Long Phụng Bảo Thoa Duyên
Chương 29: Công chúa phi xa truyền thánh chỉ - Tướng quân tặng mã trợ anh hào
Lúc này trong giáo trường quần hùng sớm đã đi hết bảy tám phần, chỉ còn lại hai ba phần, có một bộ phận là đồng bọn của Tinh Tinh Nhi lưu lại trong giáo trường, có một bộ phận thì muốn xuất tràng nhưng chưa đến cạnh cửa, số đến cạnh cửa rồi thì đang muốn ra, bất quá chỉ là một bộ phận rất ít, tuy muốn đoạt cửa mà ra nhưng quả bất địch chúng, tức khắc bị vũ lâm quân đánh quay lại. Nhóm người Thiết Ma Lặc còn ở bên giáo trường, ứng cứu không kịp.
Không Không Nhi đại nộ, liền lao đến muốn thu thập tên thái giám kia. Nhưng vũ lâm quân sớm đã bày trận thế, kiếm kích như rừng, nhất nhất nghiêm ngặt bảo vệ tên thái giám cẩn mật đến gió cũng không lọt, ngăn cản đường tiến của Không Không Nhi. Thiết Ma Lặc kêu lên:
“Không Không tiền bối, không thể khinh cử vọng động. Vũ lâm quân cũng chỉ bất quá phụng mệnh mà làm, hà tất phải đánh đến lưỡng bại câu thương?”
Vũ Duy Dương đã trở lại trong đám thân quân, để vãn hồi thể diện, hắn hò hét ầm ĩ:
“Tốt rồi, đám phản tặc các ngươi dám giả mạo thánh chỉ, thật là tội không thể dung!”
Không Không Nhi phóng một cây độc chủy thủ ra, quát:
“Vũ Duy Dương, có gan thì ngươi lại đây!”
Cự ly của song phương nằm ngoài trăm bộ, Vũ Duy Dương lại ở trong vòng bảo hộ của thân quân, ám khí vốn dĩ không đánh trúng hắn được. Thế nhưng thủ pháp ám khí của Không Không Nhi rất thần kỳ, cây chủy thủ được ném thẳng lên giữa không trung, chợt xé gió một tiếng rồi rơi xuống, vừa vặn lại nhằm đúng Thiên linh cái của Vũ Duy Dương.Vũ Duy Dương vội nâng song câu lên bảo hộ đỉnh đầu. Chỉ nghe một tiếng “chát”, câu bên trái đã gãy mất một răng, cây chủy thủ vẫn còn dư lực chưa giảm, liền lệch sang, “phập” một tiếng, chủy thủ đã xuyên qua hung khẩu một viên hộ quân của hắn, rồi lại tìm đến cổ tay một viên hộ quân khác. Tên hộ quân bị chủy thủ xuyên một lỗ trên hung khẩu hiển nhiên là chết ngay tức thì, còn tên hộ quân bị chủy thủ phá rách một chút da thịt thì cũng kêu thảm một tiếng, lảo đảo gục trên mặt đất, chỉ trong nháy mắt sắc mặt chuyển sang màu đen, thất khiếu ứa máu, mắt thấy không thể sống được. Vũ Duy Dương may mắn thoát chết, nhưng cũng bị sợ đến kinh tâm khiếp đảm, liền vội vàng lui về sau, nào còn dám tiến lên trước.
An Định Viễn huy động lệnh kỳ, vũ lâm quân thế như bài sơn hải đảo ép đến nhóm người Thiết Ma Lặc. Thiết Ma Lặc quát:
“Vốn là huynh đệ, hà khổ bức nhau?”
Bảo kiếm huy động, chỉ trong chớp mắt y đã phá vỡ mười mấy tấm đằng bài, chặt gãy mấy chục cây trường mâu, nhưng y hạ thủ lưu tình, kình lực sử ra vừa đủ để phá bài chặt mâu, không làm bị thương một người nào. Vũ lâm quân đều biết Thiết Ma Lặc thần dũng không kém Tần Tương, rất nhiều quan quân cũng niệm tình xưa nên triển khai trận ở bên ngoài mấy trượng vây nhóm người Thiết Ma Lặc lại, chứ không lập tức xông vào trùng sát.
Vũ Duy Dương vừa thấy tình thế có lợi, liền mang tiểu đội thân quân của y đến đốc chiến, y hạ lệnh vũ lâm quân phóng tiễn, Không Không Nhi liền cười lạnh:
“Nếu bên chúng ta có một người thụ thương, ta sẽ giết các ngươi một trăm người!”
Vũ lâm quân đã thấy qua bản lĩnh của Không Không Nhi, biết y nói vậy hoàn toàn không phải là hư trương dọa nạt, một nửa do kiêng kỵ Không Không Nhi và Thiết Ma Lặc, một nửa do khinh bỉ con người Vũ Duy Dương, cho nên không một vũ lâm quân nào tuân theo mệnh lệnh của Vũ Duy Dương.
Vũ Duy Dương không tự tiết giận được, nhưng cũng chẳng làm gì nổi. Bất quá, mặc dù vũ lâm quân không nghe mệnh lệnh của hắn, nhưng cũng không dám nới lỏng vòng vây. Song phương đang lúc giằng co không dứt khoát, chợt nghe có tiếng thanh la mở đường, có người cao giọng hô:
“Trường Lạc công chúa giá đáo!”
Chỉ thấy trung môn mở ra, hai hàng nghi lễ long phụng đang rước một cung xa từ từ đến. Phía trước đội nghi trượng còn có một viên quan quân cưỡi thất mã cao lớn, y tiến đến giáo tràng liền lập tức quát:
“Vũ Duy Dương, An Định Viễn nhanh đến kiến giá!”
Phụng xa của Trường Lạc công chúa đến đột xuất bất kỳ, toàn tràng chúng nhân không ai không kinh ngạc lẫn kỳ lạ. Vũ Duy Dương nghĩ thầm, “Chẳng lẽ Công chúa cũng muốn đến xem tỷ võ?”
Nguyên lai Trường Lạc công chúa này là ấu nữ của Đường Huyền Tông, là muội muội của Túc Tông Lý Hanh. Vào thời Thiên Bảo (niên hiệu Huyền Tông), thiên hạ đệ nhất nữ kiếm sư Công Tôn Đại Nương đã từng nhập cung dạy các nữ quan luyện “Kiếm vũ”, Trường Lạc công chúa bái Công Tôn Đại Nương làm sư phụ, từng học qua một chút kiếm thuật. Loạn An Sử, Huyền Tông chạy nạn vào Tây Thục, Trường Lạc công chúa đi theo hộ vệ phụ hoàng nên được Huyền Tông thương yêu nhất.
Sau khi loạn An Sử được bình định, Túc Tông kế vị, giúp muội muội kén phò mã, bất hạnh là phò mã mất sớm, Trường Lạc công chúa tuổi còn trẻ đã thành quả phụ, suốt cả năm thì có đến nửa năm chỉ ở trong cung. Lý Hanh thấy muội muội văn võ toàn tài, lại có kiến thức nên việc công việc tư cũng thường nghe ý kiến nàng. Thời Đường, Công chúa lộng quyền tựa hồ đã thành tập quán (tỷ như con gái Võ Tắc Thiên là Thái Bình công chúa cũng từng nắm triều chính nhiều năm). Trường Lạc công chúa mặc dù không thích lộng quyền như trưởng bối Thái Bình Công chúa, song trong cung nàng có thế lực tiềm ẩn, văn võ đại thần cũng đều biết hết. Mấy người Vũ Duy Dương, Đỗ Phục Uy bình thường đều e sợ nàng không dám trái ý.
Thiết Ma Lặc so với người khác càng cảm thấy ngạc nhiên, một mảng chuyện xưa bỗng dưng lại trỗi dậy trong lòng. Hơn mười năm về trước, khi y làm ngự tiền thị vệ đã lọt vào mắt xanh của Trường Lạc công chúa, sau đó chạy loạn An Sử, hộ giá tây hành, y lại được theo làm tùy tùng của Công chúa, hai người càng được sớm chiều bên nhau, Công chúa xem y là tâm phúc tri kỷ, Thiết Ma Lặc tính tình hào sảng, cũng không câu nệ tiểu tiết coi Công chúa như bằng hữu. Nếu không phải bởi biến cố Mã Ngôi Dịch khiến Thiết Ma Lặc bị hiềm nghi là “xướng loạn”, thì cơ hồ Đường Huyền Tông muốn kén Thiết Ma Lặc làm phò mã.
Thiết Ma Lặc thầm tư lự, “Chẳng lẽ Công chúa vì ta mà đến đây?”
Tâm niệm còn chưa qua thì đã thấy hai người Vũ Duy Dương, An Định Viễn tới trước phụng xa, song song quỳ xuống, xưng tên tiếp giá.
Xa liêm (rèm xe) của quan xa vén ra, quả nhiên là Trường Lạc công chúa.
Trường Lạc công chúa mới lên tiếng đã nói:
“Các ngươi thật to gan, vì sao không tuân thánh chỉ?”
Vũ, An hai người ngạc nhiên không hiểu ra sao, liền hỏi:
“Là thánh chỉ nào?”
Trường Lạc công chúa đáp:
“Thánh chỉ nói rằng, giữa tràng tỷ võ, không cho loạn bắt người, các ngươi lại vọng động đao binh là sao? Đạo thánh chỉ đó chính là do Hoàng thượng sai Không Không Nhi mang đến, chẳng lẽ còn chưa tuyên đọc cho các ngươi sao?”
Vũ Duy Dương đại kinh hỏi:
“Đạo thánh chỉ đó là thật sao?”
Trường Nhạc Công chúa tức giận mắng:
“Nô tài to gan, ngự bút kim chương của Hoàng thượng còn có thể giả được sao, vả miệng!”
Vũ Duy Dương đầy bụng nghi ngờ, biết rõ là giả, nhưng sao dám hỏi tiếp Trường Lạc công chúa. Trong lòng hắn nghĩ, “Ta vừa rồi vì cố bảo toàn tính mệnh mới làm theo thánh chỉ giả của Không Không Nhi, vốn khó tránh bị xử giáng chức phạt bổng, lại không ngờ có Trường Nhạc Công chúa xuất đầu mang giả thành chân, không cần biết người có nguyên do gì, nhưng điều này lại quá tiện nghi cho ta. Trừ phi Hoàng thượng cũng phạt Trường Lạc công chúa, bằng không quyết không thể phạt một mình ta được. Ta chỉ cầu có thể bảo toàn tước lộc, mấy cái bạt tai này thì tính làm gì?”
Hắn nghĩ đến đó, thì trong lòng mừng như hoa nở, cam tâm tình nguyện tự mình tả hữu hai bên vả mấy chục bạt tai.
Không Không Nhi vừa kinh ngạc vừa khoái chí, nghĩ bụng, “Cái này thực tuyệt diệu quá! Không Không Nhi ta phủi tay làm câu chuyện giả dối trời, vậy mà Công chúa lại đến giúp cho câu chuyện của ta trọn vẹn. Ha ha, cô ta nói cái gì ‘Kim chương ngự bút’, ‘kim chương’ thì không phải giả, song ‘ngự bút’ ư, Trường Lạc công chúa hóa ra cũng không biết là ta kiếm một lão nhi viết thư tín viết giùm”.
An Định Viễn khá bình tĩnh, y đánh bạo thưa:
“Khải bẩm Công chúa, mới vừa rồi Vương công công cũng đến đây truyền thánh chỉ, bây giờ y vẫn còn ở hiện trường, Công chúa có muốn hỏi y một chút không?”
Y không dám nói là ai thật ai giả nhưng trong khẩu khí lộ ra, ý là hai đạo thánh chỉ có nội dung bất đồng.
Viên thái giám kia không hiểu ra sao cả, y nơm nớp lo sợ bước đến bẩm:
“Nô tài, thánh chỉ mà nô tài tiếp, tựa hồ, tựa hồ có chút bất đồng”.
Trường Lạc công chúa hỏi:
“Bất đồng thế nào?”
Thái giám đáp:
“Chủ ý của Thánh thượng không thay đổi, vẫn là muốn Vũ Duy Dương chấp hành nguyên lai thánh chỉ, cái đó, cái đó của Không Không Nhi...”
Hắn muốn nói là giả, nhưng Trường Lạc công chúa đã nói “thánh chỉ” của Không Không Nhi là thật, hắn biết rõ là giả, song lại sợ Trường Nhạc Công chúa bắt vả miệng nên ấp úng không dám nói ra. Trường Lạc công chúa không đợi hắn nói hết câu, liền lập tức nói:
“Lấy thánh chỉ của ngươi cho ta xem!”
Thái giám kia lấy làm kinh hãi nói:
“Đây là Hoàng thượng đích thân nói với nô tài, không có ngự bút thân thư”.
Nguyên lai Lý Hanh bị Không Không Nhi dọa cho sợ đến hôn mê bất tỉnh, chờ đến lúc cung nga thái giám đến cứu tỉnh lại, y mới phát giác bị mất đồ chương. Tức thì thốt nhiên giận dữ, y liền lập tức phân phó thái giám tổng quản đuổi tới truyền chỉ.
Thứ nhất, bởi y vừa mới tỉnh lại, tâm thần chưa ổn định, nào có công phu cấu tứ mà viết chiếu thư, sự tình khẩn cấp, cũng không kịp gọi học sĩ hàn lâm viện đến thảo hộ. Thứ hai, trong lúc nhất thời, y chưa kịp đi lấy ngọc tỷ, đồ chương thì cũng bị mất, trên thánh chỉ nếu như không có “ngự bảo” thì chẳng bằng kêu người đến khẩu truyền cho xong. Vương công công này là Tổng quản thái giám mà Vũ, An hai người đều biết mặt nên y mới kêu hắn đi.
Trường Lạc công chúa cười lạnh nói:
“Hừ, ngươi nói đến nửa ngày, nguyên lai lại không có ‘ngự bút thân thư’. Ngươi giả truyền thánh chỉ, rõ ràng là bị gian nhân sai sử, bại hoại danh tín triều đình, triều đình muốn chiêu hiền nạp sĩ, ngươi lại làm triều đình thất tín với anh hùng thiên hạ!”
Đại tội giáng xuống, tên thái giám sợ đến mặt xám như chàm đổ, vội vàng kêu lên:
“Công chúa, oan...”
Hai chữ “oan uổng” vừa mới phun ra một nửa, Trường Lạc công chúa đã quát:
“Bắt hắn hồi cung sẽ tái thẩm!”
Nói thì chậm, nhưng lúc đó rất nhanh, viên quan quân bên cạnh Công chúa đã một trảo chụp lấy Vương công công, tiện tay điểm huyệt đạo của hắn, cho hắn khỏi nói lung tung.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Uy, Thủ pháp điểm huyệt của viên quan quân này thật không tệ!”
Không Không Nhi cười nói:
“Chỉ đáng thương vị thái giám kia lại vô can chịu tội rồi”.
Viên quan quân kia ném Tổng quản thái giám vào tù xa rồi tức tốc đóng tù xa lại. Thủ pháp điểm huyệt của y thập phần nhanh nhẹn, những quan quân và vũ lâm quân xung quanh đều không phải kẻ tầm thường, vậy mà không một ai nhìn ra, còn tên thái giám kia đã hoảng sợ quá mà ngất đi cho nên cũng chẳng nói nên lời.
An Định Viễn hô lớn:
“Vũ lâm quân lui xuống, mở cửa đại môn!”
Vũ lâm quân vốn không muốn cùng Thiết Ma Lặc đối địch, tức thì tất cả đều hoan hỉ, lập tức giải vây. Có vài quan quân thân với Thiết Ma Lặc trước đây còn từ xa hướng y thăm hỏi, vẫy tay chào. Thiết Ma Lặc thở phào một hơi, không nghĩ đến trường hiểm nguy này lại vượt qua một cách bất ngờ như vậy, y không khỏi ngơ ngác xuất thần nhìn chiếc cung xa.
Chợt thấy viên quan quân kia bước đến nói:
“Vị nào là Thiết Ma Lặc, Công chúa thỉnh ngươi sang nói chuyện”.
Thiết Ma Lặc định thần lại, đột nhiên trong lòng thoáng động, “Viên quan quân này giống như từng quen biết vậy, thanh âm cũng rất quen thuộc”. Trước đây khi Thiết Ma Lặc làm ngự tiền thị vệ, vốn quen biết không ít quan quân, nhưng nghĩ tới nghĩ lui cũng không nhớ ra người này là ai.
Không Không Nhi lặng lẽ thì thầm bên tai Thiết Ma Lặc:
“Công chúa giải vây cho ta, ta cũng không thể khiến người khó xử, ngươi giúp ta mang món đồ này đến cho người”.
Nói đoạn y nhét một khối vuông cứng vào tay Thiết Ma Lặc.
Thiết Ma Lặc và Trường Lạc công chúa đã mười năm không gặp mặt, tuy nói Thiết Ma Lặc đối với Công chúa không có chút tưởng nhớ gì, nhưng y cũng thập phần trân quý tình bằng hữu mà Công chúa đối với y, không ngờ hôm nay lại trùng phùng trong tình cảnh này.
Thiết Ma Lặc nhớ lại chuyện xưa, không khỏi có chút mủi lòng, y chậm rãi bước đến bên cạnh cung xa thì thấy Trường Nhạc Công chúa sớm đã cuốn xa liêm lên, cũng đang xuất thần nhìn y.
Thiết Ma Lặc nói:
“Đa tạ ân Công chúa giải vây”.
Trường Lạc công chúa cười nói:
“Ngươi sao lại trở nên khách khí với ta như vậy, năm đó trong cảnh binh hoang mã loạn, ngươi chẳng quản sinh tử, hộ tống chúng ta vào đất Thục, đại ân của ngươi, ta cũng chưa đa tạ”.
Thiết Ma Lạc đáp:
“Khi đó ta là ngự tiền thị vệ, chỉ là theo phận sự mà làm”.
Công chúa lại nói:
“Nói đến chuyện năm đó, tất cả là cha ta không đúng, trong lòng ngươi không oán hận sao?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Chỉ mong triều đình có thể chấn phát cương cường, oan khuất nhất thời của Thiết Ma Lặc chẳng tính làm gì. Về ân tình của Công chúa, ta chỉ có cảm tạ, xấu hổ không biết sao báo đáp”.
Trường Lạc công chúa nói:
“Bây giờ huynh muội Dương Quốc Trung thi cốt đã lạnh, Thái Thượng Hoàng (chỉ Huyền Tông) cũng đã tạ thế rồi, ngươi có muốn lại ra góp sức cho triều đình không?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Đa tạ hảo ý của Công chúa, ta cũng không muốn lại làm quan”.
Trường Lạc công chúa thần sắc ảm đạm, qua một hồi lâu rồi mới lại bắt đầu hỏi:
“Vậy, ngươi lại muốn đi ư?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Không sai, là muốn đi. Công chúa còn điều gì muốn hỏi ta nữa không?”
Trường Lạc công chúa ngưng mục không nói lời nào, như có điều tư lự, một hồi lâu đột nhiên hỏi:
“Phu nhân ngươi đâu?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Nàng ở dưới thôn quê”.
Trường Lạc công chúa lại hỏi:
“Ngươi có mấy hài tử rồi?”
Thiết Ma Lặc lại đáp:
“Đã có một nam một nữ, nam lên bảy tuổi, nữ cũng đã lên năm”.
Trường Lạc công chúa bùi ngùi thở dài nói:
“Thời gian trôi thật nhanh, hài tử của ngươi đều đã lớn vậy rồi. Nói ra ngươi so với ta hạnh phúc hơn nhiều. Ta cũng có phò mã, rồi phò mã mất đi, bây giờ chỉ có một mình, tịch mịch vô cùng”.
Thiết Ma Lặc cũng không khỏi có chút khổ sở trong lòng, y đưa mắt nhìn qua, chỉ thấy Công chúa so với trước dáng dấp có đầy đặn hơn, nhưng dung nhan lại tiều tụy đi nhiều. Thiết Ma Lặc nhớ lại chuyện xưa, vô hạn cảm xúc, y không khéo ăn nói, nhất thời cũng chẳng biết nói gì mới hay.
Trường Lạc công chúa đột nhiên lại nói:
“Hai đứa con của ngươi nhất định rất hoạt bát đáng yêu, lúc nào mang đến đây cho ta xem một chút. À, mà phu nhân của ngươi ta cũng chưa từng gặp mặt. Không bằng ngươi bảo bọn họ đến Trường An ở. Ngươi lưu lãng giang hồ, cũng không phải kế lâu dài”.
Hàm ý trong lời, thật sự là muốn Thiết Ma Lặc đến ở Trường An, để nàng có thể thường thường gặp mặt. Thiết Ma Lặc cười khổ nói:
“Lần này tuy ta được Hoàng thượng xá tội, nhưng vẫn mang thân phận phản nghịch, gia quyến của tội nhân sao có thể sống tại đế kinh được?”
Trường Lạc công chúa bảo:
“Ta sớm đã an bài cho ngươi rồi. Ngươi năm đó hộ giá có công, triều đình còn chưa phong thưởng!”
Thiết Ma Lặc vội vàng gạt đi:
“Ma Lặc hoàn toàn không muốn được phong thưởng”.
Trường Lạc công chúa lại nói:
“Ta biết ngươi không muốn làm quan, ta cũng không miễn cưỡng ngươi. Nhưng rốt cuộc triều đình cần phải báo đáp công lao của ngươi, cho nên ta đã xin Hoàng thượng cấp cho ngươi một Miễn tử kim bài, cái này ngươi có thể nhận được không?”
Thiết Ma Lặc nghĩ, có miếng kim bài thực sự cũng có thể giảm thiểu được nhiều phiền toái, người nhà cũng có thể miễn bị quan phủ quấy nhiễu, lập tức y cũng không tiếp tục chối từ nữa, tiếp lấy kim bài rồi đa tạ Công chúa. Trường Lạc công chúa bảo:
“Ngươi có miếng kim bài này thì có thể an cư tại Trường An được rồi”.
Thiết Ma Lặc không nói dứt khoát, chỉ nói:
“Đa tạ Công chúa hậu tứ, ta cũng có một món lễ vật tặng cho Công chúa”.
Trường Lạc công chúa hỏi:
“À, ngươi cũng có lễ vật cho ta à?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Bất quá, là ta mượn hoa hiến Phật, xin Công chúa đừng lấy làm phiền lòng”.
Trường Lạc công chúa không hiểu ra sao, chờ đến khi tiếp lễ vật vào tay, miết nhẹ một cái thì mới minh bạch, đó chính là chiếc đồ chương mà Không Không Nhi trộm đi. Trường Lạc công chúa có chút thất vọng, song lại nghĩ lại, đây tuy không phải lễ vật Thiết Ma Lặc tặng cho nàng, nhưng đối với ca ca nàng mà nói thì không lễ vật nào quý giá bằng, y thu hồi được chiếc đồ chương này, cũng có thể dỡ được một tảng đá trong lòng.
Trường Lạc công chúa bảo:
“Tốt, ngươi tặng ta lễ vật này, đủ chứng tỏ các ngươi không có ý đối nghịch với triều đình, trước mặt ca ca, ta khả dĩ cũng có thể ăn nói được”.
Thiết Ma Lặc nói:
“Thỉnh Công chúa trước mặt Hoàng thượng thay Ma Lặc tạ ân, cũng thỉnh Công chúa bảo trọng”.
Trường Lạc công chúa nói:
“A, ngươi đi rồi đấy ư...”
Thiết Ma Lặc hỏi:
“Công chúa còn có gì phân phó?”
Trường Lạc công chúa nhìn Thiết Ma Lặc một hồi tối hậu, sau một lát thì thở dài một hơi:
“Được, ngươi đi đi. Ta cũng nên hồi cung rồi!”
Đại môn sớm đã mở rộng, Thiết Ma Lặc hội họp lại với mọi người, chờ cho phụng xa của Công chúa vừa đi, bọn họ cũng theo ra. May mắn là mọi người không ai bị thương, chỉ thiếu Kim Kiếm Thanh Nang Đỗ Bách Anh. Thiết Ma Lặc nghĩ bụng, “Giáo trường đã mặc cho người ra ngoài, Công chúa lại đích thân truyền thánh chỉ, không cho phép bắt loạn người. Thiết nghĩ vũ lâm quân cũng sẽ không đặc biệt làm khó Đỗ thúc thúc. Cứ chờ ra ngoài rồi đi nghe ngóng. Nói không chừng thúc thúc sớm ra ngoài trước rồi”.
Thiết Ma Lặc mặc dù đã tự giải khai nỗi băn khoăn nhưng rốt cuộc trong lòng vẫn bồi hồi không yên. Không Không Nhi thì lại dương dương đắc ý, ha hả cười nói:
“Bây giờ chúng ta nên đến thăm hỏi Tần Tương. Thánh chỉ giả của ta biến thành thánh chỉ thật, thiết nghĩ y và Uất Trì Bắc hai người có thể an nhiên vô sự”.
Thiết Ma Lặc cũng đang nghĩ đến Tần Tương, chỉ đành tạm gác lại chuyện Đỗ Bách Anh sang một bên, y nói:
“Tần đại ca vì chúng ta mà chịu tai bay vạ gió, thực nên đến vấn an huynh ấy”.
Thiết Ma Lặc biết nơi ở của Tần Tương nên đi trước dẫn đường cho mọi người.
Chợt thấy viên quan quân theo hầu Trường Lạc công chúa phi ngựa đuổi tới, kêu lên:
“Phụng mệnh Công chúa, hộ tống các ngươi một đoạn đường”.
Không Không Nhi phật ý không vui nói:
“Chúng ta tự mình đi, không cần ngươi hộ tống”.
Viên quan quân kia lại nói:
“Ta biết các ngươi sẽ đi, nhưng lệnh của Công chúa, ta sao dám không theo?”
Quần hùng mặc dù không muốn có viên quan quân này đồng hành nhưng hôm nay thoát hiểm được cũng đều nhờ vào Trường Lạc công chúa ra sức giúp đỡ, nể mặt Công chúa nên cũng không tiện cự tuyệt người mà nàng phái đến.
Không Không Nhi thầm lẩm bẩm: “Chúng ta là đến thăm hỏi Tần Tương, nếu như để tên quan quân này biết thì đối với Tần Tương có điểm bất thỏa”. Đi được một đoạn thì Không Không Nhi không nhịn được nữa đành nói:
“Được rồi, được rồi, ngươi đã hộ tống một đoạn đường rồi, chúng ta cũng đã lĩnh tình không ít, ngươi quay về đi”.
Lúc này đã rời xa giáo trường vài dặm, trước sau không còn thấy tung tích của quan quân đâu nữa. Viên quan quân kia chợt cười nói:
“Còn phải đưa đến tận địa đầu, ngươi đuổi ta đi ta cũng không đi”.
Không Không Nhi không khỏi cả giận nói:
“Địa đầu cái gì, ngươi rốt cuộc muốn đưa đến tận đâu?”
Viên quan quân kia chỉnh sắc mặt nói:
“Các ngươi đến đâu thì ta đưa đến đấy, ra khỏi Trường An ta vẫn còn phải đồng hành với các ngươi nữa!”
Không Không Nhi phẫn nộ:
“Đâu ra cái lý đó, ta chưa từng thấy kiểu tiễn khách nào như vậy! Ngươi đi hay không đi, thực sự muốn ta chửi à?”
Thiết Ma Lặc chợt dang tay chắn giữa hai người ngăn Không Không Nhi lại rồi nói:
“Các hạ rốt cuộc là ai?”
Nguyên lai y càng nhìn càng thấy viên quan quân này tựa như đã từng quen biết, trong lòng vốn đã nghĩ đến một người, bất quá không dám tùy tiện nhận mặt.
Viên quan quân kia ha hả cười, đột nhiên giơ tay lên xoa mặt một cái, thanh âm cũng đột ngột thay đổi, nói:
“Rốt cuộc là nhãn quang Thiết trại chủ lợi hại!”
Đoàn Khắc Tà mừng rỡ reo lên:
“Đỗ thúc thúc!”
Viên quan quân này chính là Kim Kiếm Thanh Nang Đỗ Bách Anh.
Nguyên lai Đỗ Bách Anh y thuật tinh diệu, lại sở trường thuật cải dung dịch mạo, khi hỗn chiến bùng ra, y trù mưu tính kế thoát hiểm, rốt cuộc nghĩ ra một chủ ý. Y thừa cơ hỗn loạn, liền bắt lấy một tên quan quân thủ hạ của Vũ Duy Dương, rồi dùng thủ pháp nhanh nhẹn vô luân lột sạch y phục của hắn, lập tức hoán đổi, rồi thi triển qua loa một chút tiểu xảo, tức thì liền biến thành một viên quan quân có tướng mạo rất khác với tướng mạo nguyên bổn của y. Lúc đó, mọi người trong giáo trường đang ác đấu quên cả sống chết, chiếu cố cho mình còn chưa xong nào có ai còn để ý đến y. Rồi cứ vậy, y giả mạo thân phận quan quân, nói dối rằng Vũ Duy Dương có lệnh sai y quay về điều binh nên rất dễ dàng gạt mở được một đạo môn mà ra ngoài. Khi đó Tần Tương đã bị áp giải đi, Không Không Nhi thì chưa đến.
Đỗ Bách Anh biết Thiết Ma Lặc và Trường Lạc công chúa có giao tình, sau khi thoát thân liền đến phủ Công chúa cầu kiến, nhờ nàng viện thủ. Trường Lạc công chúa nghe xong thì kinh hãi, vội vàng vào cung gặp ca ca. Lúc này Lý Hanh đã phái tên thái giám kia đến giáo trường khẩu truyền thánh chỉ.
Lý Hanh tức giận chưa nguôi, liền kể chuyện này lại cho Trường Lạc công chúa. Trường Lạc công chúa giậm chân nói:
“Ca ca, lần này người làm đại sai, đại sai rồi!”
Lý Hanh giật mình hỏi:
“Thế nào?”
Trường Nhạc Công chúa nói:
“Không Không Nhi lai khứ vô tung, thị vệ trong cung của người có thể ngăn cản được hắn không quay lại không?”
Lý Hanh ngây người ngơ ngác rồi nói:
“Sau này chỗ ta ở, sẽ tăng thêm thị vệ, vậy kín xung quanh phòng, cho dù không ngăn được Không Không Nhi lẻn vào vương cung thì việc hắn muốn hành thích trẫm cũng là không thể”.
Tuy nói như vậy nhưng trong lòng Lý Hanh không khỏi phát lạnh. Trường Lạc công chúa cười nói:
“Suốt ngày nơm nớp lo lắng, làm người còn có tư vị gì nữa? Hơn nữa họa còn không chỉ từ phía Không Không Nhi. Thần dũng của Thiết Ma Lặc huynh đã biết rõ, vạn nhất vũ lâm quân không bắt được y, để y đào thoát, chẳng phải triều đình lại có thêm một đại địch sao? Còn hai người Tần Tương và Uất Trì Bắc đều là rường cột của triều đình, lại trung thành cẩn cẩn. Bây giờ người nghe lời Vũ Duy Dương sàm tấu, muốn khép tội hai người bọn họ, sau này còn ai giúp người bảo giá giang sơn Đại Đường nữa? Phàm khi hành sự, phải phân nặng nhẹ, chu toàn mọi lo lắng. Thiết Ma Lặc theo như Vũ Văn Dương nói là đã gia nhập lục lâm, cho dù là thật, thì đó là ở địa giới Ngụy Bác cách xa Trường An, chịu sự xâm nhiễm của bọn họ là các phiên trấn Tiết độ sứ, mối họa triều đình phải gánh tất nhiên không lớn. Nhưng bây giờ người lại thân hạ thánh chỉ bắt y, vạn nhất y tại Trường An tạo phản, lại hợp với Tần Tương, Uất Trì Bắc cùng nhất khởi, như thế sẽ gây ra đại loạn lớn! Người nghĩ lại mà xem, Không Không Nhi đã khó đối phó, lại thêm Thiết Ma lặc, rồi còn bức Tần Tương tạo phản, giang sơn Đại Đường này có thể giữ được không?”
Lý Hanh nghe xong thì không khỏi mồ hôi lạnh thành dòng tuôn xuống, y nói:
“Ta nhất thời nóng giận, xác thực là không lo lắng chu toàn. Vũ Duy Dương đó cũng thật đáng chết, xúi giục trẫm hạ thánh chỉ như vậy. Bây giờ phải làm sao?”
Trường Lạc công chúa cười nói:
“Chỉ cần tái truyền thánh chỉ, tạo ân cho Thiết Ma Lặc, lại phong cho Tần Tương một chức quan cao hơn. Người giao việc này lại cho thần sắp xếp, sẽ giúp người thu xếp ổn thỏa. Chỉ là phải chịu ủy khuất Vương tổng quản chút ít”.
Lý Hanh đáp:
“Chớ nói ủy khuất, ngươi giết hắn trẫm cũng mặc cho ngươi, nhanh đi, nhanh đi!”
Chuyện là như vậy, Trường Lạc công chúa được Lý Hanh đồng ý thì liền bày biện nghi trượng, còn kêu Đỗ Bách Anh sung vào làm quan quân theo hầu nàng, rồi kịp đến giáo trường cứu cả nhóm người Thiết Ma Lặc ra.
Cuộc nói chuyện của Trường Lạc công chúa và ca ca nàng, đương nhiên là Đỗ Bách Anh không biết, nhưng kế hoạch hành sự và giản lược sự tình đã qua thì Trường Lạc công chúa không giấu y.
Lập tức Đỗ Bách Anh mang ngọn nguồn kể lại, chúng nhân mới biết Trường Lạc công chúa là do y thỉnh đến, người người đều tán dương y trí kế vô song, nhưng không biết Lý Hanh thật sự cũng có cố kỵ, chứ không phải hoàn toàn vì nể tình muội muội.
Mọi người một mặt chuyện trò cười nói, một mặt lên đường. Tần Tương sống ở khu vực ngoại thành phía tây, dưới chân núi Ly Sơn.
Trước gia trang là một cánh rừng, chúng nhân đến nơi thì thấy cỗ tù xa còn ở trong rừng, Long Thành Hương và nghĩa phụ nàng cũng đang chờ ở đó. Long Thành Hương nhìn thấy Không Không Nhi và sư phụ liền vội vàng bước ra nghênh tiếp.
Không Không Nhi hỏi:
“Ngươi đưa Tần Tương về nhà chưa?”
Long Thành Hương đáp:
“Đã đưa về rồi”.
Không Không Nhi lại hỏi:
“Vì sao ngươi không ở Tần gia chờ ta?”
Long Thành Hương đáp:
“Vãn bối sợ y”.
Không Không Nhi phá lên cười lớn, Long Thành Hương hỏi:
“Còn hai tên quan quân này thì phải xử trí thế nào?”
Nguyên lai hai tên quan quân áp giải Tần Tương và Uất Trì Bắc cũng bị Không Không Nhi điểm huyệt, bây giờ vẫn còn ở trên tù xa. Không Không Nhi nói:
“Bây giờ có thể cho bọn chúng đi được rồi. Ngươi mang tù xa này đưa đi nửa đường, rồi để mặc bọn chúng tự mình hồi thành”.
Long Thành Hương lại hỏi:
“Sư phụ, sao không thấy Sử sư muội?”
Tân Chỉ Cô nói:
“Ta cũng không biết tường tận, nghe nói nó căn bản không đến hội trường, sớm đã theo người khác đi rồi”.
Long Thành Hương rất lấy làm kinh ngạc, nàng đưa mắt liếc Đoàn Khắc Tà một cái rồi hỏi:
“Có chuyện như vậy sao? Sư muội theo ai bỏ đi vậy?”
Tân Chỉ Cô đáp:
“Nghe nói là cùng tân nhiệm Lục lâm Minh chủ bỏ đi. Cái này là Đoàn Khắc Tà nói, ta cũng không biết là thật hay giả? Tính khí của sư muội ngươi thì ngươi biết rồi đó, nói không chừng là nó và tiểu Đoàn giận nhau, cho nên cố ý chọc tức tiểu Đoàn một chút, cái đó cũng khó nói”.
Tân Chỉ Cô tâm tình thư khoái, nói chuyện cũng khó tránh nói hơi nhiều, chợt phát giác mọi người đều chằm chằm nhìn mình, tức thì có điểm ngượng ngùng, bà cười nói:
“Bọn họ đến bái phỏng Tần Tương, ngươi cũng có chánh sự phải làm. Chuyện sư muội ngươi không cần quản thêm nữa, đi thôi!”
Nói xong, bà quay đầu nhìn Không Không Nhi, thản nhiên cười, rồi nói:
“Bây giờ lại đến phiên muội phải lo lắng cho đám tiểu bối”.
Không Không Nhi không quen tán tỉnh trước mặt người khác, tức thì cả mặt đỏ bừng.
Mọi người không cười Không Không Nhi bởi vì tin tức Tân Chỉ Cô vừa nói làm mọi người kinh ngạc, đặc biệt là đối với Niếp Ẩn Nương, càng tựa như sấm động trời quang, lòng tràn đầy nghi vấn, nàng trầm tư, “Bà ta nói Lục lâm Minh chủ gì đó, chẳng phải là Mưu Thế Kiệt hay sao? Thế Kiệt sao lại cùng yêu nữ đó tư bôn?”
Nhưng trước mặt mọi người nàng cũng không tiện hỏi ngay Đoàn Khắc Tà. Chúng nhân mặc dù cảm thấy kinh ngạc, nhưng bọn họ đều là giang hồ hào kiệt, đối với chuyện tư tình nam nữ thì không tiện xen vào, cho nên cũng không có ai nghị luận gì.
* * * * *
Chúng nhân đi tới trước cửa Tần gia, chỉ thấy hai cánh đại môn đóng chặt. Thiết Ma Lặc liền muốn gõ cửa, Không Không Nhi cười nói:
“Đừng làm kinh động đến người nhà y”.
Y lấy chủy thủ ra, cho vào trong khe cửa khoa khoa một cái, nhẹ nhàng đẩy, tức thì đẩy được ra ngay.
Mặc dù Tần Tương làm thống lĩnh vũ lâm quân, nhưng trong nhà lại không dùng gia đinh hộ viên, chỉ có hai lão bộc trông cửa, hai lão thấy một đám người đột nhiên ùn ùn kéo đến thì đại kinh thất sắc, Không Không Nhi cười ha hả nói:
“Không cần sợ hãi, chúng ta là bằng hữu lâu năm của lão gia các ngươi”.
Tần Tương và Uất Trì Bắc lúc này cũng vừa vặn tự giải khai được huyệt đạo. Tần Tương nghe thấy thanh âm của Không Không Nhi thì lửa giận bốc lên. Không Không Nhi vừa mới bước một chân vào đại sảnh, Tần Tương liền nhảy lên, lao đến trước mặt đánh y một quyền, lớn tiếng rít:
“Không Không Nhi, ngươi hại ta thực khổ!”
Không Không Nhi cười nói:
“Ngươi không đa tạ ta thì thôi, sao còn muốn đánh ta?”
Thân hình khẽ lay động, y sớm đã tránh về sau lưng Thiết Ma Lặc.
Thiết Ma Lặc giữ Tần Tương lại rồi nói:
“Đại ca, chớ trách nhầm người tốt, Không Không tiền bối cướp tù xa, cũng chẳng qua là không muốn đại ca gặp nạn”.
Tần Tương giận dữ:
“Các ngươi đến đây như vậy không phải là buộc ta thực sự mang ác danh là kẻ phản bội triều đình hay sao? Ma Lặc, chúng ta đã một phen huynh đệ, chỉ cần ngươi có thể bình an xuất kinh, Tần mỗ ta cam nguyện bỏ tánh mạng, mặc cho triều đình xử trí. Nhưng ngươi không thể liên lụy ta phải gánh tội danh phản nghịch được!”
Không Không Nhi hắc hắc cười nói:
“Ta cái gì cũng đã thấy qua, nhưng còn chưa thấy loại trung thần nào hồ đồ ngu xuẩn như ngươi cả!”
Tần Tương giận dữ đẩy Thiết Ma Lặc ra, lại muốn nhào đến đánh Không Không Nhi, Uất Trì Bắc chợt nói:
“Đại ca, không bằng chúng ta dẫn theo gia quyến bỏ đi. Chúng ta cũng không phản bội triều đình, bằng vào một thân khí lực của chúng ta, tại thôn quê cày ruộng cũng có thể qua ngày, chẳng hơn là ở triều đình chịu tội sao?”
Không Không Nhi cố ý chọc tức Tần Tương, y vỗ tay cười nói:
“Lời này mới thật là đúng nha! Tần thống lĩnh, các ngươi cũng không cần cày ruộng, ta dạy cho các ngươi vài món bản lĩnh tay chân, ngày đến ngàn nhà, đêm qua trăm hộ, đảm bảo các người cả đời ăn không hết, muốn cái gì có cái nấy, còn hơn ngươi làm Long Kỵ đô úy cả chục lần, trăm lần!”
Thiết Ma Lặc nói:
“Không Không tiền bối nói đùa với huynh đó, đệ nói thật cho huynh, bọn đệ đến báo hỉ cho huynh đây”.
Tần Tương bực tức nói:
“Báo hỉ cái khỉ gì, Ma Lặc, ngươi cũng đến chọc tức ta à?”
Thiết Ma Lặc nói:
“Đây là sự thực, Hoàng thượng thực sự có thánh chỉ chẳng những xá miễn tội cho chúng ta, huynh và Uất Trì đại ca cũng vô sự, khả năng còn được thăng quan nữa”.
Tần Tương lẽ nào chịu tin, liền kéo Uất Trì Bắc rồi nói:
“Ngươi cũng không nghe lời ta à? Chúng ta thế đại trung lương, chẳng những không thể phản bội triều đình, mà tránh né trừng phạt của triều đình cũng là điều không được. Ngươi đừng nói vớ vẩn, nhanh theo ta vào triều thỉnh tội”.
Thiết Ma Lặc kêu lên:
“Tần đại ca, huynh nghe đệ nói xong rồi hẵng đi cũng chưa muộn”.
Đang lúc giằng co, nhốn nhốn nháo nháo, chợt nghe thấy ngoài cửa có người cao giọng hô báo:
“Khâm sai đại nhân đến, lệnh Tần Tương và Uất Trì Bắc nghênh tiếp thánh chỉ!”
Tần Tương thở dài một hơi rồi nói:
“Chúng ta chậm một bước rồi, triều đình đã đến vấn tội trước rồi. Được rồi, Ma Lặc huynh đệ, ta cầu xin các ngươi nấp ra phía sau cho ta, ngàn vạn lần đừng làm chuyện hồ đồ”.
Không Không Nhi cười nói:
“Được, ta nể tình ngươi, không trộm đồ của khâm sai đại nhân”.
Thiết Ma Lặc lại nói:
“Cung hỉ đại ca, hạ hỉ đạ ca, thánh chỉ vừa đến, tất có tin mừng”.
Mấy người Thiết Ma Lặc vừa mới nấp ra phía sau thì Khâm sai đại nhân đã tiến vào đại môn, Tần Tương vội vàng bày hương án, cùng với Uất Trì Bắc song song quỳ xuống, nghênh tiếp thánh chỉ.
Uất Trì Bắc lải nhải thầm bên tai Tần Tương:
“Đại ca, huynh có con trai rồi, chết đi cũng xong. Đáng thương đệ còn chưa cưới lão bà nữa!”
Tần Tương quay ngang lườm Uất Trì Bắc một cái, hỏa khí đầy bụng. Lúc này khâm sai đã bước lên bậc tam cấp, đi đến trước mặt bọn họ, Tần Tương mặc dù tức giận nhưng cũng không dám mắng Uất Trì Bắc nửa câu.
Chỉ nghe khâm sai tuyên đọc thánh chỉ rằng:
“Tần Tương, Uất Trì Bắc hai người công trung vì nước, phục hồi nguyên chức, tịnh gia phong Tần Tương làm Trấn Quốc Công, Uất Trì Bắc làm Tĩnh Quốc Công, khâm thử!”
Tần Tương vừa kinh vừa mừng, tiếp lấy thánh chỉ rồi vội vàng tạ ân. Khâm sai hỏi:
“Ta phải trở về phục mệnh Hoàng thượng. Tần đại nhân có gì muốn ta tấu thay chăng?”
Tần Tương nói:
“Hoàng ân rộng rãi, Tần mỗ tan xương nát thịt cũng chưa đủ báo đáp. Thỉnh đại nhân mang thành ý này của Tần mỗ trần minh với Thánh thượng”.
* * * * *
Khâm sai đi rồi, Tần Tương vẫn ngơ ngác cầm thánh chỉ, Uất Trì Bắc nói:
“Tần đại ca, lần này chúng ta chuyển họa thành phúc, so với đa tạ hoàng ân, chẳng bằng chúng ta đa tạ Không Không Nhi”.
Không Không Nhi ha hả cười lớn, cùng với đám người Thiết Ma Lặc từ trong hậu đường bước ra nói:
“Tần Tương, ngươi còn muốn đánh ta không? Nếu ngươi có hứng, Không Không Nhi ta cũng không ngại đấu với ngươi ba trăm hiệp”.
Uất Trì Bắc kêu lên:
“’Không Không Nhi chân hữu nhĩ’, rốt cuộc ngươi làm thế nào mà được như vậy?”
Tần Tương thì lại vô cùng hổ thẹn, cả đời y ngoài Hoàng đế ra chưa từng cúi đầu trước ai, lúc này cũng đành phải đỏ cả mặt mày bước đến hướng Không Không Nhi đa tạ. Không Không Nhi cười rằng:
“Kỳ thật các ngươi nên hướng Thiết Ma Lặc cảm ơn mới đúng. Nếu như không có giao tình giữa Thiết Ma Lặc và Trường Lạc công chúa, Không Không Nhi ta cũng vô năng vi lực”.
Lập tức y mang sự tình trải qua kể lại một lần, Tần Tương bấy giờ mới minh bạch những khúc chiết bên trong. Uất Trì Bắc lại ha hả cười nói:
“Các ngươi đều là ân nhân của ta. Ngày mai ta sẽ sớm lấy lão bà, ít nhất cũng phải sinh hai đứa con trai, một đứa bái Thiết Ma Lặc làm cha nuôi, một đứa bái Không Không Nhi làm cha nuôi. Ôi, chỉ tiếc dung mạo của ta thế này, không biết có ai chịu gả cho ta không?”
Y hồn nhiên nói một trận, khiến cho mọi người phá lên cười rộ.
Không Không Nhi cười bảo:
“Tần thống lĩnh đã không muốn đánh với ta, ta đây cũng phải đi rồi. Sở huynh đệ, ta đi giúp ngươi truy hồi thanh Kim Tinh đoản kiếm”.
Tân Chỉ Cô nói:
“Được, huynh đi bắt Tinh Tinh Nhi, muội cũng đi trợ giúp huynh, Tinh Tinh Nhi còn thiếu muội một cái bạt tai...
Uy, Không Không Nhi, huynh đừng chạy quá nhanh, chờ muội với!”
Không Không Nhi, Sở Bình Nguyên, Tân Chỉ Cô đi rồi, Phong Cái Vệ Việt cười nói:
“Xem ra đám mối này của bọn họ không cần lão ăn mày ta làm mai rồi. Lão ăn mày ta cũng nên đi thôi. Tần thống lĩnh, đa tạ ngươi đã chiếu cố huynh đệ Cái bang ở Trường An”.
Tần Tương đáp:
“Vệ lão tiền bối, ta còn chưa được mời ngài uống rượu đó”.
Vệ Việt cười nói:
“Lão ăn mày có tính rất xấu, uống rượu cũng phải chọn nơi, ta từ xưa đến giờ không quen ngồi uống rượu trong nhà quan nhân, lão ăn mày ta thích ngồi uống ở những chỗ tồi tàn. Tần thống lĩnh mặc dù không như đám quan lại thông thường, lão ăn mày cũng rất bội phục ngươi, nhưng ta không muốn phá lệ. Như vậy đi, ngươi có hảo tửu không, cho ta đầy cái hồ lô này để ta trên đường uống dần, vậy coi như ta đã lĩnh tình của ngươi”.
Tần Tương vội vàng đáp:
“Có, có! Nguyên tiêu năm nay, Hoàng thượng ngự ban cho ta một hũ mỹ tửu do ngự trù cất, ta còn chưa mở ra”.
Vệ Việt nói:
“Hoàng đế lão nhi của các ngươi rất khiến cho ta chán ghét, bất quá mỹ tửu do ngự trù của y cất thì lão khiếu hóa lại không chán ghét”.
Tần Tương biết tính lão, cũng không dám níu giữ thêm, y kêu lão bộc đổ đầy một hồ lô rượu cho Vệ Việt, rồi tiễn lão khỏi nhà. Thạch Thanh Dương, Tiêu Cố, mấy người Cái bang cũng theo lão đi.
Sau khi đám người Cái bang đi khỏi, hai cặp huynh muội Độc Cô Vũ, Độc Cô Oánh, Lữ Hồng Xuân, Lữ Hồng Thu cũng lần lượt cáo từ. Đoàn Khắc Tà, Sử Nhược Mai thay Tần Tương tiễn bọn họ ra cửa, Độc Cô Oánh cười nói:
“Sử đại ca, không, bây giờ là Sử đại tỷ rồi, Đoàn thiếu hiệp, huynh cướp đại tỷ của ta đi, sau này phải đối đãi tỷ ấy cho tốt, đừng có giận nhau nữa”.
Độc Cô Vũ cười nói theo:
“Các người giận nhau chỉ làm khổ muội muội ta”.
Đoàn Khắc Tà không khéo nói chuyện, chàng cũng chưa biết Độc Cô Oánh từng có một đoạn hài hước luyến ái Sử Nhược Mai, cho nên chỉ biết luôn miệng nghiêm trang xin lỗi.
Đoàn, Sử hai người trở lại phòng khách, Thiết Ma Lặc cười nói:
“Chúng ta đang nhắc đến đệ đó”.
Uất Trì Bắc chộp tay Đoàn Khắc Tà ha hả cười rằng:
“Nguyên lai ngươi là con trai của cố nhân ta. Lệnh tôn lúc còn sống từng đánh với ta một lần, mặc dù ta bị người cho nếm mùi thua thiệt, nhưng trong lòng lại thật bội phục người”.
Tần Tương lại nói:
“Người trong thiên hạ võ công cao cường cũng không ít, nhưng nếu nói đến hai chữ ‘Đại Hiệp’ trên chúng ta một bối, chỉ có hai người là lệnh tôn và Nam Tễ Vân mới xứng đáng với danh xưng đó, dưới chúng ta một bối, ngoại trừ Thiết huynh đệ ra, ta chỉ kỳ vọng vào ngươi”.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Tại hạ còn kém lắm, mong được Tần thống lĩnh chỉ bảo nhiều hơn”.
Tần Tương thở dài, bùi ngùi nói:
“Ta ăn lộc của vua, chỉ có thể trung quân báo quốc, chỉ cầu không thẹn với lòng mình mà thôi. Chữ ‘Hiệp’ đó thật vô duyên với ta. Nhưng ta đối với lệnh tôn Đoàn đại hiệp, lại là cả đời kính bội. Lệnh tôn khi sanh tiền, ta vô duyên cùng người kết giao, cho đến hôm nay thấy được ngươi cũng có thể bù lại chút ít”.
Tần Tương quay đầu lại rồi tiếp:
“Sử cô nương, nói ra ta và cô cũng không phải người ngoài, ta nên gọi cô một tiếng sư muội mới đúng, cô có biết không?”
Sử Nhược Mai ngẩn người không hiểu ra sao. Nàng không dám trả lời, nghĩ bụng, “Võ công của Tần Tương là gia truyền, thiên hạ đều biết, sao lại có quan hệ với ta?”
Lại nghe thấy Tần Tương nói tiếp:
“Lệnh tôn khi còn sống, từng làm Ngự sử trong cung, lúc đó ta còn là thằng nhóc ba thước, từng bái lệnh tôn nhận làm đệ tử, bắt đầu học sách, theo lệnh tôn mấy năm dùi mài kinh sử. Đáng tiếc ta là đệ tử bất tài nhất, theo Sử lão sư niệm hết cái gì là Tứ Thư Ngũ Kinh, đến bây giờ một câu cũng không nhớ nổi”.
Sử Nhược Mai bấy giờ mới biết Tần Tương nói là về học vấn chứ không phải võ công. Tần Tương lại nói:
“Lệnh tôn khí phách cương nghị, dám can dám gián, thời gian làm quan không lâu, nhưng tiếng ngay thẳng đã vang khắp thiên hạ! Lệnh tôn mặc dù sức trói gà không chặt, nhưng nói đến một chữ ‘Hiệp’ thì cũng xứng nhận mà không thẹn.!”
Sử Nhược Mai nghe Tần Tương ca tụng phụ thân thì vừa cao hứng lại vừa thương tâm, nàng nghĩ tới bản thân mình chưa từng được nhìn mặt phụ thân thì không khỏi rưng rưng ngấn lệ, thần sắc buồn bã.
Uất Trì Bắc bảo:
“Đừng cứ nói đến chuyện xưa nữa, tục ngữ nói rất hay, Trường Giang sóng sau đè sóng trước, trần gian người mới vượt người xưa. Đoàn huynh đệ, Sử cô nương, biết đâu ngày sau lại còn hơn cả cha ông. Huynh nhanh mang rượu đến cho mọi người uống, thứ nhất là cùng Thiết huynh đệ ôn lại chuyện xưa, thứ hai là cũng nên ăn mừng chúng ta mới kết giao với hai vị tiểu bằng hữu”.
Tần Tương nói:
“Cơm rượu sớm đã chuẩn bị xong rồi”.
Lúc này, lưu lại nhà Tần Tương có sáu người, Thiết Ma Lặc, Đỗ Bách Anh, Đoàn Khắc Tà, Sử Nhược Mai, Niếp Ẩn Nương, Phương Ích Phù, cộng thêm Tần Tương với Uất Trì Bắc là vừa vặn tám người thành một bàn.
Trong sáu người, Thiết Ma Lặc là lão bằng hữu của Tần Tương, Đỗ Bách Anh và Tần Tương tuy trước đây chưa từng quen biết, nhưng cũng đều nổi tiếng, mộ danh nhau đã lâu, hơn nữa lại cùng có quan hệ với Thiết Ma Lặc.
Đoàn Khắc Tà, Sử Nhược Mai thì do uyên nguyên giữa phụ thân bọn họ và Tần Tương, nên càng xem như là cố tri. Phụ thân của Niếp Ẩn Nương lại là danh tướng, cùng với Tần Tương có nghĩa đồng liêu, nói ra cũng là quen biết. Chỉ có một mình Phương Ích Phù với Tần Tương là không có chút quan hệ, trên giang hồ lại chưa có tên tuổi gì, ngồi giữa một một nhóm người không phải danh chấn giang hồ thì cũng là đại tướng triều đình, y không khỏi cảm thấy tự ti, may mà Tần Tương nhiệt tình hiếu khách cũng không quên y.
Rượu quá ba tuần, nhắm qua hai lượt, tửu ý nùng nùng, hào khí càng cao. Nhưng ngồi trong đó lại có một người, mặt mày ủ dột, ít nói chẳng cười, thần sắc ưu buồn, ít sôi nổi hơn cả Phương Ích Phù, đó chính là Niếp Ẩn Nương. Tần Tương cười nói:
“Niếp điệt nữ, điệt nữ có tâm sự gì lo lắng vậy? Có phải sợ là phụ thân biết chuyện cháu làm mà trách phạt không?”
Uất Trì Bắc cũng ha hả cười nói:
“Niếp điệt nữ, cháu thực sự là gan lớn hơn trời, dám nữ cải nam trang tham gia anh hùng đại hội, nghe nói còn cùng với quan quân động thủ. May mà không ai nhận ra điệt nữ là thiên kim tiểu thư của Niếp đại tướng quân. Điệt nữ không cần phải lo lắng, chúng ta quyết không tiết lộ chuyện này cho cha cháu biết đâu. Cứ an tâm mà sướng ẩm đi”.
Bọn họ nào có biết Niếp Ẩn Nương là bởi có tâm sự khác nên mới ảm đạm không vui.
Niếp Ẩn Nương chợt giật mình, tự biết thất thố, liền thuận theo mà cười trừ:
“Cháu là sợ phụ thân biết, đa tạ hai vị thúc đã giấu giúp, chỉ là tiểu điệt tửu lượng kém, không dám phụng bồi hai vị thúc thúc”.
Uất Trì Bắc nói:
“Ta nghe nói cháu mới bước chân vào giang hồ vài năm nay, sớm đã có thanh danh nữ hiệp, người người đều nói cháu là cân quắc tu mi, sao đến nhà thúc thúc mà lại xấu xấu hổ hổ thành bộ dạng thiên kim tiểu thư vậy? Cũng được, ta không ép cháu uống bát lớn, chén nhỏ này thì nhất định phải uống”.
Niếp Ẩn Nương không làm khác được, chỉ đành cùng ba vị trưởng bối theo thứ tự Tần Tương, Uất Trì Bắc, Thiết Ma Lặc mà uống với mỗi người một chén, tâm sự lại càng nặng nề thêm.
Tần Tương nâng chén rượu lên nói:
“Thiết huynh đệ, ta đệ hôm nay nhất biệt, hậu hội vô kỳ, tạ đệ chân thành kết giao, xin thứ cho ngu huynh trực ngôn khuyên một lời”.
Thiết Ma Lặc đáp:
“Ma Lặc đang muốn thỉnh đại ca tặng lời”.
Tần Tương khuyên bảo:
“Người có chí riêng, đệ không muốn làm quan, ta cũng không cưỡng ép. Nhưng tư hỗn trong chốn lục lâm cũng không phải kế lâu dài”.
Thiết Ma Lặc đáp:
“Đa tạ lời vàng ngọc của đại ca. Nhưng xin đại ca an tâm, tiểu đệ tuy thân tại lục lâm, song quyết không làm tổn hại đến nước nhà. Đại ca, huynh mặc dù ở Trường An, thiết nghĩ cũng đã biết chuyện khắp nơi phiên trấn chuyên hoành, coi thường triều đình, khi áp bách tính. Tiểu đệ tuy không dám nói thế thiên hành đạo, nhưng cũng không đành lòng thấy dân chúng vô tội chịu khổ, nếu như thế đạo không thay đổi, tiểu đệ tình nguyện chung thân ở lại lục lâm”.
Uất Trì Bắc dốc chén rượu ực vào miệng, rồi nói:
“Thiết huynh đệ nói không sai, nếu như ta không phải tổ truyền là quan, ta cũng muốn làm cường đạo cho xong. Tần đại ca, theo đệ thấy, như Thiết huynh đệ làm một đầu lĩnh cường đạo, so với chúng ta làm tướng quân còn thống khoái hơn nhiều!”
Tần Tương thực sự không có biện pháp, hơn nữa y cũng chẳng phải không có oán hận, bất quá quan niệm trung quân của y đã trở thành thâm căn cố đế, lại mang thân phận đại tướng quân, cho nên y mới không chịu dễ dàng phát tiết.
Lúc này đã có vài phần tửu ý, y không khỏi thở than:
“Uất Trì hiền đệ, đệ nói cũng là sự thật. Bất quá, những lời nói bậy như vậy, không nên nói ra bởi ta và đệ”.
Uất Trì Bắc cười nói:
“Đã là sự thật, tại sao lại là nói bậy. Thiết huynh đệ làm cường đạo, huynh cũng không nên trách đệ ấy! Như đệ thấy, y làm đầu lĩnh cường đạo, đối với triều đình còn có công đó. Triều đình không dám thảo phạt đám tiết độ làm mưa làm gió kia, Thiết huynh đệ lại chuyên đối đầu với bọn chúng, cái này đúng như tục ngữ có nói ‘ác nhân sẽ có ác nhân trị’, đệ huynh hẳn nên vỗ tay khoan khoái đó!”
Thiết Ma Lặc cười nói:
“Uất Trì đại ca, huynh uống quá nhiều rồi, lời lung tung nói ít thôi, không bàn quốc sự, chúng ta chỉ luận tình huynh đệ!”
Uất Trì Bắc bảo:
“Đúng, đúng, chúng ta chỉ luận tình huynh đệ. Ờ mà nói đến, ta lại nhớ tới tên huynh đệ còn lỗ mãng hơn ta...”
Thiết Ma Lặc hỏi:
“Đúng rồi, đệ đang muốn hỏi huynh, sao hôm nay không thấy Nam ca?”
Trong lời của Uất Trì Bắc gọi là “huynh đệ lỗ mãng” và Thiết Ma Lặc chuyển thành “Nam ca” chính là chỉ đệ đệ của Uất Trì Bắc, tức Uất Trì Nam.
Uất Trì Bắc đáp:
“Hắn phụng mệnh đến Lộ Châu giám quân, còn chưa hồi kinh. Uy, ta muốn hỏi đệ một người”.
Thiết Ma Lặc hỏi:
“Ai?”
Uất Trì Bắc nói:
“Có một vị thiếu niên anh hùng mới nổi, tên gọi Mưu Thế Kiệt, có lẽ là đệ biết chứ?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Chẳng những quen biết, mà còn rất quen, sao huynh lại hỏi đến y?”
Uất Trì Bắc nói:
“Tần đại ca vừa nói rằng ta nói bậy bạ, kỳ thật đó là những lời mà ta thu thập từ miệng người khác. Những lời này là do Mưu Thế Kiệt nói với đệ đệ ta. Đệ đệ ta rất bội phục Mưu Thế Kiệt đó!”
Thiết Ma Lặc nói:
“Đệ cũng từng nghe nói Mưu Thế Kiệt và Nam ca có một đoạn giao tình”.
Uất Trì Bắc nói:
“Mưu Thế Kiệt lần này bị liệt vào danh sách ‘phản nghịch’, sao lại không thấy y? Y không đến hội trường sao?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Đêm qua y đã xuất thành rồi”.
Uất Trì Bắc hạ chén than:
“Đáng tiếc, đáng tiếc! Đệ đệ ta tán dương hắn rất xứng anh hùng, hôm nay ngồi đây lại thiếu một người như vậy, thực sự là tiếc nuối”.
Thiết Ma Lặc trầm ngâm hồi lâu rồi đột nhiên nói:
“Nhị ca, hai huynh đệ huynh đều là người ngay thẳng trực tính, theo đệ thấy, Mưu Thế Kiệt tuy là anh hùng, nhưng các huynh không thích hợp kết giao với y”.
Niếp Ẩn Nương nghe bọn họ đề cập đến Mưu Thế Kiệt thì để tâm lắng nghe. Lời Thiết Ma Lặc vừa thốt ra lại khiến cho phương tâm nàng thấp thỏm bất an, nghi vấn trùng trùng.
Uất Trì Bắc tròn mắt hỏi:
“Vì sao vậy?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Mưu Thế Kiệt là tân nhiệm Lục lâm Minh chủ”.
Uất Trì Bắc chợt “ai chà” một tiếng kinh ngạc, nhưng rồi lại nói ngay:
“Thiết huynh đệ, đệ cũng là cường đạo đầu tử mà!”
Thiết Ma Lặc nói:
“Cách làm của y và đệ có chỗ bất đồng, y hoàn toàn không muốn chung thân làm cường đạo đầu tử”.
Uất Trì Bắc bảo:
“Thế cũng rất hay mà!”
Thiết Ma Lặc cười rằng:
“Y không muốn làm cường đạo lại muốn làm Hoàng đế đó! Muốn làm Hoàng đế cũng chẳng hệ trọng, bất quá, bất quá,...”
Tần Tương kêu lên:
“Ai chà, các ngươi đều uống say hết rồi!”
Thiết Ma Lặc cười một tiếng rồi nói:
“Đúng, đã nói không bàn đến quốc sự, ta cũng khống muốn nghị luận lung tung. Rượu thật cũng hơi nhiều, chúng ta còn phải lên đường, Tần đại ca, chúng ta cáo biệt ở đây nha!”
Uất Trì Bắc mặc dù không kiêng kỵ gì, nói chẳng lựa lời, nhưng nghe thấy Thiết Ma Lặc nói câu “Muốn làm Hoàng đế cũng chẳng hệ trọng gì”, thì cũng không khỏi hoảng hốt, không dám nói thêm nữa.
Thiết Ma Lặc vốn có ý định khác, mặc dù y cũng có vài phần tửu ý nhưng vẫn còn thanh tỉnh, mới thấy Tần Tương bực mình, lập tức nghĩ bụng: “Ta chỉ muốn huynh đệ Uất Trì Bắc biết Mưu Thế Kiệt là người thế nào, tránh giao kết với y, hà tất phải nói nhiều với Tần đại ca làm gì”.
Nguyên vì Thiết Ma Lặc tối trọng tình nghĩa, mặc dù Mưu Thế Kiệt và y đã đường ai nấy đi, cũng như đã tuyệt giao, nhưng Thiết Ma Lặc còn niệm tình thủ túc khi xưa, vẫn hy vọng có thể khuyên Mưu Thế Kiệt hồi đầu. Cho nên cũng không muốn trước mặt Tần Tương mang chi tiết về Mưu Thế Kiệt ra nói rõ ràng.
Uất Trì Bắc nói:
“Thiết huynh đệ, ta với đệ không bàn chuyện lục lâm là được, hà tất phải lập tức đi như vậy?”
Thiết Ma Lặc cười đáp:
“Thiên hạ không có bữa tiệc nào không tàn, hôm nay chúng ta có thể tụ hội được đến nửa ngày cũng là cơ duyên ngoài ý, đệ nếu tiếp tục lưu lại đây, bị người khác biết được, chỉ sợ đối với các huynh có điều bất tiện. Hơn nữa, sắc trời không còn sớm, bọn đệ cũng nên thượng lộ rồi”.
Tần Tương thở dài một hơi rồi nói:
“Thiết huynh đệ, ta và đệ lòng dạ đều trong sáng, đạo tuy bất đồng nhưng đều là tận tâm vì nước như nhau, sau này bất luận đệ thế nào, ta đều có thể yên tâm bỏ qua. Được, đệ phải đi ta cũng không tiện cưỡng lưu. Ta có một chút lễ vật nhỏ, mong các người nhận cho”.
Thiết Ma Lặc ngẩn người, rồi nói:
“Tần đại ca, đệ huynh chẳng phải giao tình tầm thường như thế tục, sao lại muốn tặng lễ vật làm gì?”
Tần Tương cười nói:
“Ta thấy các người không có ngựa cưỡi, muốn tặng mỗi người một con để các người lên đường cho tiện. Loại lễ vật này không coi là quá thô tục chứ”.
Thiết Ma Lặc ha hả cười:
“Cái này chính hợp chúng ta cần dùng, nếu đệ chối từ thì lại trở thành người thô tục”.
Tần Tương bình sanh không đặc biệt ham mê gì, duy chỉ có ham mê danh mã. Trong bầy ngựa của y, có hơn mấy chục con ngựa tốt từ các nơi như Đại Uyển, Khang Cư, Thổ Phiền, thậm chí là mãi xa A Lạp Bá tiến cống. Lập tức y chọn lấy sáu con tặng cho sáu người nhóm Thiết Ma Lặc, rồi lại lấy một lệnh tiễn giao cho Thiết Ma Lặc mà dặn:
“Tây môn do vũ lâm quân canh giữ, đệ giao xuất lệnh tiễn của ta thì có thể bớt được nhiều phiền toái”.
* * * * *
Có lệnh tiễn của Tần Tương, quả nhiên không hề bị tra hỏi gì, sáu người dễ dàng rời khỏi kinh thành. Thiết Ma Lặc trở về phía tây, cáo biệt Trường An, nhớ lại tao ngộ mấy ngày qua: Cùng Mưu Thế Kiệt chia tay, cùng Trường Lạc công chúa trùng phùng, giết chết đại cừu địch Dương Mục Lao, lại cùng Tần Tương, Uất Trì Bắc giãi bày tâm sự.... những sự tình này, có thương tâm khổ sở, cũng có thống khoái lâm ly, mỗi một chuyện đều khiến y quên cũng không thể quên, hồi tưởng lại không khỏi vạn phần cảm khái.
Đỗ Bách Anh cười bảo:
“Có ngựa tốt do Tần Tương tặng, ước chừng trước khi trời tối chúng ta có thể đi được trên trăm dặm”.
Niếp Ẩn Nương chợt nói:
“Khắc Tà, ngựa mà đệ cưỡi xem ra không tệ, ta muốn cùng với đệ tỷ thí kỵ thuật, xem ai chạy nhanh hơn?”
Đoàn Khắc Tà thoáng ngẩn người, lập tức chàng minh bạch ý tứ của nàng, liền đáp:
“Được, phía trước là Tọa Sơn cương, xem ai đến đó trước”.
Roi ngựa quất hờ “bát” một tiếng, hai thất mã này đều là tuấn mã được huấn luyện đã lâu, không chờ roi đánh xuống thân đã tung bốn vó phi như bay.
Thiết Ma Lặc cười nói:
“Tuổi trẻ bọn họ thật ham chơi hiếu thắng, chúng ta đi phía sau xem náo nhiệt nha, đừng làm mất hứng thú của họ”.
Phương Ích Phù đang bất giác muốn phóng lên, vừa nghe thấy Thiết Ma Lặc nói như vậy bỗng dưng đỏ mặt, nghĩ bụng, “Niếp sư tỷ trong lòng chỉ có người kia, ta dẫu ở bên cạnh nàng cũng khó làm cho nàng vui vẻ”.
Nghĩ đến điểm này thì y bất giác cảm thấy một mảng mịt mù, ngồi trên mình ngựa mặc cho nó đưa đi đâu thì đưa.
Sử Nhược Mai khẽ cười nói:
“Phương sư huynh mệt à, dù sao chúng ta cũng không cần vội, từ từ đi thôi”.
Sáu người chia làm ba đôi, Đoàn Khắc Tà với Niếp Ẩn Nương phi ở phía trước, Thiết Ma Lặc cùng Đỗ Bách Anh không nhanh không chậm đi ở giữa, Sử Nhược Mai cùng với Phương Ích Phù lển mển đằng sau.
Sử Nhược Mai thấp giọng nói:
“Niếp sư tỷ nhất định là vì chuyện của Mưu Thế Kiệt, muốn hướng Đoàn Khắc Tà để hỏi rõ ngọn nguồn đó. Thiết đại ca vừa rồi cùng với Tần Tương nói chuyện, huynh có nghe thấy không? Kỳ thật không cần hỏi lại cũng đều đã minh bạch rồi. Mưu Thế Kiệt này không phải là người tốt, đáng tiếc sư tỷ còn chưa chịu chết hẳn lòng, không hỏi rõ ràng là không chịu, Thế này cũng tốt, tỷ ấy biết rõ ràng thì khả dĩ mới quyết đoạn tuyệt. Chỉ là sau này tỷ ấy nhất định rất thương tâm, Phương sư huynh, huynh còn phải an ủi tỷ ấy nhiều hơn”.
Phương Ích Phù thở dài một hơi, than:
“Người ta là Lục lâm Minh chủ, ta dựa vào cái gì mà an ủi nàng?”
Sử Nhược Mai nghiêm sắc mặt nói:
“Huynh nói như vậy là nhìn lầm Niếp tỷ tỷ rồi. Muội và tỷ tỷ cùng lớn lên từ bé, biết rõ tính tình của tỷ, tỷ ấy quyết không phải vì Mưu Thế Kiệt là Lục lâm Minh chủ mà thích y. Sự thật trước đây tỷ ấy cùng Mưu Thế Kiệt quen biết, khi bắt đầu có điểm ý tứ với y cũng là lúc trước khi y làm Minh chủ lục lâm. Lúc đó có ai không coi Mưu Thế Kiệt là vị đại hiệp quang minh lỗi lạc chứ? Chẳng nói ai xa, ngay như Thiết đại ca là người lịch duyệt có nhãn quang cũng đều bị che mắt, coi Mưu Thế Kiệt là người đồng đạo, còn ngầm mang chức Minh chủ nhượng cho y đó. Sao lại trách Niếp tỷ tỷ được?”
Phương Ích Phù thở hắt ra một hơi rồi nói:
“Là ta nói sai, bất quá, bất quá...”
Trên mặt y lại đỏ bừng, không nói hết được.
Sử Nhược Mai cười bảo:
“Bất quá cái gì? Huynh sợ Niếp tỷ tỷ xem thường huynh? Theo như muội thấy, huynh so với Mưu Thế Kiệt còn hơn nhiều. Huynh mặc dù võ công không bằng y, nhưng tâm địa lại tốt hơn y rất nhiều. Mưu Thế Kiệt làm ra vẻ hiệp nghĩa, thật sự trong lòng lại đầy cơ tâm, muội mặc dù hồ đồ, chỉ nhìn mấy chuyện y làm, cũng đã có điểm nhìn ra. Niếp tỷ tỷ so với muội thông minh gấp bội, chỉ đáng tiếc là đương cục giả mê. Bất quá, sau sự tình lần này, tỷ ấy sẽ thanh tỉnh lại. Phương sư huynh, huynh không được nản lòng đó!”
Phương Ích Phù một lòng ám luyến sư tỷ, chỉ vì Niếp Ẩn Nương vô tâm với y, y cũng tự cảm giác được, cho nên trước mặt Niếp Ẩn Nương đều có ít nhiều điểm tự ti, nay được Sử Nhược Mai tháo gỡ thì đám sương mù trong lòng như được gặp ánh dương quang mà tiêu thất một chút. Y nhìn Sử Nhược Mai, đầy lòng cảm kích mà nói:
“Sử sư muội, ta vốn nghĩ muội là một cô nương không hiểu chuyện, nguyên lai muội cũng rất quan tâm đến người khác”.
Sử Nhược Mai nói:
“Đó đều là công Ẩn Nương tỷ tỷ chỉ dạy. Thật không dám giấu, khi còn bé muội chỉ biết có mình, một chút cũng không biết quan tâm đến người khác”.
Nói đến chỗ này, bất tri bất giác nàng cảm khái:
“Trước đây, khi muội và Khắc Tà có rắc rối, Ẩn Nương tỷ tỷ vì muội mà hao tổn tinh thần, không ngờ bây giờ lại đến phiên muội quan tâm cho tỷ ấy. Nhưng muội và Khắc Tà bất quá chỉ là hiểu lầm, còn tỷ ấy thật sự là gặp phải phụ nhân tâm, so với muội thật bất hạnh hơn nhiều lắm”.
Nàng bỗng dưng thấy buồn, đưa mắt nhìn xa, chỉ thấy trên sườn núi trước mặt có hai điểm đen nho nhỏ, Sử Nhược Mai nói:
“Bọn họ có lẽ nói chuyện đã lâu, bây giờ chúng ta có thể đuổi theo được rồi”.
Đoàn Khắc Tà và Niếp Ẩn Nương phóng ngựa như bay, vượt lên sườn núi, quay đầu nhìn lại, thấy mấy người Thiết Ma Lặc đã bỏ lại mãi xa, Đoàn Khắc Tà dừng cương rồi nói:
“Niếp tỷ tỷ, đa tạ tỷ đã chiếu cố Mai muội”.
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Chỉ cần các ngươi hòa hảo như xưa, ta cũng có thể an tâm được rồi”.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Niếp tỷ tỷ, tỷ có lòng hảo tâm tất sẽ có hảo báo, nếu như có chuyện gì không như ý thì cũng không cần để trong lòng”.
Niếp Ẩn Nương sắc mặt trở lên tái nhợt, nàng hỏi:
“Khắc Tà, xin đệ đừng giấu ta, Mưu Thế Kiệt và biểu ca đệ bất hòa, chuyện là thế nào?”
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Cũng không có gì, chỉ bất quá là bọn họ chí hướng bất đồng, Mưu Thế Kiệt một lòng muốn làm Hoàng Đế, biểu ca đệ tối đa chỉ muốn làm hiệp đạo suốt đời”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Ta dường như nghe các người nói Mưu Thế Kiệt cùng đi với một nữ tử, chuyện này là sao?”
Đoàn Khắc Tà nghĩ bụng, “Sự đã như vậy, có lẽ nói với tỷ ấy vẫn tốt hơn”.
Lập tức chàng tránh ánh mắt của Niếp Ẩn Nương rồi thấp giọng nói:
“Đúng là có chuyện như vậy, người đồng hành cũng Mưu Thế Kiệt chính là đồ đệ của Tân Chỉ Cô”.
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Đồ đệ của Tân Chỉ Cô là ai?”
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Ả tên gọi Sử Triêu Anh, là con gái của Sử Tư Minh, em gái Sử Triêu Nghĩa”.
Niếp Ẩn Nương thoáng ngẩn người rồi nói:
“À, là người này, Khắc Tà, vị Sử cô nương này có phải là người đã đi cùng đệ một dạo, mà chúng ta đã gặp ở khách điếm đúng không”.
Đoàn Khắc Tà đỏ bừng mặt, chàng đáp:
“Không sai, đệ cũng cơ hồ xem trọng ả ta”.
Niếp Ẩn Nương nói:
“Đệ đã biết cô ta là con gái Sử Tư Minh, vì sao lại còn ở cùng một chỗ với cô ta?”
Đoàn Khắc Tà đáp:
“Chuyện này nói ra thật dài....”
Lập tức chàng mang tiền nhân hậu quả giản lược một lần nói ra, nói đến đoạn Sử Triêu Anh dùng độc dược ám hại Thiết Ma Lặc thì dừng. Niếp Ẩn Nương nói:
“À, ta đã minh bạch, Mưu Thế Kiệt muốn mượn tàn binh của ca ca cô ta”.
Trong lòng nàng thầm nghĩ, “May mà trong lúc khẩn yếu quan đầu, Mưu Thế Kiệt không cho yêu nữ kia độc chết Thiết Ma Lặc, xem như còn chưa táng tận thiên lương”.
Đoàn Khắc Tà vốn tưởng rằng Niếp Ẩn Nương sau khi nghe hết sự tình thì không biết sẽ thương tâm đau đớn đến nhường nào, chàng không khéo ăn nói, suốt dọc đường khổ công suy ngẫm, cũng chuẩn bị khá nhiều lời an ủi. Không ngờ Niếp Ẩn Nương lại lãnh đạm đến kỳ lạ như vậy. Phản ứng của nàng trong tưởng tượng của Đoàn Khắc Tà sẽ là mấy kiểu: than khóc đau thương, gào khóc dữ dội, phát cuồng, hay té xỉu nhưng đều không diễn ra. Niếp Ẩn Nương không hề lưu lệ, thậm chí một hơi thở than cũng không có, chỉ thấy nàng bặm chặt môi, ngoài ra sắc diện hoàn toàn bình thường, không sao có thể đoán dọ được bí mật trong nội tâm nàng. Nhưng trạng thái tỉnh táo xuất kỳ như vậy, lại như bầu trời đang ẩn chứa giông bão, một không khí nặng nề buồn bực, khiến kẻ khác mơ hồ cảm thấy bất an lẫn sợ hãi.
Bao nhiêu câu an ủi mà Đoàn Khắc Tà đã chuẩn bị sẵn đều không dùng được, chàng hoảng hốt hỏi:
“Niếp tỷ tỷ, tỷ, tỷ sao rồi?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Ta không sao, đa tạ đệ đã cho ta biết sự tình. Ờ, đệ nhìn, bọn họ đã đến rồi”.
Thiết Ma Lặc, Sử Nhược Mai mấy người lần lượt kéo đến, Thiết Ma Lặc nhìn thần sắc Niếp Ẩn Nương không có điểm gì khác lạ thì nghĩ bụng, “Nữ oa tử này thực sự cương cường, cũng khổ cho cô ta phải chịu sự đả kích như vậy”. Sử Nhược Mai cùng nàng thân thiết từ nhỏ, tâm ý tương thông, mới nhìn nhãn thần của nàng thì trong lòng không khỏi thầm đau thương. Nàng biết Niếp Ẩn Nương chỉ dùng nghị lực hơn người để tri trì bản thân, bề ngoài nàng kiên cường như vậy, nhưng thật sự đã ẩn chứa vô hạn trầm thống, “Tỷ ấy phải phát tác ra thì mới tốt. Phát tác ra rồi, ắt hẳn sau mưa trời lại sáng, hình ảnh của Mưu Thế Kiệt trong tâm khảm tỷ ấy sẽ nhạt đi. Bây giờ bộ dạng của tỷ ấy như thế này, lại khiến cho người khác lo lắng, chỉ sợ sẽ có sự tình phát sinh. Ôi, tỷ ấy đang suy nghĩ điều gì?”
Thiết Ma Lặc nói:
“Ngựa của các ngươi chạy thật nhanh, vừa rồi sắc trời không tốt, ta tưởng rằng sẽ có mưa. Bây giờ trời lại quang như vậy, chúng ta còn có thể đi một đoạn đường nữa”.
Niếp Ẩn Nương bảo:
“Vừa rồi là có một đám mây đen, may mắn là rất nhanh đã bay đi”.
Sử Nhược Mai lại nói:
“Muội lại mong có một trận mưa lớn, sau cơn mưa thì mới chân chính là trời quang. Bằng không mây đen mãi không tiêu, hôm nay không mưa, ngày mai cũng phải mưa”.
Đoàn Khắc Tà buồn bã, chàng cười nói:
“Khí trời cũng có nhiều thứ để bàn như vậy ư? Hôm nay trời mưa hay ngày mai trời mưa thì có gì khác nhau? Các người sợ trời mưa, chỉ có thể nhanh thượng lộ thôi”.
Sử Nhược Mai cũng cười:
“Đúng, huynh rất thông minh, chỉ có chạy về phía trước, cho dù có mưa thì phía trước cũng dễ dàng tìm được chỗ trú mưa”.
Niếp Ẩn Nương tựa hồ chỉ lo phóng ngựa, nàng phi hết mã lực, hướng phía trước lao đi như bay, Sử Nhược Mai mặc dù cùng nàng đi nhưng không có cơ hội cùng nàng nhỏ to tâm sự. Nàng nghĩ bụng, “Chờ đến đêm nay, bỏ một đêm không ngủ, mới có thể cùng tỷ ấy đàm luận có kết quả. Cho dù không thể khiến tỷ ấy di ái sang người khác thì cũng phải khuyên tỷ ấy sớm quên Mưu Thế Kiệt đi”.
Sáu thất mã đều là tuấn mã ngàn con tuyển một, trời chưa tối đã chạy xa Trường An một trăm năm chục dặm đến Bá Huyền. Chợt thấy tinh kỳ phấp phới, chiến mã hí vang, nguyên lai có một đại đội quan quân đang trú ngụ tại trấn này.
Thiết Ma Lặc nói:
“Thực sự không khéo, mới rời khỏi Trường An, lại đụng ngay quan quân. Để tránh phiền toái, chúng ta không cần tiến vào thành, vòng qua mà đi”.
Niếp Ẩn Nương đột nhiên thốt lên:
“Uy, chẳng lẽ là phụ thân ta ở đây!”
Thiết Ma Lặc theo hướng trỏ của nàng nhìn lại, chỉ thấy ở giữa một lá đại kỳ thêu một chữ “Niếp” lớn. Sử Nhược Mai ngạc nhiên:
“Niếp bá bá không phải chỉ mang mấy tùy tòng đến Trường An sao? Sao lại có nhiều quân như vậy?”
Niếp Ẩn Nương nói:
“Đại tướng trong triều, ngoài phụ thân ta ra không có người thứ hai họ Niếp. Phải đến xem đã”.
Niếp Ẩn Nương vừa mới vào trấn thì thấy hai viên quan quân đã đến nghênh tiếp, hướng Niếp Ẩn Nương chiêu hô, vui vẻ chào:
“Ai chà, Niếp công tử, quả nhiên là ngài! Sao ngài lại đến đây? Nhanh nhanh vào trong trướng gặp phụ thân ngài”.
Nguyên lai hai viên quan quân này chính là tùy tòng mà Niếp Phong mang từ nhà đi, bọn họ theo Niếp Phong nhiều năm, bình thường quen nhìn hình dáng Niếp Ẩn Nương khi cải dạng nam trang, cho nên mới nhìn là nhận ra liền, bọn họ cải xưng là “công tử” cũng là do Niếp Ẩn Nương luôn luôn dặn dò như vậy.
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Sao phụ thân ta lại mang đại đội nhân mã trú ngụ ở nơi này? Đám binh sĩ này, ta đều không biết một ai, tựa hồ không phải là binh lính nguyên bổn của chúng ta”.
Hai viên quan quân kia thưa:
“Công tử gặp phụ thân tự nhiên sẽ minh bạch”.
Dường như là có điều cố kỵ nên họ không dám tiết lộ quân cơ. Niếp Ẩn Nương nói:
“Mấy người này đều là bằng hữu của ta. Vị Sử công tử này các ngươi đã gặp rồi, còn nhận ra không?”
Hai viên quan quân kia lúc này mới nhận ra Sử Nhược Mai, liền cười chào hỏi:
“Nhận ra, nhận ra, Tiết tướng quân khỏe không?”
Bọn họ chỉ biết Sử Nhược Mai là con gái Tiết Tung, Tiết Tung là Lộ Châu tiết độ sứ, địa vị so với Niếp Phong còn cao hơn, bọn họ chỉ nghĩ Sử Nhược Mai sợ bại lộ thân phận nên mới cải tính danh. Sử Nhược Mai hàm hồ đáp:
“Khỏe. Niếp biểu bá nếu đã ở đây, Ta cũng muốn đến bái yết”.
Hai viên quan quân nói:
“Các vị đều là bằng hữu của công tử nhà tôi, vậy đều là người mình. Khách điếm nơi đây đều chật kín rồi, vậy thỉnh các vị đến trướng bồng nghỉ ngơi”.
Thiết Ma Lặc và Niếp Phong từng có một đoạn uyên nguyên, giao tình cũng chẳng tầm thường, chỉ là bây giờ thân phận bất đồng, cũng không khỏi có chút băn khoăn. Thế nhưng y tính tình hào sảng, ngẫm nghĩ giây lát: “Niếp Phong giống như Tần Tương, là người thập phần trọng nghĩa khí, giảng giao tình, ta nếu như tránh không gặp, chỉ e y sẽ trách. Xét thấy không ai biết ta, ta gặp rồi sẽ đi ngay, thiết nghĩ cũng không liên lụy đến y”.
Lập tức y nói với Đoàn Khắc Tà:
“Vị Niếp tướng quân này cũng là hảo hữu của phụ thân đệ khi sanh tiền. Chúng ta cùng đến gặp người”.
Chúng nhân bước vào doanh trướng, Niếp Phong sớm đã được bẩm báo, bước ra nghênh tiếp, vừa nhìn thấy Thiết, Đoàn hai người thì không khỏi giật mình kinh ngạc liền vội vàng cho tả hữu lui xuống, đưa bọn họ vào trong nội trướng, lúc đó mới nói:
“Thiết đại hiệp, ngọn gió nào đưa ngươi đến đây thế? Một lần cách biệt đã mười năm, ta nhớ ngươi đến khổ. Năm đó nhờ ngươi cùng với Đoàn đại hiệp cứu cả nhà già trẻ của ta, đại ân đại đức đó ta còn chưa cảm tạ ngươi”.
Thiết Ma Lặc nói:
“Năm đó, tại hạ đào vong đến Trường An, được tướng quân giúp đỡ nhiều, cũng chưa từng cảm tạ người, đối xử chân thành với nhau, những lời khách sáo bất tất phải nói đến”.
Niếp Phong nói:
“Các ngươi từ Trường An đến phải không? Tiểu nữ sao lại đi cùng các ngươi?”
Thiết Ma Lặc đáp:
“Nói ra thật dài, trước tiên ta giới thiệu với tướng quân hai vị thiếu niên anh hùng, chắc ngài sẽ vui mừng, đây là...”
Niếp Phong cười bảo:
“Đoàn thế huynh, cung hỉ, cung hỉ. Thấy ngươi và Sử cô nương ở một chỗ, ta cũng có thể cáo úy với cố nhân được rồi”.
Thiết Ma Lặc kinh ngạc hỏi:
“Nguyên lai hai người đã sớm quen biết rồi sao?”
Niếp Phong cười đáp:
“Chẳng những quen biết, ta cùng Đoàn thế huynh còn giao thủ qua nữa”.
Đoàn Khắc Tà nói:
“Đa tạ Niếp bá bá kiếm hạ lưu tình, âm thầm trợ giúp thành toàn mỹ ý”.
Nguyên lai khi Sử Nhược Mai còn là Tiết Hồng Tuyến, Tiết Tung muốn mang nàng gả cho nhi tử của Điền Thừa Tự, Đoàn Khắc Tà cướp sính lễ của Điền gia, rồi lại đến Ngụy Bác tiết độ phủ ký đao lưu giản, bị thống lĩnh Ngoại Trạch Nam của Điền Thừa Tự là Khấu Danh Dương và Dương Mục Lao vây khốn, cơ hồ không thể thoát thân, may mắn lúc đó Niếp Phong cũng đang ở Điền phủ, liền bước ra vờ giúp Điền phủ bắt tặc, ngầm dùng xảo kế, giúp đỡ Đoàn Khắc Tà thoát khỏi địch nhân.
Nhắc đến chuyện trước, Niếp Phong ha hả cười lớn rồi nói:
“Đoàn thế huynh, Sử hiền điệt, nói ra ta và hai nhà các ngươi đều có giao tình. Chuyện của hai đứa nhỏ các ngươi, Lư phu nhân sanh tiền đã từng đề cập qua với ta, ta tuy thụ mệnh thác cô, nhưng lại chưa vì các ngươi tận sức. May mắn các ngươi đều đã tự lập, cũng thành nhân duyên mỹ mãn, không cần người khác phải lo lắng nữa”.
Lư phu nhân mà Niếp Phong nói đến chính là mẫu thân của Sử Nhược Mai, năm đó khi bà làm vú nuôi trong nhà Tiết Tung cũng từng được Niếp Phong chiếu cố. Đoàn, Sử hai người lại lần nữa cảm tạ ân nghĩa của Niếp Phong, Sử Nhược Mai nhớ đến thân thế bi thảm của mình thì không khỏi buồn bã.
Niếp Phong nói:
“Các ngươi chịu đủ giày vò, bây giờ đúng là khổ tận cam lai, cũng bất tất phải thương tâm hơn nữa. Còn vị thiếu niên anh hùng này là....”
Niếp Ẩn Nương trả lời:
“Vị này là Phương sư đệ của con, y là điệt nhi của sư phụ con. Sau khi phụ thân tiến kinh, Mai muội và Phương sư đệ vừa khéo cùng đến nhà chúng ta trong một ngày. Sau đó con lại cùng bọn họ đồng hành đến Trường An”.
Niếp Phong hỏi:
“Con đến Trường An à? Vì sao không đến gặp cha? Các ngươi đến khi nào?”
Niếp Ẩn Nương đáp:
“Bọn con đến hôm kia, cha đã rời kinh rồi. Bọn con chỉ biết cha quay lại Lộ Châu, không ngờ cha vẫn còn ở đây”.
Niếp Phong nói:
“Triều đình lệnh cho ta thống xuất một cánh quân, tiến đến U Châu, phải đợi xong việc ở U Châu mới quay về Lộ Châu nguyên chức”.
Niếp Ẩn Nương hỏi:
“Đến U Châu làm gì?”
Niếp Phong nhất thời trầm ngâm chưa đáp, Thiết Ma Lặc nói:
“Quân cơ đại sự, bất tất phải nói đến”.
Niếp Phong cười bảo:
“Đều không phải là người ngoài, nói cũng chẳng sao. Ta phụng mệnh đến U Châu chính là để thảo phạt Sử Triêu Nghĩa”.
Đúng là:
Tướng quân thảo tặc tầm thường sự
Luyến ái thương tình lệ lại thêm.
Truyện hot hiện nay
Bình luận
Sắp xếp