tôi".
"Đích thị. Tôi ưng là đửng có ai cố thử di chuyển nhanh".
Teabing luồn tay phải qua một chiếc nạng và nắm viên đá đỉnh vòm trong tay trái. Loạng choạng trên đôi chân của mình, ông đứng thẳng lên, giấu viên đá hình trụ nặng trong lòng tay trái, và tựa tay phải chông chênh lên chiếc nạng.
Gã thầy tu sáp lại cách ông không tới một mét, khẩu súng nhằm thắng vào đầu Teabing. Sophie nhìn, cảm thấy tuyệt vọng khi gã thầy tu với tay ra để lấy viên trụ đá.
"Ông sẽ không thành công", Teabing nói. "Chỉ những người xứng đáng mới có thể mở khoá viên đá đỉnh vòm".
Chỉ có Chúa mới phán xét được ai là người xứng đáng, Silas nghĩ.
"Nó nặng đấy", người đàn ông chống nạng nói, cánh tay chao đi, "Nếu ông không cầm lấy nó ngay, tôi sợ là tôi sẽ làm rơi nó mất!" Ông lảo đảo.
Silas bước nhanh tới để lấy hòn đá, và trong khi đó, người chống nạng mất thăng bằng. Chiếc nạng trượt đi bên dưới ông và ông ngã nghiêng về bên phải. Không! Silas lao tới để đỡ lấy viên đá, khẩu súng hạ thấp xuống trong quá trình đó. Nhưng viên đá đỉnh vòm đang lăn ra xa hắn. Khi ngã về bên phải, tay trái Teabing vung về phía sau và hình trụ tuột khỏi lòng bàn tay lăn về phía đi-văng. Cùng lúc ấy, cái nạng bằng kim loại vừa trượt đi bên dưới ông chợt như được tăng tốc, quét một vòng cung rộng trong không khí nhằm vào cẳng Silas.
Cơn đau như xé cơ thể Silas khi chiếc nạng đập trúng chiếc thắt lưng hành xác, ấn những chiếc ngạnh của nó vào da thịt vốn đã trầy xước của hắn. Oằn người lại, Silas khuyu gối làm cho cái thắt lưng thít sâu hơn. Khẩu súng lục cướp cò với một tiếng nổ chói tai vang lên, viên đạn cắm vào ván sàn khi Silas ngã. Trước khi hắn kịp nâng súng lên và bắn tiếp, bàn chân của người phụ nữ đã phi trúng cằm hắn.
***
Ở dưới chân đoạn đường vào, Collet nghe thấy tiếng súng.
Tiếng nổ bặt nhỏ làm anh hoảng hốt. Với việc Fache đang trên đường đến đây, Collet đã từ bỏ hi vọng lập được thành tích cá nhân trong việc tìm ra Langdon tối nay. Nhưng Collet quyết không thể để Fache đưa anh trước Hội đồng Kỷ luật Bộ vì tội sao lãng thủ tục cảnh sát.
Một tiếng súng nổ bên trong một ngôi nhà tư. Và anh thì đứng đợi ở chân đoạn đường vào?
Collet biết cơ hội lặng lẽ tiếp cận đã qua từ lâu. Anh cũng biết nếu mình đứng vô công rồi nghề thêm một giây nữa, thì toàn bộ sự nghiệp của anh sẽ thành chuyện xa xưa ngay sáng mai. Nhìn cánh cổng sắt của điền trang, anh quyết định.
"Hãy buộc dây và kéo đổ cánh cổng".
***
Trong ngóc ngách tâm trí ngất ngư, Robert Langdon nghe thấy tiếng súng nổ. Cả một tiếng thét đau đớn nữa. Của mình ư?
Một cái khoan đang khoan lỗ đằng sau sọ ông. Đâu đó rất gần, có tiếng người đang nói chuyện.
"Anh đã ở nơi quái quỷ nào vậy?" Teabing quát.
Người quản gia hớt hải chạy vào: "Chuyện gì vậy? Ôi lạy Chúa tôi! Hắn là ai? Tôi sẽ gọi cảnh sát ngay đây!".
"Quỷ tha ma bắt anh đi! Đừng gọi cảnh sát. Hãy tỏ ra mình có ích và kiếm cho chúng tôi cái gì đó để trói con quái vật này lại".
"Và một ít đá", Sophie nói với theo.
Langdon lại cảm thấy như đang trôi bồng bềnh. Thêm nhiều âm thanh nữa. Chuyển động. Bây giờ thì ông được đặt trên đi-văng. Sophie chườm túi đá to lên đầu ông. Đầu ông rất đau.
Khi Langdon bắt đầu nhìn rõ, ông thấy mình đang nhìn chằm chằm vào một cơ thể bất động trên sàn. Mình đang có ảo giác sao? Cơ thể to lớn của gã thầy tu bạch tạng nằm sóng xoài và bị một mảnh băng dính bịt miệng. Cằm bị rách và áo chùng đẫm máu ở chỗ đùi phải. Cả hắn hình như cũng đang hồi tỉnh.
Langdon quay về phía Sophie: "Ai vậy? Chuyện gì… đã xảy ra?".
Teabing tập tễnh tiến lại: "Anh đã được cứu bởi một hiệp sĩ vung thanh Escalibur (1) do Khoa chỉnh hình hạng nhất chế tạo".
"Hả?" Langdon cố gắng ngồi dậy.
Bàn tay Sophie run rẩy nhưng âu yếm: "Hãy nghỉ một phút, Robert".
"Tôi e rằng", Teabing nói, "tôi vừa mới chứng minh cho tiểu thư bạn anh thấy cái lợi do thể trạng bất hạnh của tôi. Hình như mọi người đều đánh giá thấp anh".
Từ chỗ ngồi trên đi-văng. Langdon nhìn gã tu sĩ và cố gắng hình dung xem chuyện gì đã xảy ra.
"Hắn mang chiếc cilice", Teabing giải thích.
"Một cái gì?".
Teabing chỉ một đai da đẫm máu có ngạnh trên sàn nhà: "Một chiếc thắt lưng hành xác. Hắn đã đeo nó trên đùi. Tôi đã nhắm cẩn thận trước khi hành động".
Langdon xoa xoa đầu. Ông có biết về loại đai lưng hành xác này: "Nhưng… làm sao ngài lại biết?".
Teabing cười rất tươi: "Thiên Chúa giáo thuộc lĩnh vực nghiên cứu của tôi, Robert, và có những giáo phái mang trái tim mình trên ống tay áo (2). Ông chỉ cái nạng vào chỗ máu thấm qua áo thụng của gã tu sĩ. "Như thế này".
"Opus Dei", Langdon thì thầm, nhớ lại những tin tức gần đây trên các phương tiện truyền thông về vài doanh nhân Boston - thành viên của Opus Dei. Những cộng sự lo sợ đã công khai tố cáo sai lạc là những người này mang những thắt lưng hành xác - cilice - dưới bộ trang phục ba mảnh. Thực ra, ba người đó không làm như vậy. Như nhiều thành viên của Opus Dei, họ đang trong giai đoạn "dư thừa" và không thực hành lệ hành xác. Họ là những tín đồ Thiên Chúa giáo sùng đạo là những người cha chăm lo cho con cái, và những thành viên tận tụy với cộng đồng. Không có gì đáng ngạc nhiên, các phương tiện truyền thông chỉ nêu rõ ngắn gọn sự tận tụy tinh thần của họ trước khi chuyển sang những hoạt động gây sốc của tổ chức này với những thành viên "nội" khắc kỉ hơn… như gã tu sĩ đang nằm trên sàn trước mắt Langaon.
Teabing xem xét chiếc thắt lưng đẫm máu: "Nhưng tại sao Opus Dei lại cố gắng tìm cho ra Chén Thánh?".
Langdon vẫn đang quá choáng váng để có thể xem xét vấn đề này.
"Robert", Sophie nói, đi tới chiếc hộp gỗ, "đây là cái gì?" Cô đang cầm miếng hình Hoa Hồng khảm mà Langdon đã gỡ khỏi nắp hộp.
"Nó che một bản khắc chữ trên chiếc hộp. Tôi nghĩ đoạn văn bản này có thể cho chúng ta biết cách để mở viên đá đỉnh vòm".
Trước khi Sophie và Teabing kịp đáp lời, một loạt ánh đèn xanh nhấp nháy và còi báo động từ xe cảnh sát đã tràn ngập chân đồi và bắt đầu lượn ngoằn ngoèo lên đoạn đường vào dài nửa dặm.
Teabing cau mày: "Các bạn thân mến, xem ra chúng ta phải quyết định rồi. Và chúng ta nên làm điều đó thật nhanh lên".
Chú thích:
(1) Thanh gươm của vua Arthur.
(2) Thành ngữ Anh có nghĩa để lộ rõ tình cảm ra ngoài mặt, ở đây có nghĩa: để lộ tung tích rành rành.
Collet và quân của anh ta xông qua cửa trước trang viên của ngài Leigh Teabing, súng lăm lăm trên tay. Tỏa ra, họ bắt đầu lục soát tất cả các phòng ở tầng một. Họ phát hiện ra một lỗ đạn trên sàn phòng khách, những dấu hiệu của một cuộc vật lộn, một ít máu, một dây da lạ có ngạnh và một cuộn băng dính dùng dở. Toàn bộ tầng này dường như vắng tanh.
Đúng vào khi Collet định chia quân ra để lục soát tầng hầm và các khu đất đằng sau ngôi nhà, anh bỗng nghe thấy tiếng người ở tầng trên.
"Họ ở trên gác".
Lao lên chiếc cầu thang rộng, Collet cùng quân của mình đi từ phòng này sang phòng khác của ngôi nhà lớn, những phòng ngủ và hành lang tối đen khi họ lại gần hơn những tiếng nói.
âm thanh dường như phát ra tử căn phòng ngủ cuối cùng nằm trên một đoạn hành lang cực kỳ dài. Đám cảnh sát lần theo hành lang, bịt tất cả các lối ra.
Khi lại gần căn phòng cuối cùng, Collet thấy cánh cửa mở rộng. Âm thanh đã ngưng đột ngột và được thay thế bằng một tiếng ầm ì kì lạ, như thể tiếng động cơ.
Giơ súng lên, Collet ra hiệu lệnh. Lặng lẽ tiến tới cánh cửa, anh thấy công tắc đèn và bật lên. Lao vào phòng với đám quân ùa theo sau, Collet quát và chĩa súng vào… trống không.
Một phòng ngủ dành cho khách hoàn toàn trống vắng. Sạch như li như lau.
Tiếng ầm ì của động cơ xe hơi phát ra từ cái bảng điện tử màu đen trên tường cạnh giường ngủ. Collet đã nhìn thấy những thứ này ở mấy chỗ khác trong nhà. Một loại hệ thống liên lạc nội bộ. Anh chạy tới. Chiếc bảng có khoảng một tá nút bấm có dán nhãn.
PHÒNG LÀM VIỆC … BẾP… PHÒNG GIẶT… HẦM RƯỢU …
Vậy thì mình nghe thấy tiếng xe hơi ở chỗ quái nào nhỉ?
Nhà để xe. Collet xuống gác trong vòng vài giây, chạy ra phía cửa sau, tóm lấy một nhân viên anh gặp trên đường. Họ băng qua thảm cỏ bên cạnh và thở không ra hơi khi tới trước một nhà để xe xám xịt màu phong sương. Ngay cả trước khi bước vào, Collet vẫn có thể nghe thấy tiếng động cơ xe tắt dần. Anh rút súng, lao vào và bật đèn.
Phía bên phải nhà để xe là một cái xưởng thô sơ, máy xén cỏ dụng cụ tự động, đồ làm vườn. Một bảng thông tin liên lạc nội bộ quen thuộc treo trên bức tường gần đó. Một trong những chiếc nút đã được gạt xuống, đang truyền tín hiệu.
PHÒNG NGỦ DÀNH CHO KHÁCH II
Collet quay ngoắt lại, cơn giận trào lên. Chúng đã dụ ta lên gác bằng hệ thống liên lạc nội bộ. Tìm kiếm phía bên kia nhà để xe, anh thấy một dãy dài chuồng ngựa. Nhưng không có ngựa.
Rõ ràng chủ nhân thích một loại mã lực khác hơn; các chuồng này được biến thành một nơi để xe đầy ấn tượng. Một bộ sưu tập đáng kinh ngạc - một chiếc Ferrari đen, một chiếc Roll-Royce cổ, một chiếc xe thể thao cổ hai chỗ hiệu Aston Martin, một chiếc Porsche 356 cũ.
Chuồng cuối cùng trống không.
Collet chạy tới và nhìn thấy vết dầu trên sàn. Họ không thể thoát khỏi khu vực có hàng rào vây quanh. Đường vào nhà và cổng vẫn được hai chiếc xe tuần tra chắn để ngăn chặn tình hương này xảy ra.
"Sếp?" Người nhân viên chỉ xuôi theo chiều dài dẫy chuồng.
Cửa trượt phía sau nhà để xe mở rộng, nhường chỗ cho một triền dốc tối, lầy lội với những cánh đồng gồ ghề trải dài trong đêm. Collet chạy tới cánh cửa, cố gắng nhìn vào trong bóng tối.
Không thấy ánh đèn pha. Thung lũng đầy rừng này có lẽ nhằng nhịt hàng tá đường mòn săn bắn không ghi trên bản đồ, nhưng Collet tin rằng con mồi của anh không bao giờ vào rừng. "Gọi vài người triển khai phía đó. Chắc chắn họ đang bị kẹt ở nơi nào đó gần đấy. Những chiếc xe sang trọng này không thể vượt địa hình được".
"Ưm, thưa sếp?" Người trợ lý chỉ vào một cái giá mắc gần đó nơi treo những bộ chìa khoá. Nhãn trên chìa khoá mang những cái tên quen thuộc.
DAIMLER… ROLLS-ROYCE… ASTON MARTIN… PORSCHE..
Cái móc cuối cùng hoàn toàn trống.
Khi Collet đọc cái nhãn trên chiếc móc đó, anh hiểu là mình đang gặp rắc rối.
------------------------------------------------