Mắt Âm Dương I

Chương 14: Tấm bản đồ khắc trên quan tài đá


Chương trước Chương tiếp

Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc hít vào một hơi khí lạnh. Thứ được lôi ra không thể gọi là xác người nữa. Một nửa lộ ra được bọc trong lớp băng dày đến hơn một tấc, như một quả cầu băng. Bên trong quả cầu băng đó là một đám máu đỏ lòm, toàn những cục máu đông cứng, giữa những cục máu là một cái xác đã bị lột da, toàn thân máu thịt đỏ hon hỏn. Cái xác bị băng bọc kín, co rúm như một con mèo nằm co quắp.

Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc nhìn mà kinh hãi. Đôi mắt của cái xác máu trũng sâu xuống, con ngươi trắng dã, đục nhờ.

Nhị Rỗ nghĩ thầm, sự việc này bảo kỳ lạ thì cũng rất kỳ lạ, nhìn tư thế của hai cái xác này, vừa giống liên thi mà ông nội ghi chép, lại giống như chuyện xác máu bắt người vẫn lưu truyền rộng rãi ở miền Tây tỉnh Hồ Nam. Có điều dù giả thuyết nào đúng thì viên qua nhất phẩm này cũng chết vì độc từ xác máu, nếu không phải là âm dương xung khác, dương khí bị âm khí át đi, thì cũng là thi độc công tâm, bị xác máu bắt, chưa đầy mười lăm phút sau là tắt thở. Chết thì chết, nhưng tại sao lúc chết còn cười kỳ dị như vậy? Ông ta bị xác máu bắt được, khóc không còn kịp, tại sao lại cười?

Dương Hoài Ngọc đứng trước cái xác máu, vung chân đá qua quả cầu băng mấy cái, nhưng quả cầu băng này quá cứng, chẳng mảy may tổn hại gì. Cô chẳng nói chẳng rằng, liền giơ súng lên, bắn mấy phát vào quả cầu băng, khiến nó nứt mấy đường, thủng ra bốn lỗ nhỏ.

Nhị Rỗ phối hợp với Dương Hoài Ngọc, hai người vừa dùng báng súng đập vừa lấy chân đá, những vết nứt khiến quả cầu băng bao bọc cái xác máu lỏng lẻo dần, chẳng mấy chốc đã bị hai người đập vỡ vụn.

Cái xác máu vẫn nằm co quắp, tay nắm chặt mắt cá chân viên quan nhất phẩm, nhất quyết không buông.

Nhị Rỗ, gẩy gẩy cái xác máu, nói với Dương Hoài Ngọc:

-Chúng ta cũng không nhất thiết lôi nó ra, trước khi bị đông cứng nó đã là một cái xác máu bị lột da ngùn ngụt oán khí rồi, hẳn thi độc và âm khí không nhẹ đâu. Bị chôn vùi nhiều năm trong băng tuyết như thế này, có trời mới biết thi khí của nó đã tan hết hay chưa.

Dương Hoài Ngọc lạnh lùng nói:

- Đã biết như thế, sao anh còn đập vỡ lớp băng ra làm gì?

Nhị Rỗ cười khì khì, hỏi:

- Năm xưa tôi từng học ở đại học Yên Kinh, ông thầy người tây của tôi dạy rằng chúng ta phải tôn trọng phụ nữ, tôn trọng cả những quyết định đúng đắn cũng như sai trái của họ.

Dương Hoài Ngọc “hừm” một tiếng, bỗng nhận ra có chuyện khác thường, cô vội nói:

- Anh phát hiện ra cái gì rồi ư?

Nhị Rỗ nói:

- Rỗ tôi có đôi mắt tiền mắt bạc, thứ khác thì không thấy, chỉ thấy được những thứ đáng tiền thôi.

Nói rồi, Nhị Rỗ ngồi thụp xuống, cạy cánh tay kia của cái xác máu ra, nhưng không cách nào cạy ra nổi. Nhìn hành động của Nhị Rỗ, Dương Hoài Ngọc không khỏi ngạc nhiên. Cánh tay kia của cái xác máu ghì chặt trước ngực, nếu không nhìn kỹ, ắt sẽ cho rằng cánh tay ấy đã bị chặt mất rồi. Lúc dùng báng súng khối băng, Dương Hoài Ngọc đã ngồi xuống quan sát cái xác máu thật kỹ, nhìn từ một góc độ đặc biệt mới phát hiện thấy cánh tay kia của cái xác rất kỳ lạ, hình như đang nắm lấy vật gì đó.

Không ngờ một kẻ chẳng lúc nào nghiêm chỉnh như gã Nhị Rỗ này, trong lúc lơ đãng cũng phát hiện ra bí mật ấy.

Nhị Rỗ đập vỡ xương ngón tay của cái xác máu, cố mở bàn tay nó ra, trong lòng bàn tay của cái xác máu cầm một chiếc lục lạc đồng lớn bằng mắt trâu, bên trên có buộc một sợi dây nối liền một mảnh đồng. Nhị Rỗ lật đi lật lại cái lục lạc, thấy trên bề mặt nó lấm tấm những vết gỉ, ngoài ra cũng không có gì đặc biệt. Mảnh đồng thì ngược lại, bị hoen gỉ nghiêm trọng, nhưng hình như còn có gì đó khác thường.

Không đợi cho Nhị Rỗ xem kỹ, Dương Hoài Ngọc đã giật lấy xem xét. Ngay lúc ấy trong đầu Nhị Rỗ vụt lóe lên một ý nghĩ, gã đột nhiên hiểu ra tất cả. Nhị Rỗ lấy chiếc chuông Kim Cương đeo ở thắt lưng ra, cầm mảnh đồng kia lên so, quả nhiên mức độ han gỉ của mảnh đồng cũng tương đương với chiếc chuông, Nhị Rỗ trầm giọng nói:

- Đưa cho tôi miếng đồng, còn cô cứ cầm lấy cái lục lạc

Dương Hoài Ngọc chưa kịp trả lời thì Nhị Rỗ đã giật đứt sợi dây, đoạt lấy mảnh đồng. Gã so sánh sơ qua, rồi cắm mảnh đồng vào lỗ vuông trên bầu chuông Kim Cương, tuy kích thước rất vừa vặn, nhưng không làm sao nhét lọt được vào lỗ.

Nhị Rỗ lại lấy miếng đồng ra, mài vào súng cho sạch gỉ đồng, gỉ đồng vừa tróc, lập tức những nét chạm khắc hiện lên. Nhị Rỗ mừng rơn, lại cầm lên so ngang so dọc, xác định đúng vị trí, rồi cắm thử miếng đồng vào lỗ vuông thứ tư, để nó thò ra ở lỗ vuông thứ sáu, nghe cạch một tiếng trong lỗ, vừa hay lại vừa khớp.

Miếng đồng lấp kín ba lỗ vuông, hai người liền chụm đầu lại xem, thấy vị trí vừa được lấp kín trên ba lỗ vuông và vách chuông Kim Cương đã tạo thành một bức vẻ.

Nhị Rỗ nhìn thật kỹ hình khắc trên bầu chuông, lòng chợt chùng xuống, chỉ thấy những nét chạm khắc vắt ngang qua ba lỗ vuông vòng vèo uốn lượn, tạo thành một bức tranh khắc họa cảnh núi sông hồ, mây đen sương mù vần vũ, nhìn còn có thể trông thấy ao đầm rải rác khắp nơi, bóng đen lập lờ giữa mà sương mù dày đặc, vô cùng kỳ dị.

Dương Hoài Ngọc hỏi:

- Đây là nơi nào?

Nhị Rỗ về chòm râu dê, suy nghĩ hồi lâu, đoạn nói:

- Chỗ này giống với vùng Khư Cảnh trong truyền thuyết từ thượng cổ, nằm ở nước Long Bá. Theo sách Liệt Tử, phần Thang Vấn chép, phía đông Bột Hải, không biết mấy triệu vạn dặm, một vụng nước, thăm thẳm không đáy, tên gọi Quy Khư. Trong thư tịch cổ “Hà đồ ngọc bản” có ghi lại, người nước Long Bá thân cao ba chục trượng, thọ đến một vạn tám ngàn tuổi.

Dương Hoài Ngọc từ nhỏ sống ở nước ngoài, nghe Nhị Rỗ trích sách cổ chẳng khác nào vịt nghe sấm, không hiểu mô tê gì hết, cô nói:

- Anh nói như thế nghĩa là sao?

Nhị Rỗ giải thích:

- Cô nhìn những nét khắc trên chiếc chuông Kim Cương này, ở giữa lõm tức là khư, phía trên khư là sương móc mịt mùng, dưới khư có mạch trạch mênh mông. Khư là hang động vô địch, tương truyền cũng là sào huyệt của hàng vạn ma quỷ. Từ xa, trông âm khư có thể thấy núi ruồi khí rồng, sông dìm mạch đất, đôi rồng vươn đuổi, ứng với một núi một sông, đó chính là đất đại âm còn hiểm độc hơn cả Bối long âm khư, có tên là Đại âm khư.

Dương Hoài Ngọc sực nhớ đến bức tường âm dương bên bờ sông, liền hỏi:

- Nói vậy thì, bức tường âm dương bên bờ sông đúng thật là dải phân cách ngăn đôi âm phủ và dương thế à? Nếu dưới lòng đất thật sự có Đại âm khư, vậy chúng ta đang trên đường xuống suối vàng ư?

Nhị Rỗ chỉ mải phân tích những nét chạm khắc trên chuông Kim Cương, nghe Dương Hoài Ngọc nhắc nhở, mới giật nảy mình. Bối long âm khư dưới hang ngầm là tuyệt địa phong thủy mà gã cũng đã trải nghiệm qua, vậy lẽ nào sào huyệt của hàng vạn ma quỷ trong truyền thuyết – Đại âm khư thật sự tồn tại?

Nhị Rỗ thầm tự hỏi, xét theo tình hình trước mắt thì Đại âm khư tám chín phần mười là có thật, nghĩ vậy, lòng gã càng thêm nặng trĩu. Ba người bọn họ không biết trời cao đất dày, còn không sợ chết, tự đâm đầu vào con đường dẫn thẳng xuống suối vàng, đã vượt qua bức tường âm dương, lại tiến vào Đại âm khư, thử hỏi lấy đâu ra đường sống nữa?

Có điều Nhị Rỗ nghĩ mãi không thông là, lúc qua đời, tại sao viên qua nhất phẩm kia trước lúc chết còn cười với cái xác máu dưới chân, rốt cuộc bên trong còn ẩn giấu bí mật gì đây?

Nhị Rỗ bị suy nghĩ này lởn vởn trong đầu, nên cứ lật đi lật lại hai cái xác để kiểm tra nhưng mãi không tìm ra vấn đề ở đâu cả.

Bỗng nghe thấy Dương Hoài Ngọc kêu to:

- Anh Uy… anh Uy… bị lột da rồi!

Tiếng kêu của Dương Hoài Ngọc đã th tỉnh Nhị Rỗ, gã lúc lắc mông chạy tới, thấy Dương Hoài Ngọc đang ôm Vương Uy, mặt Vương Uy đen sì trông thật dễ sợ, như vừa phủ một lớp than lên vậy.

Nhị Rỗ chạy đến bên Vương Uy, trong khi Dương Hoài Ngọc ra sức thắt chặt ga rô trên cánh tay Vương Uy, lớp da quanh vết thương đã tím bầm lại, nứt ra mấy đường, lớp thịt bên dưới da đang dần dần lộn ra ngoài. Thấy thế, tim Nhị Rỗ cơ hồ ngừng đập, dự cảm chẳng lành ùn ùn kéo đến như mây đen.

Lớp da nơi vết thương của Vương Uy không ngừng máy động, chẳng khác nào ấu trùng đang phá kén bò ra ngoài. Nhị Rỗ quệt mồ hôi trên mặt, liếc cái xác máu gần đấy, rồi trừng mắt nhìn Dương Hoài Ngọc:

- Thì ra cái xác bị lột da này, bị trúng độc nọc rắn.

Dương Hoài Ngọc không giấu được vẻ kinh hãi thấy những con rắn kia hình thù kỳ dị, cô cứ ngỡ rằng chúng bất quá chỉ rất độc mà thôi, không ngờ lại khủng khiếp đến nỗi khiến người trúng độc bị lột da, lộn thịt ra ngoài. Xưa nay Dương Hoài Ngọc vẫn quen với sóng to gió lớn, vậy mà lúc này cũng phát hoảng lên. Từ lúc lão Tôn vô cớ mất tích, Vương Uy hỗ trợ cô rất nhiều, nếu không cô chẳng đi được đến đây, vậy mà bây giờ Vương Uy lại sắp bị lột da, biến thành cái xác máu ghê tởm như thế kia, lòng cô không sao chấp nhận nổi sự thực ấy.

Dương Hoài Ngọc sợ đến nỗi giọng nói cũng run run, lắp bắp hỏi:

- Anh Nhị, bây giờ… bây giờ… chúng ta làm thế nào đây? Phải cứu anh ấy ngay…

Tất nhiên Nhị Rỗ hiểu rõ tình huống trước mặt, từng giọt mồ hôi to như hạt đậu chảy ròng ròng trên trán gã, cũng lúc ấy, máu thịt trên cánh tay Vương Uy cũng đang nứt ra từng chút một.

Nhị Rỗ chạy đến trước cái xác máu quan sát thật kỹ, lại tìm kiếm xung quanh tòa tháp một lượt, như chẳng tìm được gì. Tuy biết làm vậy cũng chỉ cô ích, nhưng lúc này, Nhị Rỗ đâu còn biết làm gì hơn.

Dương Hoài Ngọc lại siết chặt thêm ga rô trên cánh tay Vương Uy. Máu đen đã lan lên phần trên, làm như thế cũng vô tác dụng, nhưng cô vẫn mắm môi mắm lợi cố làm. Nhị Rỗ chạy quanh một hồi, bỗng kêu toáng lên:

-Cô Ngọc, chiếc lục lạc trên cái xác máu đâu rồi?

Dương Hoài Ngọc vội đáp:

-Đang ở chỗ tôi…

Cô đưa chiếc lục lạc cho Nhị Rỗ, gã nắm chặt trong tay, chạy đến trước cái xác máu, quan sát tư thế kỳ quái của viên quan nhất phẩm và cái xác máu, càng nhìn càng cảm thấy bên trong nhất định có lối thoát.

Gã thấy tư thế của viên quan nhất phẩm nhìn như đang cố gắng trườn lên phía trước, một tay cái xác máu tóm chặt chân viên quan, tay kia khuỷnh tay chĩa ra ngoài, bàn tay nắm chặt, đặt lên ngực. Tư thế ấy giống như vừa cướp được chiếc lục lạc, sợ người khác giật mất của mình vậy.Có điều bàn tay cầm lục lạc lại giơ lên ngang ngực, tựa hồ đang dùng sức đập mạnh xuống.

Lại nhìn sang viên quan nhất phẩm, nụ cười của ông ta rất kỳ dị, như thần thái lại ngông cuồng, da mặt vì biến động quá lớn mà méo mó hẳn đi, trông rất cổ quái. Nhị Rỗ nghĩ thầm, gương mặt lão này rõ là hai cảm xúc đối lập hoàn toàn, giờ thì đang mừng rỡ, nhưng trước đấy nhất định là đang bi thương khôn tả, bị một cái xác máu tóm chân thì có gì mà mừng rỡ?

Nhị Rỗ suy đi nghĩ lại, chỉ có một khả năng, chắc chắn là lão ta chết trước cái xác máu. Cái xác máu kia thoạt trông thân hình cao lớn, lúc sống hẳn phải khỏe mạnh kinh người, nom tình huống y chết mà vẫn nắm chặt lấy viên viên quan nhất phẩm thì có thể suy ra hai khả năng. Thứ nhất, viên quan nhất phẩm này là kẻ thù lớn nhất trong đời y, chết cũng phải kéo lão chết theo; thứ hai là trong lúc nguy cấp, viên quan nhất phẩm này có thể cứu mạng y.

Nghĩ đến đây, Nhị Rỗ sáng mắt lên. Cái xác máu vì trúng độc nọc rắn nên mới bị lột da, như vậy trong tay viên quan nhất phẩm nhất định phải có thuốc giải độc, nhưng vẻ mặt ông ta trước khi chết lại biến hóa quá lớn, đối lập rõ ràng, buồn vui lẫn lộn, tất cả những chuyện này là vì sao?

Nhị Rỗ suy nghĩ mãi, đoạn nhủ thầm:

- Phải rồi, cái xác máu trước khi chết đã cướp mất cái lục lạc của lão, tất nhiên lão đau khổ. Nhưng đang đau khổ, lão ta bỗng phát hiện cái xác máu chết ngay tại chỗ, liền mừng rỡ vô cùng, ngờ đâu chất độc trên mình cái xác máu quá lợi hại, lão ta chưa kịp cười xong thì đã phải chết chung với nó.

Nhị Rỗ càng nghĩ càng thấy đúng, xác máu kia quý hóa cái lục lạc này như thế, sắp chết cũng phải cố giành lại, vậy thứ có thể giải độc nọc rắn hẳn là cái lục lạc này. Nhị Rỗ lật đi lật lại ngắm nghía chiếc lục lạc, không thấy có gì đặc biệt, càng không hiểu phải dùng để giải độc bằng cách nào.

Nhị Rỗ thấy cái xác máu trước lúc chết đã cầm chiếc lục lạc trong tay định vứt xuống đất, gã nghĩ thầm, lẽ nào bên trong lục lạc chứa thuốc giải, đập vỡ ra sẽ tìm được thuốc giải chăng?

Nhị Rỗ tìm được cách giải quyết, cũng là lúc tình thế vô cùng cấp bách, không còn thời gian nữa, lúc này da Vương Uy đang tróc ra từng mảng, nếu chần chờ thêm e rằng không thể cứu chữa Vương Uy sẽ như cái xác máu đang nằm đây, tay cầm lục lạc, toàn thân bị tróc sạch da, tử trạng thảm thương không nỡ nhìn.

Mặt băng trơn trượt vô cùng nên Nhị Rỗ không dám ném chiếc lục lạc, sợ bất cẩn làm nó lăn xuống vực thì Vương Uy hết cứu. Gã tìm một chỗ có rãnh, đồng thời một mặt tựa vào vách động, vung báng súng đập, đập được vài cái, tuy lục lạc vẫn không móp, nhưng trên bề mặt đã lộ ra rất nhiều đinh đồng, đinh đồng đóng lên lục lạc chặt vô cùng, nếu không đập thật mạnh thì khó mà làm chúng long ra được.

Nhị Rỗ gỡ hết đinh đồng ra, rồi khẽ lắc lắc cái lục lạc, tiếng tinh tang vang lên, Nhị Rỗ ngửi thấy một mùi thơm nhè nhẹ, tinh thần bỗng phấn chấn hẳn, liền mững rỡ kêu lên:

-Chính nó đây rồi, chỉ huy được cứu sống rồi.

Dương Hoài Ngọc thấy Vương Uy sắp chết, đang buồn bã cầu nguyện chúa Jesus, bỗng nghe Nhị Rỗ reo lên như điên, đồng thời chạy ào đến, để lục lạc ngay dưới mũi Vương Uy, một tay quạt lia lịa, khiến mùi hương tỏa ra xung quanh thơm nức, cô liền thắc mắc:

-Đây là mùi gì thế?

Nhị Rỗ nói đầy tin tưởng:

-Thuốc giải, đây là mùi hương cứu mạng đấy, không sai đâu.

Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc quạt hồi lâu, hai tay mỏi nhừ mà Vương Uy nằm trên tảng băng vẫn không có phản ứng gì. Nhị Rỗ càng quạt càng thất vọng, mà lũ rắn đen nhung nhúc ở mặt băng xung quanh lại có động tĩnh không nhỏ.

Bọn chúng ngửi thấy mùi thơm tỏa ra từ lục lạc đều trốn về phía sau, chẳng mấy chốc, trên tảng băng chỉ còn lại vài ba con. Dương Hoài Ngọc thấy thế, bèn nói với Nhị Rỗ:

-Anh đưa chuông Kim Cương cho tôi đi.

Nhị Rỗ không biết Dương Hoài Ngọc định làm gì, lầm lì đưa chuông Kim Cương cho cô. Dương Hoài Ngọc cầm lấy chiếc chuông, lắc lắc mấy cái, cau mày lại.

Cô lắng tai nghe kỹ tiếng lục lạc tinh tang, đoạn lại lắc chuông Kim Cương thêm mấy lần nữa, sắc mặt liên tục biến đổi.

Nhìn kỹ chiếc chuông Kim Cương, thấy có chử, có bầu chuông, có cả những lỗ vuông và một sợi dây đen buộc trên chử, không có chốt lẫy gì. Dương Hoài Ngọc đột ngột giật mạnh sợ dây đen, cái chuông liền vang lên một tiếng ken két rất khẽ. Thấy vậy, Nhị Rỗ đưa mắt nhìn Dương Hoài Ngọc, cả hai cùng ngây ra.

Dương Hoài Ngọc lắc lắc thêm mấy cái, chiếc chuông Kim Cương này không ngờ lại phát ra tiếng đinh đang như lục lạc, cùng lúc ấy, hai người chợt ngửi thấy một mùi hương còn đậm hơn mùi hương vừa rồi, ngoài ra còn phảng phất cả mùi thuốc.

Dương Hoài Ngọc lại lắc chuông, âm thanh của chuông Kim Cương rất lộn xộn hỗn tạp, pha lẫn cả tiếng lục lạc cùng những âm thanh khác, ngân dài dồn dập, như từng đợt sóng, đợt sau cao hơn đợt trước, kéo dài không dứt, dồn dập chấn động cả linh hồn. Những âm thanh này khác hẳn tiếng chuông Kim Cương trước đó, nhưng nếu không nghe kỹ thì rất khó nhận ra.

Dương Hoài Ngọc lắc chuông một hồi, bỗng Vương Uy ho lên sặc sụa, cổ cứng đờ, nghiêng đầu nôn ra một búng máu đen. Nhị Rỗ thấy vậy mừng rỡ khôn xiết, vội vàng giật lấy cái chuông trong tay Dương Hoài Ngọc lắc thật mạnh, giục cô mau lấy dao rạch vết thương của Vương Uy cho máu đen chảy ra.

Vương Uy được hai người cứu chữa một hồi, lại nôn ra mấy búng máu đen, vết thương trên cánh tay cũng phun máu đen, vô cùng đáng sợ. Thấy Vương Uy khá dần lên, Nhị Rỗ cười toe toét, càng ra sức lắc chuông, mùi thuốc thơm tỏa ra quanh tảng băng, lũ rắn cũng biến đâu mất sạch.

Máu đen chảy ra hết, Vương Uy lại ngất lịm đi, những vệt đen trên người anh đã tan khá nhiều, nhưng sắc mặt vẫn trắng như tờ giấy, xem ra còn rất yếu.

Nhị Rỗ xem xét một hồi rồi nói:

-Tốt rồi, không phải sợ lũ rắn đen kia nữa.

Gã ta sau một hồi vất vả, tinh thần vừa được thả lỏng, toàn thân rã rời, liền nằm lăn ra mặt băng đánh một giấc. Nhị Rỗ ngủ không biết trời trăng gì nữa, tỉnh dậy liền trông thấy Dương Hoài Ngọc đang cho Vương Uy ăn lương khô và uống nước.

Vương Uy dẫu sao cũng có căn cơ sức khỏe rất tốt, nghỉ ngơi một lúc sắc mặt đã từ từ hồng lên. Thấy Nhị Rỗ tỉnh dậy ngơ ngác nhìn mình, Vương Uy bật cười, yếu ớt nói:

-Ài, ông Triệu, may lần này được ông cứu mạng.

Thấy khí sắc của Vương Uy khá lên, Nhị Rỗ rất vui, liền nhe nhởn cười nói:

-Đâu có đâu có, là việc nên làm thôi mà.

Nói đoạn, Nhị Rỗ cũng bước tới, cầm một miếng lương khô lên ăn, nói đùa với Dương Hoài Ngọc vài ba câu. Dọc đường đi Dương Hoài Ngọc đã quen với lối nói năng bỗ bã của Nhị Rỗ nên chẳng thèm chấp. Cô săn sóc Vương Uy xong, rồi cũng ăn vài miếng lương khô, đoạn bàn bạc với Nhị Rỗ xem tiếp theo nên làm gì.

Nhị Rỗ đảo mắt, vuốt râu, nói:

-Làm gì à? Cứ làm tới thôi. Chúng ta xông thẳng lên phía trước, ông đây bây giờ có chuông Kim Cương trong tay rồi, gặp thần chết giết thần, gặp Phật giết Phật, mẹ kiếp, để xem còn đứa nào dám trêu và ông nữa không?

Dương Hoài Ngọc trừng mắt lườm Nhi Rỗ, chỉ hận một nỗi không thể cho gã một đá văng xuống vực. Vương Uy nheo nheo mắt, cười cười không nói gì.

Ba người nghỉ ngơi một lúc, rồi Nhị Rỗ cõng Vương Uy, Dương Hoài Ngọc cầm súng tiểu liên đi đầu, ba người men theo tảng băng, tựa lưng vào vách núi, từ từ tiến về phía trước.

Trên tảng băng còn rất nhiều tháp băng, Nhị Rỗ lấy làm nghi hoặc, bèn giục Dương Hoài Ngọc bắn nát mấy tòa tháp, nhưng bên trong đều trống rỗng, không có xác người. Từ khi thấy xác viên quan nhất phẩm và cái xác máu, Nhị Rỗ cứ nghi ngờ tòa tháp băng nào cũng là phần mộ, cả rừng tháp băng là một khu mộ địa, nhưng thật sự không phải như vậy.

Đám rắn đen sau khi bị đuổi đi, không thấy quay lại nữa, Đại âm khư khắc trên chuông Kim Cương cũng không biết ở nơi đâu, bọn họ chỉ cảm thấy vô cùng kỳ dị, nhưng không có một đầu mối nào để tìm cả.

Tảng băng bày lớn vô cùng, đi mãi cũng không thấy tận cùng, họ đi mệt rồi nghỉ, nghỉ một lúc lại lên đường, nơi này không có trời trăng xoay chuyển, cũng không có ngày đêm luân hồi, chỉ có đi và nghỉ, nghỉ và đi mà thôi. Đi được một quãng, Vương Uy sẵn có thể lực tốt, chẳng bao lâu sau đã hồi phục sức khỏe, lại có thể đi như bay, dẫn Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc thẳng tiến. Họ cũng không biết cứ đi về phía trước có thể tìm thấy vương triều Lạp Cách Nhật trong triều thuyết hay không, nhưng họ đã chẳng còn đường lùi nữa.

Cứ thế đi miết, những lỗ thủng quanh hang động biến mất, họ mất nguồn sáng tự nhiên, đành phải đốt đuốc lên, dò dẫm tiến vào nơi bí hiểm dưới lòng đất. Dọc đường Nhị Rỗ kể lại cặn kẽ cho Vương Uy nghe quá trình họ phát hiện ra thi thể viên quan nhất phẩm và cái xác máu, cùng cách xua đuổi lũ rắn đen và giải độc của chiếc chuông Kim Cương.

Dọc đường, Vương Uy và Nhị Rỗ cứ luôn miệng chửi đồng, không biết tảng băng này dài đến tận đâu, nào ngờ, thoắt cái, tảng băng đột ngột biến mất, trong hang động khổng lồ sau tảng băng, ba người phát hiện ra một bức tường.

Đúng là một bức tường, hơn nữa còn là do con người xây nên, từng viên đá hòn đất đều có dấu tích bàn tay con người.

Bức tường này cao đến mấy trượng, chân tường rất dày, có nổ mình cũng khó mà phá nổi, đá xây rất ngay hàng thẳng lối, tuyệt không phải là xây thô, hay xây vội vã. Bức tường đá dài mấy chục mét, ba người đi vòng quanh xem xét mất một lúc lâu. Vương Uy nói:

-Sao tôi cứ cảm thấy bức tường này giống với chiến hào bằng đá chúng ta đã gặp trong khu rừng dưới lòng đất ấy.

Nhị Rỗ vuốt râu, nói như đinh đóng cột:

-Đâu phải chỉ giống, rõ ràng là một khuôn đúc ra, tôi nhập ngũ mười mấy năm, lúc còn làm lính quèn, cũng từng đào đất đắp chiến hào, nhận định không sai đâu. Bức tường đá này xây chắc chắn hơn, đẹp hơn bức tường chiến hào trong rừng, nhất định là tay nghề của một toán binh lính, cứ nhìn những tảng đá họ xây là nhận ra ngay thôi.

Vương Uy gật đầu, nói:

-Bức tường này tám chín phần mười là chiến hào, anh trèo lên kia xem thử có lỗ châu mai không.

Nhị Rỗ vâng lời, liền ngậm thân bó đuốc, bám lấy một chỗ gồ ra trên tường, thoăn thoắt leo lên. Ngọn đuốc của Nhị Rỗ soi sáng đầu tường, Vương Uy ở dưới trông lên, không khỏi cau mày, quả nhiên trong phạm vi của ánh đuốc có chừng ba, bốn lỗ châu mai.

Bức tường này cũng giống như công sự bằng đá trong rừng, đều dùng để phòng ngự trong chiến đấu. Vấn đề ở chỗ, đây là công sự dùng trong những đợt phòng ngự quy mô lớn của quân đội, bọn họ xây những thứ này dưới lòng đất để làm gì? Chẳng nhẽ để chiến đấu ư?

Nơi này nằm sâu mấy nghìn mét dưới lòng đất, cho dù lương thực và nước uống dự trữ đầy đủ đến đâu chăng nữa, thì sống được mấy năm ở nơi không có ánh mặt trời thế này đã là kỳ tích rồi. Nơi này ngột ngạt chết người, lại có vô vàn những chuyện kỳ quái, rất nhiều thứ không thể suy xét theo lẽ thường được.

Đã như vậy, sao Mã Văn Ninh vẫn cho xây những công sự này? Bọn chúng định đánh trận gì? Đánh với ai?

Những sự việc ấy đều không thể phán đoán nổi, nhưng mỗi lần nghĩ đến, Vương Uy thấy ớn lạnh, trong đầu lại lởn vởn chuyện “ma hành quân” năm xưa.

Nhị Rỗ ngồi trên bờ tường dòm xuống nhưng không thấy được tình hình bên dưới, bèn leo qua bên kia xem xét, chẳng mấy chốc đã tụt xuống mặt đất.

Vừa đặt chân xuống đất, Nhị Rỗ đã kinh hoàng kêu ré lên, Vương Uy ở bên kia gào to:

-Nhị Rỗ, có chuyện gì rồi?

Nói rồi, Vương Uy lồm cồm leo lên, Dương Hoài Ngọc cũng bám theo.

Nhị Rỗ từ bên kia, đáp:

-Không có gì đâu, mẹ kiếp, khắp mặt đất đầy những xác chết, giống như bãi chiến trường ấy.

Vương Uy và Dương Hoài Ngọc sang đến nơi cũng phải giật mình kinh hãi. Trên mặt đất ngổn ngang xác chết, địa khí trong sơn động lại âm hàn nên xác chết đã lâu ngày mà không hề rữa nát, có xác đã khô tóp lại, nhưng biểu tình trên mặt vẫn y nguyên. Cái nào cái nấy đều trợn trừng mắt, đầy vẻ căm hận, đao thương vứt bừa bãi.

Kỳ lạ nhất là, những xác người này, có kẻ mặc đồ lính cờ xanh của nhà Thanh, có tên lại mặc quân phục vàng, chắc chắn là bọn lính đào trộn mộ của Mã Văn Ninh, hóa ra hao toán quân này đánh nhau. Vương Uy nhận xét:

-Tính ra, Thomas và Mã Văn Ninh vào núi Đường Cổ Lạp cách nhau ít nhất mười mấy năm, như vậy hơn ngàn tên lính nhà Thanh do Thomas đem theo cũng đã sống dưới lòng đất hơn chục năm, thật quái gở!

Nhị Rỗ cũng ngớ ra, theo lý thì một việc như thế khổng thể nào tồn tại được. Năm xưa Trương Tử Thông suất lĩnh lính tráng đào sông ngầm, đắp đê, nhưng lúc nào cũng liên hệ với người trên mặt đất, không dám hạ trại dưới đó. Vậy mà đám lính cờ xanh này chui xuống dưới lòng đất mấy nghìn mét, việc ăn uống sinh hoạt của hơn một nghìn người trong suốt mười mấy năm ấy đã là một vấn đề lớn, thêm vào đó, con người sống mười mấy năm, liệu có còn ra người nữa không?

Ba người đều thấy lạnh xương sống. Vẻ mặt Dương Hoài Ngọc rất không ổn, Vương Uy và Nhị Rỗ đến ái ngại cho cô, từ lúc sinh ra cho đến khi hiểu chuyện, cô chưa bao giờ thấy mặt cha. Người cha kia cũng lạ, bỏ vợ bỏ con, đem theo hơn một nghìn người xuống ở dưới lòng đất này hơn chục năm trời, về sau còn giao tranh với một toán người đến đây sau mình cả chục năm, cuối cùng không biết đã chết như thế nào.

Dương Hoài Ngọc giơ đuốc, lật xem từng cái xác trên chiến trường, Vương Uy nhận ra cô cũng không biết mặt cha mình, nhiều lắm chỉ được nhìn ảnh mà thôi. Đáng tiếc, cái thứ ảnh chụp này cũng rất mơ hồ, những xác người này nhờ khí lạnh trong hang mà không bị phân hủy, như mặt mũi cũng không còn nguyên vẹn, nếu trên chiến trường có mấy người nước ngoài, chắc hẳn cô cũng không thể phân biệt được ai là cha mình.

Vương Uy và Nhị Rỗ cũng không rảnh, ba người họ chia nhau mỗi người môt hướng, tản ra xem xét chiến trường. Hang động phía sau bức tường đá rất rộng, cửa hang như một miệng chai, mà chỗ bức tường thì hẹp lại như cổ chai, vượt qua chỗ thắt nút cổ chai đó, hang động liền mở rộng đến hơn trăm mét đổ lại đều la liệt xác chết, xem ra ít nhất cũng phải đến hơn một nghìn người tham chiến.

Hơn nữa, cục diện cuộc chiến này rất kỳ lạ, bức tường đá hướng ra phía ngoài, như vậy hướng tấn công cuủa kẻ đích phải từ phía tảng băng, nhưng đại chiến trường lại nằm trong núi. Thế trận này chắc chắn là quân cờ xanh nhà Thanh do Thomas chỉ huy tập kích từ phía sau, trên mặt đất có rất nhiều xác lính của Mã Văn Ninh bị quân đội nhà Thanh chém ngang lưng, chết rất thê thảm. Vũ khí cận đại đương nhiên hơn xa trang bị cuối nhà Thanh, tuy quân Thanh cũng có nhiều kẻ cầm súng, nhưng chỉ là súng kíp lạc hậu, không so được với súng của Mã Văn Ninh nhập khẩu từ Nhật Bản.

Ba người lượn quanh chiến trường một vòng, thấy xác chết và vũ khí la liệt khắp nơi, vũ khí của quân cờ xanh lạc hậu, nên lính Thanh giết chết nhiều gấp rưỡi quân của Mã Văn Ninh. Chính giữa chiến trường còn có mấy cái vạc, bên trong còn đến nửa vạc than và củi. Vương Uy châm lửa, những cái vạc quả nhiên khác thường, vừa châm lửa, ngọn lửa đã bùng cao mấy mét, chiếu sáng cả một vùng rộng lớn. Anh châm tất cả các vạc, toàn chiến trường được chiếu sáng, những xác người được ngọn lửa đỏ soi tỏ, lộ vẻ dữ tợn, tưởng như có thể bật dậy vồ lấy người ta bất cứ lúc nào.

Trên mặt đất còn ngổn ngang những giá gỗ, những thanh đại đao cắm ngược, cũng những nồi lớn vạc to v.v… Trong phạm vi ánh lửa chập chờn, tưởng như những xác chết trên chiến trường đang sống lại. Nhìn cảnh tượng thảm thương và tan hoang trước mặt, đủ thấy lúc bấy giờ quân hai bên đã điên cuồng chém giết nhau như thế nào.

Nhị Rỗ lẩm bẩm nói:

-Bọn chúng âm thầm làm chuyện xấu xa bên dưới mặt đất này, tên nào tên nấy muốn trục lợi, đến nỗi lôi kéo nhiều người bỏ mạng thế này ư? Chúng ta quét sạch đám quân phiệt ở miền Xuyên Trung cũng không có trận nào thê thảm như thế này, đúng không?

Vương Uy gật đầu:

-Đây không phải giao tranh, rõ ràng là liều mạng trăm phần trăm, còn thảm khốc hơn cả báo thù nữa.

Nhị Rỗ xoắn xoắn chòm râu đi quanh một vòng, vòng đến phía đối diện với Vương Uy, gã nói:

-Điều quan trọng nằm ở bí mật của vương trièu Lạp Cách Nhật ấy, rốt cuộc bí mật đó là gì để đến nỗi hai toán quân này điên cuồng tàn sát nhau đến mức ngọc đá đều tan nát như vậy?

Vươg Uy gật đầu, nói:

-Trong chuyện này có rất nhiều điều không thể giải thích nổi, chỉ khi nào thật sự chạm đến bí mật then chốt của vương triều Lạp Cách Nhật, may ra mới tìm ra được chút đầu mối.

Nhị Rỗ gật đầu:

-Đáng tiếc, những người tiếp cận với bí mật đều chết cả, còn chúng ta … ôi!

Vương Uy vỗ vai Nhị Rỗ, nhìn gương mặt đầy thất vọng của Dương Hoài Ngọc, cô đang đi về phía này.

Dương Hoài Ngọc buồn rầu bước lại, gương mặt đã mất hẳn vẻ ngang tàng lạnh lùng hằng ngày, xem ra cô gái lai này cũng đang có tâm sự. Nhị Rỗ hềnh hệch, chằm chằm nhìn Vương Hoài Ngọc, bộ dạng rất thô bỉ, bị Vương Uy vỗ một phát vào lưng mà vẫn không thôi.

Dương Hoài Ngọc đột nhiên chỉ về phía sau lưng hai người, nói:

-Ở kia có một ngọn đèn.

Cả hai đều cảm thấy rờn rợn sống lưng, chợt thấy nét mặt Dương Hoài Ngọc thoáng vẻ thảng thốt, rõ ràng là bất ngờ, Vương Uy và Nhị Rỗ nhất tề ngoảnh lại quả nhiên thấy trong tận cùng hang đá có một đốm lửa, như gần như xa, vô cùng kỳ dị.

Nhị Rỗ trợn trừng hai mắt, vẻ mặt tối sầm:

-Chẳng nhẽ ở đây còn có người sống?

Vương Uy lắc đầu, nói:

-Không thể thế được, nếu là người thì chỉ cần sống ở đây mươi năm đã là kỳ tích, nếu sống được đến hai mươi năm tuyệt nhiên không phải là người nữa.

Ba người cùng xách súng lên, soi đuốc đi đến nơi có ánh đèn, họ đều nghĩ đến hai ngọn đèn trên con chim sắt, nhưng ngọn đèn trong sâu thẳm bóng tối cứ chập chờn leo lét, không giống đèn đuốc của nhân gian, khiến cả ba rất căng thẳng, hồi hộp.

Quan sát chiến trường, mọi người đều có thể khẳng định, từ mười năm trước ở đây đã không còn ai sống sót. Nhưng ánh đèn kia là thế nào?

Ba người càng đi càng nhanh, dọc đường không ai nói chuyện với ai, ngay cả bước chân cũng rất cẩn thận, như sợ kinh động đến ngọn đèn phía trước. Nhưng sự thật rõ ràng, dù họ có cẩn thận đến thế nào, nếu đối phương là người sống thì đã phát hiện ra họ rồi. Vương Uy nói nhỏ:

-Hai người đoán xem có phải lão Tôn không?

Nhị Rỗ nói:

-Lão già ấy xưa nay rất giỏi giả thần giả quỷ, lão ta để một vũng máu ở chân tường băng, trên bức tường lại đặt bao thuốc nổ, tức là vừa dọa vừa dụ chúng ta vào bẫy. Hạng người như lão chắc chắn chưa chết dễ dàng như thế được đâu, tôi đoán đến tám chín phần mười chính là lão ta.

Nhị Rỗ không nhắc đến vũng máu kia còn đỡ, vừa nói đến lại khiến mọi người thấp thỏm lo lắng. Theo lý mà nói, muốn đi qua bức tường băng mà còn để lại thứ gì đó bên trong thì chỉ có thể đi xuyên tường, ngoài ra chẳng còn cách nào cả. Lão ta có thể đi xuyên tường thì đâu phải người nữa đâu?

Ban người đuổi thêm một lúc, nhưng ngọn đèn cứ không gần không xa, hư vô leo lét, chập chờn phía trước. Bỗng Nhị Rỗ buột miệng:

-Hỏng rồi, chúng ta chạy theo ngọn ảo đăng một lúc lâu, sao lại quay về chiến trường rồi?

Nghe gã nói, Vương Uy và Dương Hoài Ngọc vội nhìn xung quanh, thấy ngọn lửa trong vạc đã tắt tự bao giờ, xung quanh tối như mực, chỉ có ánh đuốc của ba người. Vương Uy soi đuốc nhìn xuống quả nhiên trên mặt đất ngổn ngang thi thể và các loại vũ khí, nơi này rất gần với cái vạc lớn nhất, Vương Uy nhớ rõ, chính ở nơi này học đã phát hiện ra ngọn đèn, đi lòng vòng một hồi lâu, cuối cùng họ lại quay về chỗ cũ.

Xem xét kỹ lưỡng như vậy, ba người đều đã nhận ra điều này, liền nhìn nhau bối rối.

Nhị Rỗ buột miệng:

-Mẹ kiếp cái đồ phải gió, chúng ta gặp phải ma dựng tường thường chỉ xuất hiện tại những mộ đạo nhỏ hẹp, hang động này đủ lớn để làm sân bay, đâu có chuyện ma dựng tường? Xem ra, chuyện này còn khó giải quyết hơn cả chuyện ma dựng tường ấy.

Nhị Rỗ vừa nghe vương Vương Uy nói không phải ma dựng tường, đang mừng rỡ thì nghe thấy câu tiếp theo của Vương Uy, lòng chùng xuống, bèn hỏi:

-Chỉ huy phát hiện ra manh mối rồi ư?

Vương Uy lắc đầu, nói:

-Vừa rồi chúng ta đi mất bao nhiêu thời gian?

Nhị Rỗ đáp ngay:

-Ít ra cũng phải sáu tiếng đồng hồ đấy nhỉ?

Dương Hoài Ngọc lắc đầu:

-Không, phải mười hai tiếng đồng hồ.

Nhị rỗ quay sang Dương Hoài Ngọc:

-Tôi nói cho cô tây rởm biết nhé, ở đây là dưới lòng đất, không có trăng sao ngày đêm gì cả, đồng hồ của cô lại mất rồi, làm sao cô dám khẳng định như vậy? Dương Hoài Ngọc lạnh lùng đáp:

-Lúc vừa bắt đầu đi, tôi đã nhẩm tính mối tương quan giữa nhịp bước với thời gian, đại khái đi chừng một phần sáu đoạn đường tương đương hai tiếng đồng hồ, tốc độ đi của chúng ta không thay đổi bao nhiêu, như vậy mất khoảng mười hai tiếng.

Nhị Rỗ sáng mắt lên:

-Mẹ kiếp. xem ra cô tây rởm này không đơn giản chút nào, trông cứ như Lý Quỳ, mà cũng có đầu óc đấy nhỉ.

Dương Hoài Ngọc trừng mắt lườm Nhị Rỗ, không nói gì. Vương Uy nói với Nhị Rỗ:

-Chúng ta đi dọc bờ tường, cứ đi một quãng lại làm dấu.

Nhị Rỗ gật đầu, lấy ra một con dao. Ba người đi theo ngọn đèn leo lét, cứ đi một quãng lại vạch lên vách hang một vệt làm dấu.

Họ đi một lúc rất lâu, Vương Uy chợt vẫy tay cho hai người đi sau đứng lại, nói:

-Đừng đi nữa, chúng ta lại quay về rồi.

Nhị Rỗ ngớ ra, nói:

-Không thể thế được, tôi đâu có thấy dấu hiệu gì đâu.

Vương Uy chỉ vào cái giá gỗ gần đấy, nói:

-Đây là vật ở trên chiến trường, trước mắt là bãi chiến trường đấy.

Ba người rảo bước đi tới, quả nhiên phát hiện lại quay về chỗ cũ, chẳng qua hướng họ quay về và hướng xuất phát là hai mặt của hang núi, lúc đi dựa vào vách hang bên trái. Lúc về thì theo vách hang bên phải mà thôi.

Nhị Rỗ nói:

-Chỉ huy đừng đoán nữa, ngọn đèn kia chắc chắn là ma trơi rồi, chúng ta đi theo phương hướng nó chỉ có khác nào tự tìm đường chết.

Vương Uy gật đầu, nói:

-Quái nhỉ, cái hang thẳng tắp, chúng ta lại mem theo vách hang mà đi, nói thế nào cũng không thể vòng lại chỗ cũ chứ?

Nhị Rỗ nói:

-Nói như thế cũng không đúng, cái hang này quá lớn đứng bên này không trông thấy bên kia, cái đèn kia lại ở phía trước mê hoặc, chúng ta cứ theo hướng của nó mà vòng đi vòng lại, khó tránh bị nó lừa.

Vương Uy gật đầu, thấy cũng có lý. Ba người cùng nghỉ một lúc, rồi lại đi tiếp về phía trước, nhưng lần này họ không nhìn ngọn đèn nữa, chỉ theo vách hang mà đi. Đi như vậy bốn tiếng đồng hồ, bỗng Nhị Rỗ liên tục đảo mắt nhìn, rồi đột ngột nói:

-Chỉ huy, ở kia có xác người kìa.

Vương Uy ngoảng nhìn theo hướng tay Nhị Rỗ chỉ, quả nhiên thấy trên một tảng đá gần chính giữa hang thấp thoáng có một cái xác. Ba người liền tiến lại, tảng đá cách vách hang đến mười mấy mét, cũng may có Nhị rỗ mắt tinh mới trông thấy.

Trên tảng đá là một xác chết, phía sau cái xác chừng một mét còn một xác nữa, cả hai đều mặc quân phục màu vàng, là lính đào trộm mộ của Mã Văn Ninh. Người phía trước nằm bò trên tảng đá, lưỡi thè dài, giống như người chết vì treo cổ; cái xác phía sau nửa người trên hơi nhổm lên, Nhị Rỗ ngồi xuống xem, thấy một tay hắn ta chống một khúc gỗ, khuỷnh tay kia chống xuống đất, rõ ràng lúc chết đang cố gắng trườn lên phía trước. Nhị Rỗ lẩm nhẩm:

-Hai người này… rõ ràng hai người này chết vì kiệt sức.

Vương Uy nói:

- Đúng vậy, họ cũng giống như chúng ta, đều đi vào tử lộ.

Dương Hoài Ngọc nói:

-Như vậy ngọn đèn kia chưa chắc đã phải của bác Tôn, mười mấy năm trước bác ấy đang còn ở Luân Đôn tìm tôi mà.

Vương Uy nói:

-Tôi không lo chuyện ấy, chỉ sợ rằng dù chúng ta không đi theo ngọn đèn kia chỉ đường, thì cũng không thoát ra được cái hang chết người này đâu. Cô thử nghĩ mà xem, những người này chắc cũng không ngu dốt, họ vòng đi vòng lại một hai lần, chẳng nhẽ đến lần thứ ba vẫn còn đi theo ngọn đèn hư ảo đó à?

Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc cũng từng nghĩ như Vương Uy, dù ngọn đèn chỉ là sự mê hoặc, nhưng bản thân hang động này quái dị vô cùng, nếu cứ đi như thế này mà không ra khỏi hang được, thì họ phải làm thế nào?

Cả ba người đều nặng trĩu cả lòng, họ đi nhanh hơn, càng đi càng thêm kinh hãi, phía trước cứ thỉnh thoảng lại có vài ba xác lính mặc quân phục vàng, tất cả những người này đều chết vì mệt lả. Giày của xác chết phần lớn đều đã mòn rách, lòi cả ngón chân, có thể thấy toán lính này đã lòng vòng trong hang động không biết bao nhiêu lần, cuối cùng đều kiệt sức mà chết.

Càng đi họ càng thêm lo lắng, cứ đi như vậy cuối cùng lại vòng về chỗ cũ. Ba người đứng lại giữa chiến trường nhìn nhau, hình ảnh những xác chết miệng há hốc, lưỡi thè vì mệt mỏi cứ lởn vởn trong óc, không sao xua đi nổi. Chẳng bao lâu nữa, ba người cũng sẽ giống như những cái xác kia, chết vì kiệt sức, tử trạng thê thảm như ma chết treo vậy.

Vấn đề này đã vượt quá sức tưởng tượng của Vương Uy. Mấy năm trước anh từng gặp ma dựng tường, lúc bấy giờ họ đang đi diệt phỉ ở vùng Tạng, nửa đêm họ lẻn vào sơn trại của thổ phỉ. Đôi bên giao tranh một hồi, tên cầm đâu đám phỉ bỏ chạy vào rừng, Vương Uy đuổi theo hắn vào tận hang sâu, giữa lúc tối lửa tắt đèn, anh liền gặp phải ma dựng tường. Trong cái hang chật hẹp, anh đi vòng vo thế nào cũng không ra nổi, hết sức kỳ dị.

Vương Uy tức giận liền cởi quân phục trên người ra châm lửa, buộc lại thành bó đuốc. Ánh lửa vừa sáng lên anh liền trông thấy một bóng đen lủi đi. Đôi mắt Vưong Uy chính là mắt âm dương được tôi luyện suốt mười năm có thể nhìn thấu âm dương, thấy bóng đen kia, anh biết ngay gặp ma. Bóng ma kia không biết trời cao đất dày, lại dám bung bít đôi mắt âm dương của anh, khiến anh cứ đi vòng quanh tại chỗ, không ra được khỏi hang động, hẳn là định hại anh phải bỏ mạng trong hang, vĩnh viễn ở lại bầu bạn cùng với nó.

Sau đấy Vương Uy ra được khỏi hang, liền ra lệnh cho lính bao vây, rồi cho người vào trong đào, đào bới một hồi, liền tìm được một ngôi mộ. Đó là một ngôi mộ hoang, không biết có từ thời nào, xương cốt người dưới mộ đều đã vụn nát, tên thổ phỉ kia thì nằm vắt ngang trong cỗ quan tài mục, xem bộ dạng có vẻ như hắn bị chủ mộ lôi vào.

Nhưng hang động này rất lớn, không phải chỗ cho lũ tiểu quỷ đùa giỡn, hơn nữa họ đông người, lại có đuốc sáng, lũ tiểu quỷ cũng không dám xuất hiện.

Nhị Rỗ và Dương Hoài Ngọc đều xám mặt lại, nếu không nghĩ cách thoát được khỏi tình thế này, tinh thần mọi người bị bức đến mức suy sụp thì chỉ còn nước chịu chết ở đây.

Vương Uy càng nghĩ càng sốt ruột, anh chắp tay sau lưng, đi đi lại lại trong phạm vi mấy mét. Nhị Rỗ theo anh hơn mười năm nay, lần đầu tiên thấy anh chắp tay đi lại hệt như sĩ quan cấp cao thế này, tuy lòng đang lo lắng không yên, nhưng vẫn không nhịn nổi cười nói:

- Chỉ huy ơi, không ngờ chỉ huy lại ôm ấp tham vọng tiến xa, sớm đã học lỏm được điệu bộ này rồi. Năm xưa chỉ huy từ cấp tiểu đoàn trưởng giáng xuống đại đội trưởng, tôi cứ nghĩ chỉ huy thế là chẳng còn triển vọng gì nữa, hết đường tiến bộ rồi cơ đấy, hì hì!

Vương Uy ruột gan như lửa đốt, nghe Nhị Rỗ nói thế anh càng bực mình, bèn quay lại đá cho Nhị Rỗ một cái. Cú đá rất mạnh, khiến Nhị Rỗ ngã lăn ra đất, ngay cạnh đống xác chết.

Nhị Rỗ kêu oai oái:

- Chỉ huy ơi, lần sau chỉ huy có đá thì đá nhẹ thôi, tôi sắp bị chỉ huy đá gãy xương rồi, ối a...


Bình luận
Sắp xếp
    Loading...