Lễ Diễu Hành Phục Sinh (The Easter Parada)
Chương 7
Khi cô tìm thấy công tắc, căn hộ hiện lên quanh cô, nhưng cô không nhận ra nó. Cô cũng không nhận ra được người đàn ông. Anh ta đang quay mặt đi nhưng cô có thể nhìn thấy hình dáng của anh ta; cô nhìn rất cẩn thận như thể cô đang vẽ một bức tranh đồ hoạ từ cuộc sống; nhưng nó chẳng có nghĩa gì cả. Những đồ vật duy nhất trong phòng là quần áo của cô, được vắt qua lưng của chiếc ghế tựa bằng vải nhung kẻ trong khi quần áo, giầy và đồ lót của người đàn ông vương vãi trên sàn. Cái từ “nhớp nhúa” hiện lên trong đầu cô; thật là nhớp nhúa.
Cô mặc quần áo thật nhanh và tìm thấy buồng tắm, và trong lúc chải đầu trước gương cô nhận ra rằng việc ra khỏi đây ngay hoàn toàn không phải là thiết yếu; còn có một sự lựa chọn khác. Cô có thể tắm nước nóng và đi vào bếp, pha cà phê và đợi anh ta tỉnh dậy; cô có thể chào anh ta bằng một nụ cười dễ chịu buổi sáng - một nụ cười khá dè dặt và thạo đời - và khi họ nói chuyện cô có thể chắc rằng cô sẽ nhớ mọi thứ mà cô cần phải nhớ: anh ta là ai, họ đã gặp nhau như thế nào, tối qua cô đã ở đâu. Tất cả mọi thứ sẽ được tái hiện lại, và rất có thể cô sẽ dễ dàng quyết định là cô thích anh ta. Anh ta có thể làm một ly Bloody Marys để xoá bỏ đi tàn tích của họ, và đưa cô đi ăn sáng, và cũng có thể sẽ là...
Nhưng đó là sự mách bảo của sự vô trách nhiệm, bừa bãi, bẩn thỉu, và cô nhanh chóng chống lại sự mách bảo đó. Quay trở lại phòng chỗ anh ta ngủ, cô dựng cái bàn khẳng khiu đã bị đổ với đống chai và ly. Cô tìm thấy một tờ giấy và viết một lời ghi chú cho anh ta, và cô để nó trên bàn:
Hãy cẩn thận: Cốc vỡ trên sàn.
E.
Rồi cô tự ra khỏi căn hộ và tự do. Phải ra đến phố cô mới có cảm giác là hoàn toàn được tự do - hoá ra là phố Morton, gần Đại lộ thứ Bảy - rằng cô cảm thấy nặng nề do việc uống thứ rượu không quen mà cô đã uống tối qua. Mặt trời tán công cô, chiếu những ánh nắng chói lọi và đầu; cô cũng chỉ kịp nhìn và bàn tay run lên khi mờ cửa xe taxi. Nhưng trên đường về nhà, luồng gió nóng lùa vào cửa xe làm cô cảm thấy khá hơn. Đó là ngày thứ bảy - sao cô có thể chắc được hôm nay là thứ bảy khi cô đã hoàn toàn quên hết mọi việc? - và nó đã cho hai ngày trọn vẹn để hồi phục lại sức khoẻ trước khi cô phải quay lại với công việc.
Đó là mùa hè năm 1961, và cô đã ba mươi sáu tuổi.
Ngay sau khi trở về từ Iwoa cô là một người viết bài quảng cáo cho một công ty quảng cáo nhỏ, và trở thành một gì đó như người được bảo trợ đối với người sếp của cô. Đó là một công việc tốt, mặc dầu cô nên viết báo thì hơn, và điều hay nhất của công việc này là cô có thể sống ở một căn hộ rộng rãi, cao gần Công viên Gramercy.
“Chào buổi sáng, cô Grimes,” Frank nói khi ngồi ở bàn. Không một sự thể hiện nào trên nét mặt của anh ta nói lên điều anh ta đã phỏng đoán về việc cô đã có một buổi tối như thế nào, nhưng cô cũng không chắc là khi cô đi qua sảnh với sự chịu đựng một cái giọng châm biếm khác thường thì liệu anh ta có nhìn theo cô không.
Giấy dán tường của hành lang được trang trí theo thiết kế vàng-trên-xám của những chú ngựa cuồng; cô đã đi qua nơi đây hàng trăm lần mà không có một lần nào thèm liếc nhìn qua kiểu trang trí này, nhưng giờ thì điều đầu tiên cô nhìn thấy khi ra khỏi thang máy là ai đó đã vẽ bút chì một cái dương v*t thật đậm và dài, thò ra giữa một trong những cái chân sau của ngựa, với những hòn tinh hoàn to treo lủng lẳng dưới dương v*t. Sự thôi thúc đầu tiên của cô là tìm một cái xoá bút chì và lau thật sạch, nhưng cô biết rằng việc cô làm cũng chẳng giải quyết được gì: chỉ có thể sạch hoàn toàn khi thay bằng một tờ giấy dán tường mới.
Một mình và an toàn đằng sau cánh cửa đã được khoá, cô thoải mái khi nhìn thấy mọi thứ trong nhà mình đều sạch sẽ. Cô dành hẳn một nửa giờ cho việc xát xà phòng và kì cọ thân thể mình dưới vòi hoa sen, và trong lúc đó cô bắt đầu nhớ lại những việc đã xảy ra đêm qua. Cô đã đến một căn hộ của một đôi vợ chồng cô vừa mới biết, ở Đại lộ East Sixties (miền Đông thứ Sáu mươi), và thế là hoá ra lại là một bữa tiệc ồn ào, với quy mô lớn hơn cô tưởng - và điều đó chính là nguyên nhân gây ra sự lo lắng làm cho cô uống quá nhanh. Cô nhắm mắt lại dưới vòi nước nóng như đang trút xuống và gợi lại một biển người cười và nói gồm toàn những khuôn mặt xa lạ hiện lên thật đông đúc: một người đàn ông hói chếnh choáng nói rằng toàn bộ ý kiến lố bịch về Kenedy với vị trí Tổng thống chỉ là một sự chiến thắng của tiền bạc và làm quảng bá; một thanh niên bảnh bao, mảnh khảnh trong bộ vét đắt tiền nói ‘Tôi hiểu chị cũng chỉ trong cùng trò chơi quảng cáo này thôi”; và người, mà chắc là cô đã ngủ cùng, với giọng tha thiết đã nói chuyện với cô dường như hàng giờ vậy và với khuôn mặt có lông mày rậm và chất phác rất giống như khuôn mặt mà cô đã nghiền ngẫm sáng nay. Nhưng cô không thể nhớ được tên của anh ta. Ned à? Ted à? Hình như là như thế.
Cô mặc quần áo sạch, và tiện dụng và uống cà phê - thật ra cô muốn uống bia nhưng lại sợ không mở ra - và vừa mới bắt đầu nhâm nhi cảm giác cuộc sống của mình đang quay trở lại độ vững chắc thì chuông điện thoại reo. Chắc hẳn anh ta đã thức giấc; chắc hẳn anh ta đã rên rỉ suốt lúc tắm rửa buổi sáng và bù khú với một vại bia; chắc hẳn anh ta đã tìm thấy số điện thoại mà có thể là cô đã để lại và chuẩn bị một lời chào khá lịch sự dành cho cô, một sự pha trộn của sự thứ lỗi và ham muốn lại bị đánh thức. Giờ thì chắc hẳn anh ta sẽ mời cô đi ăn sáng, hay là ăn trưa, và cô sẽ phải chuẩn bị quyết định nói gì. Cô cắn môi và để cho điện thoại rung bốn hồi trước khi cô nhấc máy. “Emmy đấy à?” Đó là giọng của Sarah, chị cô, và nghe có vẻ giống như giọng một đứa trẻ ngượng nghịu, lo lắng. “Em này, chị gọi về chuyện của Pookie, chị sợ đó là một tin tồi tệ”
“Mẹ chết rồi á?”
“Không; nhưng mẹ rất - hãy để chị được nói từ đầu nhé? Chị không gặp mẹ khoảng bốn hay năm ngày gì đó, điều này thật ra là kỳ lạ vì mẹ thường - em biết đấy - hay đến đây, vì thế sáng nay chị bảo Eric đến chỗ phòng garage để xem mẹ thế nào, và cu cậu chạy về và nói “Mẹ, mẹ nên đến chỗ đó đi.” Mẹ nằm trên sàn không mặc quần áo, và lúc đầu chị nghĩ rằng mẹ đã chết: thậm chí chị không thể chắc rằng liệu mẹ có còn thở hay không, nhưng chị chắc rằng chị cảm nhận thấy nhịp mạch yếu ớt. Và một điều khác nữa: mẹ đã - chị có thể nói thẳng vào vấn đề được không?”
“Ý chị là mẹ đã moi ruột?”
“Đúng thế.”
“Nhưng, Sarah, người ta chỉ làm như thế khi họ...”
“Chị biết, nhưng vẫn còn mạch. Dù sao thì, vận may chỉ có thế vì bác sĩ của gia đình chị đi nghỉ, và làm thay là một gã bác sĩ trẻ thô lỗ mà chị chưa từng gặp trước đó; hắn ta khám mẹ và nói mẹ vẫn còn sống nhưng đang hôn mê, và hắn ta hỏi chị mẹ bao nhiêu tuổi và chị đã không trả lời được - em biết đấy Pookie luôn tỏ thái độ như thế nào khi nói về tuổi của mình - và hắn ta nhìn quanh và thấy toàn là những chai uýtki trỗng rỗng và hắn ta nói “Bà Wilson, không ai có thể sống mãi.”
“Mẹ đang ở bệnh viện à?”
“Vẫn chưa. Hắn ta nói hắn ta sẽ thu xếp những sẽ phải chờ. Hắn ta nói chúng ta có thể chờ xe cứu thương đến vào một lúc nào đó chiều nay.”
Xe cứu thương vẫn chưa đến khi mà Emily nhẹ nhõm bước ra khỏi con tàu ngột ngạt ở St.Charles, nơi mà Sarah đón cô trong chiếc Plymouth dùng chung với con trai, “ôi, chị mừng lắm khi em ở đây, Emmy,” cô chị nói. “Chị cảm thấy mọi việc đã khá hơn.” Và lái xe rất chậm chạp, lúng túng giữa việc sang số và chân côn như thể cô chị chưa thật sự bao giờ điều khiển được chúng thông thạo, cô chị bắt đầu đưa cô em về nhà.
“Thật là hài hước,” Emily nói khi họ đi qua một trung tâm thương mại khổng lồ màu hồng-và-trắng. “Khi lần đầu tiên em đặt chân đến đây mới chỉ là một vùng quê rộng rãi thoáng đạt.”
“Cuộc sống thay đổi mà em,” Sarah nói. Nhưng không có gì thay đổi ở chốn của Wilson già nua, ngoại trừ những lùm cỏ dại cao ngút che khuất cái biển GREAT HEDGES bé nhỏ. Chiếc ô tô đời Thunderbird màu hạt dẻ của Tony nằm sáng chói trên lối vào nhà. Anh tự mua cho mình xe mới cứ hai năm một lần, và không một ai được phép sử dụng nó; có lần Sarah đã giải thích rằng đó là hành động ngông cuồng duy nhất của anh. “Tony ở nhà ạ?” Emily hỏi.
“Không; anh ấy đi câu cá cả ngày với một vài người bạn đến từ Magnum. Thậm chí anh ấy chưa biết một chút gì về việc này.” Rồi, sau khi cô đỗ xe cách chiếc Thunderbird ở một khoảng cách cần thiết và bước ra khỏi xe đứng nhăn mặt với chìa khoá xe trong tay, cô nói “Này em, Emmy, chị biết rằng chắc hẳn em đang đói lắm nhưng chúng ta nên đến chỗ Pookie trước đã nhé. Ý chị là chị không muốn để mẹ nằm như thế ở đó, được không em?”
“Vâng, đương nhiên rồi,” Emily nói. “Vâng, đương nhiên rồi.” Và họ bước trên sỏi lạo xạo đến một cái lều “garage” được mặt trời hun nóng, nơi không gian thật quá chật hẹp để có thể đỗ được những chiếc ô tô đắt tiền. Emily đã đến thăm mẹ nhiều lần ở căn hộ trên gác - lắng nghe mẹ nói hàng giờ dưới cái trần gỗ ép quá thấp, nhìn chằm chằm vào những bức ảnh của chính cô và Sarah khi còn bé được treo trên tường gỗ ép bẩn thỉu, chờ đợi cơ hội có thể thoát ngay từ lúc đầu - nhưng không một cảnh tượng nào như vậy làm cho cô liên tưởng được đến những gì mà giờ cô đang nhìn thấy ở trên nóc của những bậc thang ọp ẹp.
Một bà già trần truồng nằm sấp, như thể bà ta bị vướng chân vào thảm và ngã về đằng trước. Một chỗ chỉ toàn hơi nóng, hơi nóng mà không thể chịu đựng nổi - có thể mẹ đã bị ngộp chỉ vì hơi nóng - và với những chai uỷtki thì quả đúng là như vậy: có sáu hay tám chai gì đó ở quanh phòng, tất cả đều là các chai hiệu “Bellows Partners’ Choice”(1) và tất cả đều hết nhẵn. (Liệu mẹ có cảm thấy ngượng khi tống tất cả những chai rượu này vào thùng rác để bọn trẻ đi đổ không nhỉ?) “Các con, mẹ thật sự xin lỗi về điều này,” bà dường như muốn nói như vậy. “Chẳng phải chúng ta không thay đổi được gì hay sao?”
“Em có nghĩ là chúng ta nên đưa mẹ lên giường?” Sarah hỏi. “Để khi mà xe cứu thương đến?”
“Đúng đấy.”
Trước tiên họ dọn phòng ngủ. Những cái ga trải giường lộn xộn trông như thể đã hàng tuần nay rồi chúng không được thay, và Sarah không thể tìm thấy một cái ga sạch nào, nhưng họ làm tốt nhất có thể để dọn giường trông cho được mắt; rồi họ quay lại để bế bà lên. Rồi đến lúc cả hai bọn họ đều toát hết mồ hôi và thở dốc.
Cúi mình xuống, họ dễ dàng lật ngửa bà lên. Emily xốc nách bà và Sarah ôm gối bà, và họ nhấc bà lên. Bà nhỏ người nhưng rất nặng.
“Hãy cẩn thận khi đi qua khung cửa,” Sarah nói, “nó hẹp đấy.”
Họ đặt bà lên giường và cho bà nằm thẳng trong khi Sarah chải cái mớ tóc thưa thớt của bà bằng lược.
“Không sao đâu, con yêu,” bà dường như muốn nói khi cái đầu của bà gục xuống dưới cái lược. “Mẹ có thể làm việc đó sau. Chỉ cần mặc quần áo cho mẹ thôi. Mặc quần áo cho mẹ đi.”
“Thế đấy,” Sarah nói. “Khá hơn rồi đấy. Nào, bây giờ thì, nếu em có thể xoay được mẹ, chị sẽ nâng chân mẹ lên và chúng ta sẽ - đấy, dễ thôi mà, đấy, dễ thôi mà...
Bà đang nằm ngửa với đầu để trên gối, và những cô con gái của bà lùi lại nhìn cái thân thể già nua xấu xí với một cảm giác thư giãn và hoàn thành xong nghĩa vụ. “Em biết không?” Sarah nói với vẻ rạng ngời. “Khi chị bằng tuổi mẹ, chắc hẳn chị sẽ xuống cân để có một thân hình thon thả như thế kia.”
“Mm, mẹ có áo ngủ hay đồ gì khác không nhỉ?”
“Chị không biết. Hãy xem nào.”
Tất cả những gì họ tìm thấy là một chiếc áo choàng mùa hè vẫn còn sạch. Tựa vào nhau, họ luồn một ống tay áo vào cánh tay mềm mại và lèn chặt cái váy mỏng xuống dưới lưng bà để mặc được nốt cái ống tay còn lại; rồi cuối cùng thì cái áo choàng cũng được cài khuy và thít nơ, và mẹ họ cũng đã được mặc đồ, và họ kéo phần trên của tấm ga đắp lên má bà.
“Thế đấy, thật đúng là không dễ dàng gì,” Sarah nói khi họ quay trờ lại phòng khách để thu dọn những cái chai uýtki. “Thật không dễ dàng gì khi có mẹ ở đây trong suốt thời gian qua... thế nào nhỉ, bốn năm rồi đấy?”
“Em biết mà.”
“Ý chị là hãy xem nơi này này.” Cầm trong tay ba hay bốn chai rượu, cô dùng tay kia để làm điệu bộ diễn tả quanh căn hộ. Mọi thứ trong tầm nhìn đều ngập trong dơ bẩn. Những cái gạt tàn được chất đống chan chứa với những mẩu thuốc lá ngắn còn lại. “Ra đây mà xem này.” Cô kéo Emily vào trong phòng tắm và chỉ vào cái bệ xí, toàn một màu nâu cả trên và dưới bề mặt nước, “ôi, giá như mẹ vẫn sống ở thành phố nhỉ,” Sarah nói, “có việc để làm và có thể gặp gỡ được mọi người. Vì mọi công việc ở đó không giống như bát cứ việc gì mà mẹ đang làm ở đây. Mẹ luôn sang nhà, và mẹ không thèm xem ti vi; và mẹ cũng không để cho mọi người xem ti vi; mẹ nói và nói và nói cho đến khi Tony gần như mất hết bình tĩnh, và mẹ... me...”
“Em biết mà, chị” Emily nói.
Họ đi xuống gác... không khí trong lành thật dễ chịu, thậm chí cả trong cái nóng nữa... và mang đầy ôm tay với những chai uýtky đến cửa phòng bếp của nhà chính, nơi họ tống chúng thật sâu vào một cái sọt rác có những con ruồi đang bò ra.
“Em có biết chị nghĩ gì không?” Sarah nói khi họ ngồi mệt lử ở bàn ăn. “Chị nghĩ là cả hai chị em mình đều xứng đáng được hưởng một ly.”
Xe cứu thương đến vào lúc giữa chiều... bốn thanh niên hoạt bát nhanh nhẹn trong bộ đồ trắng bóng dường như thích thú với công việc của họ. Họ cột bà già vào trong một cái cáng, đưa bà xuống thang với cử chỉ khéo léo mau lẹ, tống bà vào trong xe và đóng sầm cửa lại và đi mất.
Tối hôm đó Sarah đưa Emily đến bệnh viện, nơi có một bác sĩ trông thật mệt mỏi giải thích về bản chất của việc xuất huyết não. Mẹ của họ có thể sẽ ra đi trong một vài ngày tới, anh ta nói, hoặc có thể mẹ của họ sẽ sống trong rất nhiều năm với tình trạng não bị tổn thương trầm trọng. Với trường hợp sau, mẹ có thể phải đưa vào sống điều dưỡng.
“... Và đương nhiên sống ở trạng thái điều dưỡng là sẽ mất chi phí,” Sarah nói khi họ chầm chậm lái xe về nhà, đi qua những vùng ngoại ô mới sạch sẽ, “và chúng ta không hề có một đồng nào.”
HÃY ĂN ĐÃ, một cái biển điện tử lớn ở ngay đằng trước ghi hàng chữ; dưới hàng chữ đó, với chữ thường, là từ COCKTAILS, và Sarah lái chiếc xe Plymouth già nua vào sân đỗ.
“Chị chưa cảm thấy muốn về nhà,” cô nói, “em có muốn không?” Khi họ ổn định trong một cái phòng tốt bên trong cô nói “Chị thật sự cần điều hoà hơn là muốn uống; chẳng phải là hay hơn hay sao?”
Rồi cô nâng cốc chúc mừng và đột nhiên trông cô thật trẻ, và nói “Hãy vì sự phục hồi hoàn toàn của Pookie.”
“Thật ra,” Emily nói, “em không nghĩ chúng ta nên tính toán về bất kỳ điều gì như thế này, Sarah. Bác sĩ nói...”
“Chị hiểu những gì ông ta nói,” cô vật nài, “nhưng chị cũng hiểu Pookie. Mẹ là một người phụ nữ khác thường. Mẹ thật cứng rắn. Chị cá là mẹ sẽ thoát ra được khỏi tình trạng này. Hãy đợi xem nhé.”
Không có gì để tranh luận; Emily đồng ý chờ đợi. Trong khoảnh khắc không có một lời nào cả, và Emily dùng sự im lặng giải quyết sự hoang mang và phiền muộn theo cách mà cô đã thức dậy vào sáng nay. Ned? Hay Ted nhỉ? Liệu cô có thể luận ra được điều gì không nhỉ? Liệu cô đã rơi vào tình trạng hoa mắt giống như người say thường hay gặp phải không nhỉ?
Khi cô lại tập trung vào khuôn mặt của chị cô, nó rực sáng với cách kể chuyện đầy tự hào về Peter đang sắp bắt đầu vào đại học trong mùa thu này, với quan điểm trường đại học chỉ như một sự chuẩn bị cần thiết để được chấp nhận vào Trường dòng Tổng Thần học.
“... Trong suốt những năm này, và tham vọng của cu cậu không hề bị lung lay đến một lần. Đó là điều cu cậu muốn làm, và cu cậu sẽ thực hiện điều mơ ước đó. Cu cậu là một cậu bé kiệt xuất.”
“Mm. Thế còn Tony Junior thì sao? Cu cậu đã phải tốt nghiệp trung học rồi chứ.”
“Đúng rồi; ngoại trừ việc cu cậu đã không tốt nghiệp.”
“Ôi, ý chị là điểm số của cu cậu không tốt à?”
“Đúng thế. Thật ra cu cậu đã có thể tốt nghiệp, nhưng thực ra cu cậu đã dành cả năm trời chạy quanh vào việc... chị chưa nói với em về điều này à?”
“Về một cô gái à, ý chị là?”
“Cô ta không phải là một cô gái, đó mới là vấn đề chính. Cô ta đã ba mươi nhăm tuổi. Cô ta đã bỏ chồng và rất giàu và cô ta đã huỷ hoại con. Huỷ hoại con. Chị thậm chí còn không thể nói chuyện được với con nữa, và bố nó cũng vậy. Thậm chí Peter cũng không thể nói chuyện được với anh mình.”
“Ôi, thật là,” Emily nói, “rất nhiều cu cậu bây giờ phải trải qua những việc như vậy. Em nghĩ rằng con sẽ ổn thôi. Có thể đấy lại là một điều tốt với con, nếu tính về dài hạn.”
“Đó là những gì mà bố nó nói.” Sarah trông thật trầm ngâm với cái cốc của mình. “Và Eric... thật ra, Eric cũng giống như Tony Junior. Cùng một giuộc với bố chúng, chị nghĩ thế. Chưa từng bao giờ là sinh viên; tất cả những điều anh ta quan tâm chỉ là ô tô.”
“Chị đã - hoàn thành tác phẩm của mình chưa, Sarah?”
“Chưa, chưa thật sự. Không nhiều thì ít chị cũng đã từ bỏ những bản phác thảo truyện hài về cuộc sống-gia đình. Chị đã viết đến bốn chương, nhưng Tony nói nó chẳng hài hước chút nào. Anh ta nói chúng cũng khá - nó được viết cẩn thận, những chi tiết cũng khá, hãy nuôi dưỡng niềm đam mê và tất cả là... nhưng anh ta nói chúng chẳng hài hước chút nào. Có thể vì chị cố gắng quá.”
“Liệu một lúc nào đó em có thể đọc chúng được không?”
“Đương nhiên rồi, nếu em muốn. Cũng có thể chính em cũng nghĩ nó cũng không hề hài hước. Chị không biết nữa. Viết truyện hài thật khó hơn - em biết đấy - viết những vấn đề nghiêm túc. Dù sao, thì với chị là nó cũng khó hơn.”
Và dòng suy tưởng của Emily lại tiếp tục, nghĩ về những vấn đề của riêng cô; cô quay trở lại với thực tế chỉ khi cô nhận ra Sarah bắt đầu đưa câu chuyện vào vấn đề tiền bạc.
“Và em có biết tiền lương thực cầm về mà Tony được Magnum trả là bao nhiêu không?” cô vẫn đang nói. “Gượm đã, để chị nói với em,” Cô lục ví của mình. “Đây là cuống séc của đợt trả lương đợt trước của anh ta. Em xem này.”
Emily không mong chờ là nó sẽ có nhiều, nhưng thậm chí với sự xác định như vậy cũng vẫn làm cho cô bị ngạc nhiên: cuốn séc có ít hơn cả tiền của cô được trả lương ở công ty quảng cáo.
“Và anh ta đã làm ở đó được hai mươi-mốt năm,” Sarah nói. “Em có thể tưởng tượng nổi? Đó là một thứ ngu xuẩn già nua của bằng cấp đại học, em thấy đấy. Tất cả những người cùng tuổi với anh ta với bằng kỹ sư giờ đã ở vị trí lãnh đạo cấp cao rồi. Dĩ nhiên, Tony cũng có một vị trí được làm giám sát, nhưng nó thấp hơn nhiều trong... em biết đấy... trong cơ quan. Thu nhập duy nhất khác nữa của bọn chị là từ việc cho thuê cái lều, và phần lớn số tiền đó dùng vào việc tu sửa. Và em có biết bọn chị phải trả bao nhiêu tiền thuế không?”
“Em đoán là Geoffrey đã giúp đỡ gì chứ.”
“Tiền lương của Geoffrey còn ít hơn cả của bọn chị, em yêu ơi. Cái văn phòng nhập khẩu bé nhỏ chỉ vừa đủ để họ trả được tiền thuê nhà ở thành phố, và Edna đang bị ốm rất nặng.”
“Vậy là không có - thừa kế hay gì đó tương tự như vậy sao?”
“Thừa kế á? ồ, không. Không bao giờ có chuyện như vậy.”
“Vậy, Sarah, làm sao mà chị có thể quán xuyến được mọi việc?”
“Thế mà bọn chị vẫn phải thu xếp thôi. Chỉ vừa đủ, nhưng bọn chị vẫn phải xoay xở được. Vào đầu tháng chị phải ngồi ở bàn ăn - và chị cũng bắt bọn trẻ phải ngồi lại với chị, ít nhất là chị đã bắt đầu làm điều đó khi chúng còn bé hơn; sẽ tốt cho chúng khi chúng biết cách quản lý tiền - và chị cũng chia mọi thứ theo tài khoản. Trước tiên và trên hết là tài khoản G.H. Tài khoản đó bao gồm “G.H?”
“Great Hedge,” Sarah nói.
“Tại sao chị lại gọi nơi này như vậy?”
“ý em là gì? Nó vẫn thường được gọi như vậy mà...”
“Chị ơi, Pookie đã đặt ra cái tên đó. Em đã ở đó khi mẹ nghĩ ra cái tên đó mà.”
“Mẹ đặt tên cho nó á?” Và Sarah trông thật sững sờ đến nỗi Emily hối tiếc là đã nói ra điều đó. Cả hai bọn họ đều tìm đến ly rượu.
“Nghe này, Sarah,” Emily bắt đầu. “Có thể đó không phải là chuyện của em, nhưng tại sao Tony và chị không bán nơi này đi? Ngôi nhà thì sẽ chẳng có giá trị gì, nhưng còn đất thì. Chị có đến bốn mẫu ở một trong những nơi phát triển nhanh nhất của Long Island. Chị có thể đã có Sarah lắc đầu. “Không, không, điều đó nằm ngoài khả năng. Bọn chị không thể làm thế; nó thật là không công bằng với bọn trẻ. Chúng yêu nơi này, em thấy đấy. Hãy nhớ lại xem thật là kinh khủng biết bao khi bọn chị đã phải ở một nơi chật chội. Không bao giờ có một...”
“Nhưng bọn trẻ đang lớn lên,” Emily nói, và rượu bắt đầu phát tán trong cô: cô nói sắc sảo hơn ý mà cô muốn nói. “Chẳng bao lâu chúng sẽ dời xa nơi đó. Chẳng phải đã đến lúc chị và Tony phải nghĩ đến bản thân mình rồi hay sao? vấn đề là chị có thể có được một ngôi nhà hiện đại, tiện nghi và tốt chỉ với giá một nửa so với những gì mà chị đang sử dụng.”
“Đó lại là một vấn đề khác,” Sarah nói. “Thậm chí nếu nó không phải dành cho bọn trẻ, chị cũng không thể tưởng tượng nổi chị và Tony ở trong cái gì đó mô phạm...”
“Mô phạm?”
“Em biết đáy, vài ba cái nhà nhỏ thông thường giống nhau như đúc.”
“Đó không phải nghĩa của từ “mô phạm”
“Không phải thế à? Chị nghĩ nó có nghĩa là thông thường. Dù sao, chị không thấy là bọn chị có thể làm một điều gì đó tương tự như vậy.”
“Tại sao không?”
Và cuộc tranh luận kéo dài đến một nửa giờ, nói đi nói lại cùng một nguyên do, cho đến khi cuối cùng, khi họ quay trở lại chiếc xe ô tô, đột nhiên Sarah nói. “à, mà em đúng đấy, Emmy,” cô nói. “Thật là tốt cho bọn chị nếu bán đi khu đất. Cũng tốt cho bọn trẻ nữa. Đó là một cú nhảy đấy.”
“Có nghĩa là gì?”
“Em chưa từng bao giờ thuyết phục Tony mà.”
Khi quay về nhà họ bước qua cái sọt rác bốc mùi nhà bếp, đi qua phòng ăn, đi qua phòng khách cọt kẹt bốc mùi - nơi mà Emily luôn mong tìm thấy Edna già nua thu mình lại và cười trên ghế sofa - và với những gì mà Sarah gọi là phòng xép - nơi mà Tony và Peter thường hay xem ti vi ở đó.
“Con chào dì Emmy,” Peter nói giọng đầy chất nam tính, cuối xuống chân mình.
Tony đứng dậy chậm chạp, như thể bất đắc dĩ phải dời khỏi màn hình, và tiến về phía trước với một lon bia trong tay. Anh vẫn mặc bộ đồ đi đánh cá, lốm đốm những miếng mồi bẩn dính vào, và khuôn mặt anh rạng ngời vì sạm nắng, “ý anh là,” anh nói. “Anh rất xin lỗi về chuyện của Pookie.”
Peter tắt tiếng tivi oang oang và Sarah nói với họ đầy đủ về những gì bác sĩ nói, kết thúc bằng sự tự dự đoán bất chấp thực tế: “Chắc chắn rằng mẹ sẽ tỉnh lại.”
“Mm,” Tony nói.
Hàng giờ liền đêm đó - một lúc lâu sau khi Tony và Peter đã đi ngủ, một lúc lâu sau khi Eric và thậm chí Tony Junior rũ xuống miệng lẩm bẩm chào dì của chúng và lẩm bẩm thể hiện sự thương cảm cho việc của bà - chị em nhà Grimes vẫn ngồi đó nói chuyện và uống rượu. Họ bắt đầu nói chuyện ở phòng xép và sau đó chuyển vào phòng khách, nơi mà Sarah nói là ở đó mát hơn. ở đó, Emily ngồi bắt chéo chân trên sàn, để có thể dễ dàng với được rượu trên bàn cà phê, và Sarah ngập chìm trong ghế sofa.
“... Và chị sẽ không bao giờ quên được Tenafly,” Sarah nói. “Em có còn nhớ khi chúng ta sống ở Tenafly không? ở trong một cái nhà trát bằng xtucô với phòng tắm ở tầng trệt ý?”
“Đương nhiên là em nhớ chứ.”
“Lúc đó chị chín tuổi còn em chắc là năm tuổi; đó là nơi đầu tiên chúng ta sống sau khi bố mẹ ly dị. Dù sao, bố cũng đã đến đó thăm chúng ta một lần, và sau khi em đi ngủ, bố đưa chị đi tản bộ. Bố và chị đi vào một hiệu thuốc và ăn soda kem đen- và-trắng. Và trên đường về nhà - chị vẫn nhớ con phố đó, cái khúc đường vòng - trên đường về nhà bố nói “Con yêu, bố có điều này muốn hỏi con?” Rồi bố hỏi “Con yêu ai hơn, bố hay mẹ?”
“Trời đất. Bố thật sự đã hỏi như vậy ư? Thế chị đã trả lời như thế nào?”
“Chị đã nói với bố.” Sarah khụt khịt. “Chị nói với bố là chị cần phải suy nghĩ thêm. Tất nhiên là chị biết” - giọng cô lạc đi, nhưng cô đã trấn tĩnh được - “Chị biết rằng chị rất yêu bố, yêu bố hơn yêu Pookie nhiều, nhưng dường như thật là kinh khủng khi không trung thành với Pookie và nói ra điều đó. Vì thế chị nói chị sẽ suy nghĩ thêm và nói với bố ngày hôm sau. Bố nói “Con hứa chứ? Nếu bố gọi con vào ngày mai qua điện thoại, liệu con có nói với bố không?” Và chị đã hứa. Chị nhớ là chị đã không thể nhìn thẳng vào Pookie tối đó và không thể ngủ ngon được, nhưng khi bố gọi chị đã nói với bố. Chị nói “Bố ơi,” và chị nghĩ là bố sẽ khóc, ở ngay trên điện thoại. Bố thường hay khóc, em biết mà.”
“Bố hay khóc á? Em chưa bao giờ nhìn thấy bố khóc.”
“Thật ra là bố hay khóc. Bố là một người đàn ông dễ cảm động. Dù sao, bố nói ‘Thật tốt, con yêu,” và chị nhớ là chị đã cảm thấy thư giãn khi bố không khóc. Rồi bố nói “Con này. Ngay khi bố thu xếp được một vài thứ bố sẽ đón con về ở với bố ngay. Có thể sẽ không phải là ngay lập tức nhưng sẽ chóng thôi, và chúng ta sẽ luôn bên nhau.”
“Chúa ơi,” Emily nói. “Và dĩ nhiên là bố đã không bao giờ làm điều đó.”
“à, chị đã thôi không mong điều đó xảy ra sau đó; chị đã thôi không nghĩ về điều đó”
“Và chị đã phải sống với Pookie và em.”
Emily lần mò điếu thuốc. “Em không hề có một mảy may nào là chị đã phải trải qua bất kỳ một chuyện nào đó giống như vậy.”
“À, em đừng hiểu nhầm đấy,” Sarah nói. “Bố cũng yêu em; bố luôn hỏi chị về em, đặc biệt là sau này, khi em lớn lên - em như thế nào, em thích gì vào ngày sinh nhật - em biết đấy. Cứ như thể là bố chưa bao giờ thật sự hiểu em vậy.”
“Em biết.” Emily uống một ngụm, tìm kiếm nỗi buồn da diết được tăng thêm do rượu dường như đi thẳng vào vòm miệng cô rồi vào thẳng mạch máu cô vậy. Cô có một câu chuyện của riêng mình để kể ngay bây giờ; nó không hẳn là một câu chuyện buồn như Sarah, nhưng nó là một câu chuyện buồn. “Chị có nhớ Larchmont không?” cô bắt đầu.
“Đương nhiên rồi.”
“Thật ra, khi Bố đến thăm vào Giáng sinh năm đó...”
Cô kể rằng cô đã nằm lắng nghe bố mẹ nói chuyện và nói chuyện mãi với nhau ở tầng dưới như thế nào và cô đã gọi mẹ như thế nào, và mẹ đã lên gác người sực nức mùi rượu gin như thế nào và nói họ “đang đi đến một sự đồng cảm mới,” và mọi sự hy vọng đều bị sụp đổ trong ngày hôm sau như thế nào.
Sarah gật đầu chứng thực. “Chị biết,” cô nói. “Chị nhớ đêm hôm đó. Chị cũng thức. Chị nghe thấy tiếng em gọi.”
“Chị đã như vậy á?”
“Và chị nghe thấy tiếng Pookie lên gác. Chị cũng vui như em vậy. Và rồi sau đó một lúc, có thể là một nửa giờ sau đó, chị thức dậy và đi xuống gác.”
“Chị đi xuống gác á?”
“Và không có nhiều ánh sáng trong phòng khách nhưng chị vẫn có thể nhìn thấy bố mẹ nằm cùng nhau trên sofa.”
Emily nuốt chửng, “ý chị là họ cùng... nằm với nhau?”
“Ừ, thật ra không có nhiều ánh sáng lắm, nhưng bố nằm trên và đó là - em biết đấy - đó là một sự ôm ấp rất tình cảm.” Và Sarah cầm cốc thật nhanh lấp vào miệng mình.
“Ôi,” Emily nói. “Thế thì em hiểu rồi.”
Cả hai bọn họ đều im lặng một lúc. Rồi Emily nói “giá mà chị nói với em chuyện này từ lâu rồi mới phải, Sarah, à mà không, hãy nghĩ sâu hơn một chút, em nghĩ là em sẽ vui hơn nếu như chị không nói. Chị hãy kể cho em chuyện khác đi. Chị đã bao giờ hiểu được là tại sao họ lại bỏ nhau không? à, mà em biết kiểu của mẹ - mẹ cảm thấy ‘bị kìm hãm’; mẹ muốn tự do; mẹ luôn so sánh mình với một người phụ nữ trong truyện Một ngôi nhà Búp bê.”
“Một ngôi nhà Búp bê, đúng rồi. Thật ra, nó chỉ là một phần thôi; nhưng rồi một vài năm sau khi ly dị mẹ đã quyết định mẹ muốn quay trở lại với bố, nhưng bố lại không muốn có mẹ.”
“Chị có chắc không?”
“Hoàn toàn chắc chắn.”
“Tại sao?”
“Thật ra, hãy nghĩ sâu về điều đó, Emmy. Nếu em là một người đàn ông, liệu em có chấp nhận lại người đàn bà đó không?” Emily nghĩ về điều đó. “Không. Nhưng rồi, tại sao lúc đầu bố lại cưới mẹ?”
“À, bố yêu mẹ; đừng có lo lắng về điều đó. Bố nói với chị một lần rằng mẹ là người phụ nữ tuyệt vời nhất mà bố đã từng gặp.”
“Chị đang đùa đấy à.”
“Thật ra, có thể bố không nói ‘tuyệt vời’. Nhưng bố nói mẹ thật sự quyến rũ.”
Emily nghiền ngẫm ly rượu trên tay. “Dù sao đi nữa thì chị nói chuyện với bố khi nào vậy?”
“À, hầu như vào thời gian chị đeo hàm. Chị không phải đi vào thành phố một lần một tuần, em biết mà - nha sĩ chỉ yêu cầu gặp chị một tháng một lần. Cái câu chuyện một-tuần-một-lần là chuyện mà bố và chị dựng lên, vì thế bố và chị có thêm thời gian bên nhau. Pookie chưa bao giờ nhận ra điều đó.”
“Em cũng vậy.” Và thậm chí, kể cả ngay bây giờ, ở tuổi ba mươi sáu, Emily cũng vẫn cảm thấy ghen tỵ. “Và ai là Irene Hammond?” cô hỏi. “Người phụ nữ em gặp ở đám tang của bố?”
“Ôi, Irene Hammond chỉ mới trong một vài năm cuối, vào lúc cuối đời của bố. Có những người khác nữa cơ.”
“Thật á? Chị có gặp họ không?”
“Một vài người trong số họ? Hai hay ba gì đó.”
“Họ có dễ chịu không?”
“Một người trong số họ chị chẳng thích tí nào; những người khác thì cũng được.”
“Tại sao chị lại cho là bố sẽ không bao giờ lấy vợ nữa?”
“Chị không biết. Bố nói một lần - bố nói điều này khi chị đính hôn với Donald Clellon - bố nói một người đàn ông phải mãn nguyện với công việc trước khi anh ta thành thân, và có thể đó là một phần. Bố không bao giờ thoải mái với công việc, em biết đấy. Ý chị là, bố muốn trở thành một phóng viên vĩ đại, một ai đó giống như Richard Harding Davis hay là Heywood Broun. Chị không nghĩ là bố đã hiểu được điều tại sao bố chỉ mãi là - em biết đấy - chỉ là một người hiệu đính bản thảo”
Và điều đó đã không đừng được. Suốt tối họ đã phải kiềm chế không khóc, suốt buổi tối, nhưng điều này nặng nề quá. Sarah bắt đầu khóc trước và Emily phải dời khỏi sàn để ôm chị mình trong vòng tay và an ủi chị mình, cho đến khi rõ ràng là cô cũng không thể an ủi được ai vì chính bản thân cô cũng đang khóc. Với một người mẹ đang nằm hôn mê cách hai mươi dặm, họ dính vào với nhau uống cho đến say mềm và thương xót cho việc mất đi một người cha.
Pookie đã không chết ở ngày hôm sau, và ngày sau đó. Vào cuối ngày thứ ba, rõ ràng là tình trạng của bà trở nên “ổn định,” và Emily quyết định về nhà. Cô muốn quay trở lại căn hộ có điều hoà, nơi không có bất cứ một thứ mùi ẩm mốc nào và mọi thứ đều sạch sẽ, và cô muốn đi làm trở lại.
“Tiếc quá, anh chị không được ở được thêm với em, Emmy,” Tony nói khi anh nhanh chóng đưa cô ra sân ga trong chiếc Thunderbird. Khi anh đỗ chiếc xe gần sân ga để đợi tàu, cô nhận ra rằng cô có thể sẽ không bao giờ có được cơ hội tốt hơn như thế này để đưa ra vấn đề về việc bán trang trại. Cô cố gắng thực hiện điều đó thật khéo léo, rõ ràng cô biết rằng đấy không phải là việc của cô, ngụ ỷ rằng chắc hẳn anh đã phải nghĩ đến điều đó từ trước rồi.
“Ôi, Chúa ơi,” anh nói khi anh nghe thấy tiếng của con tàu đang đến gần. “Anh muốn bán chúng đi lâu rồi. Hãy cho xe ủi đất và chôn vùi chúng đi cho xong. Nếu điều đó thuộc về anh, anh đã...”
“Ý anh là chuyện này không nằm trong tầm kiểm soát của anh?”
“Không, em ơi; mà là chính Sarah, em biết đấy. Cô ấy chưa bao giờ nghe nói về điều này.”
“Nhưng Sarah nói là chị ấy muốn thực hiện việc này. Chị ấy nói anh chính là người không muốn.”
“Ôi?” anh nói, trông thật sửng sốt. “Thật á?”
Tàu đang vào ga với một tiếng động áp đảo; không có gì cho Emily làm cả ngoại trừ việc chào tạm biệt.
Khi cô ra khỏi thang máy ở tầng của mình - cái dương v*t và tinh hoàn vĩ đại vẫn còn hiển hiện ra từ con ngựa giấy trên tường - cô gần như quá mệt để có thể đứng vững được. Căn hộ thật mát mẻ và đón chào cô như cô đã biết là nó sẽ là như vậy, và cô thả mình vào trong chiếc ghế sâu với gót chân duỗi thẳng trên sàn nhà. Thật là mệt quá. Ngày mai cô sẽ lái xe lên khu phố trên đến Baldwin Advertising, cô sẽ làm việc với tất cả sự thông minh và hiệu quả mà họ đã mong chờ ở cô, và cô sẽ không uống một chút nào trong vòng một tuần ngoại trừ một lon bia hay một ly rượu vang sau mỗi ngày làm việc. Chẳng bao lâu nữa cô lại có thể là chính mình.
Nhưng trong lúc này mới chỉ là tám giờ tối; không có gì ở đây làm cho cô muốn đọc; không có gì để xem; không có gì để làm ngoại trừ việc ngồi đây và trong đầu lật đi lật lại quãng thời gian ở St.Charles. Sau đó một lúc cô ngồi dậy và đi quanh phòng mút tay. Rồi chuông điện thoại reo. “Có phải Emily không?” một giọng đàn ông nói. “Ôi, em có khoẻ không? Anh gọi em suốt.”
“Ai đấy ạ?”
“Ted đây; Ted Banks... tối thứ sáu, em nhớ chứ? Anh gọi em suốt từ sáng thứ bảy... ba hay bốn lần gì đó một ngày, và em không bao giờ có mặt ở nhà. Em ổn chứ?”
Nghe giọng của anh ta và tên họ của anh ta đã gợi lại tất cả mọi thứ. Cô có thể cảm nhận thấy khuôn mặt với hàng lông mày rậm rì, chất phác và nhớ về vóc dáng, độ nặng và cảm giác về anh ta; cô có thể nhớ được tất cả mọi thứ. “Em đã không ở trong thành phố một vài ngày,” cô nói. “Mẹ em ốm nặng.”
“Ôi, thế bây giờ bà thế nào?”
“Bà đã... khá hơn.”
“Thế thì ổn rồi. Nghe này, Emily, trước tiên anh muốn xin lỗi - anh đã không uống nhiều như thế trong hàng năm nay rồi. Anh không quen với điều đó.”
“Em cũng vậy.”
“Vì thế nếu anh đã ngớ ngẩn anh vô cùng...”
“Không sao đâu mà; cả hai ta đều thật ngớ ngẩn.” Cô không còn cảm thấy mệt nữa, ngoại trừ việc xứng đáng được hưởng thoải mái. Cô cảm thấy tốt.
“A, em này: em có nghĩ rằng anh có thể gặp lại em chứ?”
“Vâng, em xin sẵn lòng.”
“Thế thì tuyệt quá; tuyệt quá. Vì anh thật sự - Khi nào? Sớm nhất có thể là bao giờ?”
Cô nhìn quanh căn hộ của mình với niềm vui. Mọi thứ đều sạch; mọi thứ đều đã sẵn sàng. “Dạ,” cô nói, “bất cứ khi nào cũng được, Ted. Tại sao lại không phải là tối nay nhỉ? Cho em nửa giờ để tắm rửa và thay đồ, và rồi - anh biết đấy - anh đến đi.”