Không Hơn Một Xu Không Kém Một Xu
Chương 5
Anh lên chuyến tàu 8 giờ 17 phút. Hành khách thường xuyên đi lại Oxford – London bằng vé tháng rất chuộng chuyến tàu này. Dường như tất cả những người ăn điểm tâm ở toa ăn đều đã quen biết nhau và Stephen bỗng có cảm giác của một người khách không mời mà đến. Nhân viên soát vé đi vòng quanh toa ăn giục mọi người đưa vé. Stephen chìa cho anh ta xem chiếc vé hạng nhất. Anh thấy người đàn ông bên cạnh để lấp ló một chiếc vé hạng hai đằng sau tờ Thời báo tài chính. Bất đắc dĩ, người soát vé cầm lấy nó và nói:
- Sau bữa sáng, ông phải trở lại toa hạng hai. Toa ăn nàu là của vé hạng nhất, ông biết chứ?
Stephan ngồi nhìn ra cửa sổ, vừa ngắm vùng đồng quê Berkshire vừa suy ngẫm về lời nhắc nhở của người soát vé. Anh chưa kịp chú tâm vào tờ báo buổi sáng thì cà fê trong tách đã đổ tràn ra đi. Tờ Thời báo sáng nay chẳng đưa tin tức gì về Prospecta Oil. Anh nghĩ, đó là một chuyện tầm thường, thậm chí chán ngắt. Không phải là một vụ bắt cóc, hay cố ý gây hoả hoạn, cũng không phải là một vụ cưỡng hiếp, mà chỉ là một công ty thương mại phá sản. Chẳng có gì đáng quan tâm để phải đưa lên trang nhất quá một ngày. Bản thân anh cũng chẳng bao giờ mất quá một giây cho những câu chuyện kiểu đó, nhưng lần này thì nó lại liên quan tới chính an, và nó đang tạo nên một bi kịch đời người.
Tới ga Paddington anh vội vã đi quan những chiếc cổng vòm, tới sân trước của nhà ga. Anh chợt cảm thấy vui mừng vì đã lựa chọn cuộc sống khép kín ở trường đại học, hay chính xác hơn, là cuộc sống đó đã lựa chọn anh. Stephen chưa bao giờ hoà nhập được với cuộc sống London – Anh thấy thành phố này quá rộng lớn và lạnh lùng. Mỗi khi cần đi đâu, anh đều gọi taxi vì sợ lên nhầm xe buýt hoặc tầu điện ngầm. Tại sao người Anh không đánh số các con phố để người Mỹ có thể tìm đường dễ dàng hơn!
- Văn phòng Thời báo, quảng trường Printing House.
Người lái xe gật đầu và khéo léo điều khiển chiếc Austin màu đen chạy xuôi theo đường Bayswaer, rồi dọc theo công viên Hyde Park đang đẫm mình trong mưa. Những cây nghệ tây ở March Arch trông thật ảm đạm và dị dạng nằm rạp trên cỏ. Stephen có ấn tượng tốt với những chiếc taxi ở London. Chúng không bao giờ bị xước sơn hoặc vấy bẩn. Đã có ai đó nói với anh rằng tài xế taxi sẽ không được lấy tiền nếu xe không thật hoàn hảo. Anh thấy chúng thật khác xa so với những con quái vật màu vàng méo mó ở New York. Chiếc xe bắt đầu ngoặt xuống đường Park Lane, tới góc Hyde Park, chay ngang qua toà nhà của Hạ Nghị viên, và dọc theo Embankment. Cờ bay phấp phới trên Quảng trường Quốc hội. Stephen cau mày. Anh đã vô tình đọc được tin gì lúc ở trên tàu nhỉ? À, đúng rồi, một cuộc họp của những nhà lãnh đạo. Anh thầm nghĩ: mình cũng phải để cuộc sống trôi đi như nó vẫn vậy chứ.
Stephen không biết sẽ phải làm gì để điều tra về Harvey Metcalfe. Giá như anh đang ở Harvard thì mọi chuyện sẽ dễ dàng biết bao. Anh chỉ cần tới gặp Hank Swaltz, một người bạn cũ của cha anh, một phóng viên thường trú của tờ Harold American. Chắc chắn Hank sẽ cung cấp cho anh những tin nội bộ đặc biệt. Còn ở nước anh này, Richard Compton – Miller, phóng viên thường nhật của tờ thời báo là phóng viên duy nhất mà anh quen biết. Mùa xuân năm ngoái Compton – Miller tới thăm Magdalen để viết về lễ kỷ niệm ngày lao động được tổ chức long trọng tại Oxford. Đội đồng ca đã đứng trên đỉnh tháp của trường ĐẠi học hát bài Miltonian để chào đón Một tháng Năm còn Stephen và Compton – Miller đã đứng cạnh nhau trên bờ sông dưới chân cầu Magdalen.
Sau này, khi đọc tên mình trên tờ Thời báo, Stephen đã thực sự lúng túng. Các nhà kinh điển luôn luôn dè xẻn từ "sáng chói", nhưng các nhà báo thì không. Chính vì vậy, các đồng nghiệp kiêu căng của Stephen đã không hài lòng khi thấy anh được ca ngợi là "ngôi sao sáng nhất" trên bầu trời đây sao sáng.
Chiếc taxi rẽ ngoặt vào sân trước rồi đỗ lại bên cạnh bức phù điêu khổng lồ của Henry Moore. Trụ sở của tời Thời báo và Người quan sát cùng đóng trong một toà nhà nhưng có cổng ra vào riêng. Cho tới nay, tờ Thời báo vẫn có danh tiếng hơn. Stephen hỏi thăm người trực ban ngồi sau chiếc bàn về Richard Compton và được hướng dẫn đi lên tầng mười. Căn phòng nhỏ của anh ta ở cuối hành lang.
Lúc đó mới chỉ hơn 10 giờ sáng nên trụ sở vẫn còn vắng vẻ. Sau này, Compton – Miller giải thích rằng không một tờ báo quốc gia nào lại bắt đầu làm việc trước 11 giờ sáng, và thường nghỉ trưa tới tận 3 giờ chiều. Khoảng thời gian đó, người ta để cho giấy tờ ngủ im lìm, công việc chỉ thực sự bắt đầu vào 8 giờ 30 phút tối. Thường thường, cứ sau 5 giờ thì các nhóm bắt đầu làm việc với các thời gian biểu đan chéo nhau, công việc của mỗi nhóm là săn lùng các tin tức mới nhất xảy ra trong đêm đó. Họ luôn luôn phải theo dõi mọi tin tức của nước Mỹ và nến chiều nay, tại Washington, Tổng thống có đọc một bài phát biểu quan trọng, thì ngay lập tức, ở London, họ phải đưa tin về nó. Đôi khi, trang nhất có thể bị thay đổi tới năm lần trong một đêm, chẳng hạn khi Tổng thống Kenedy bị ám sát. Những tin tức đầu tiên đến được nước Anh lúc 7 giờ tối ngày 22 tháng Mười năm 1963, thì lập tức toàn bộ trang nhất được dành ra để đăng tải về bi kịch này.
- Richard, anh thật tử tế vì đã đến sớm để đón tôi. Tôi không biết các anh bắt đầu làm việc muộn như vậy.
Richard cười phá lên:
- Không sao. So với anh, chúng tôi hẳn là những thằng lười, nhưng nơi đây sẽ cực kỳ nhộn nhịp vào lúc nửa đêm, khi mà anh đang cuộn tròn trên giường và say giấc nồng. Nào, tôi có thể giúp gì anh?
- Tôi đang cố gắng tìm hiểu đôi chút về một người đồng hương là Harvey Metcalfe. Đó là một Mạnh thường quân giàu có của Harvard, và tôi muốn biết về ông ta đôi chút để có thể tán dương ông ta.
Stephen không để tâm lắm đến lời nói dối của mình, nhưng đây quả là một tình huống lạ lùng mà anh mới gặp lần đầu tiên trong đời.
- Anh đợi ở đây nhé. Tôi cần sang phòng biên tập để tìm các tài liệu về ông ta.
Còn lại một mình. Stephen tự tiêu khiển bằng cách đọc các tiêu đề ghim trên tấm bảng trắng trong phòng – rõ ràng, đây là những câu chuyện mà Compton – Miller rất tự hào: "Thủ tướng điều khiển dàn nhạc tại phòng hoà nhạc Hoàng gia", "Chuyện tình của hoa hậu thế giới và Tom Jones", "Muhammad Ali nói: Tôi sẽ tiếp tục đoạt giải quán quân"…
Mười lăm phút sau, Richard trở lại với một tập hồ sơ khá dầy.
- Mời ngài đọc, thưa nhà toán học. Một tiếng nữa tôi trở lại và chúng ta cùng đi uống cà phê.
Stephen gập đầu và mỉm cười với vẻ biết ơn. Các nhà toán học chẳng bao giờ phải giải quyết những về rắc rối mà anh đang đương đầu.
Tập hồ sơ chứa đựng những thống kê các việc làm công khai và cả một số việc bất công khai của Harvey Metcalfe. Nhờ đó, Stephen đã biết về những chuyến đi Châu Âu hàng năm để dự Winbledon của gã, rồi chiến công của các con ngựa tại Ascot và cả việc sưu tập tranh ấn tượng. Để thoả mãn trí tò mò của độc giả, đã có lần William Hickey, chủ bút tờ Daily Express đã cho đăng một bức ảnh Harvey béo phị trong chiếc quần short Bermuda cùng một bài báo tiết lộ rằng mỗi năm, ông ta thường đi nghỉ hai hoặc ba tuần trên chiếc thuyền thể thao cá nhân ở Monte Carlo, và đánh bạc trong Casino. Theo Hickey, Metcalfe chỉ là một kẻ giàu có mới nổi, chưa đáng được kính trọng và ca ngợi. Stephen ghi chép một cách chi tiết tất cả các sự kiện mà anh cho là có liên quan và khi Richard quay lại thì anh đang xem các bức ảnh.
Anh ta đưa Stephen đến căng tin ở cùng tầng để uống cà phê. Khói thuốc lá bay lên mọt mù xung quanh cô gái ngồi ở bàn thu ngân phía cuối quầy tự phục vụ.
- Richard, tôi vẫn chưa có đủ những thông tin cần thiết. Harvard hy vọng ông ta sẽ trao tặng một số tiền lớn, có lẽ là một triệu đôla. Liệu tôi có thể tìm hiểu thêm các thông tin về ông ta ở đâu nữa?
- New York Times, có lẽ vậy. – Compton Miller nói. - Được, chúng ta sẽ tới gặp Terry Robards.
Văn phòng tờ New York Times tại London nằm trên tầng năm của cùng một toà nhà với tờ Thời báo trên quảng trường Printing House. Stephen nhớ tới toà nhà rộng lớn của tờ New York Times trên phố 43 New York và tự hỏi liệu văn phòng này có xứng đáng với nó không. Terry Robards hoá ra là một người Mỹ gày gò, với nụ cười thường trực nên ngay lập tức Stephen cảm thấy rất tự nhiên. Luôn luôn mỉm cười là một bí quyết mà anh đã tự tạo nên một cách vô thức qua nhiều năm và là một quà tặng quý báu khi anh muốn moi thêm nhiều tin tức hơn.
Stephen nhắc lại những điều mà anh muốn biết về Harvey Metcalfe. Terry phá ra cười:
- Harvard không lưu tâm đến nguồn gốc các khoản tài trợ đâu. Lão Metcalfe này có nhiều cách ăn cắp tiền hợp pháp hơn cả Sở ngân khố quốc gia.
- Anh không định nói như vậy đấy chứ? – Stephen hỏi một cách ngây thơ.
New York Times có khá nhiều tài liệu về Harvey. Trong đó, "Metcalfe, từ một cậu bé đưa tin trở thành triệu phú" là tiêu đề của một bài viết tỏ ý ca ngợi và thán phục Harvey. Stephen lại tiếp tục ghi chép cẩn thận. Anh thực sự quan tâm đến các chi tiết về công ty Sharpley & Con trai, cũng như các thông tin về việc buôn bán vũ khí trong thời kỳ chiến tranh và tiểu sử Arlene, vợ của Harvey và con gái Rosaline của họ. Có một bức ảnh chụp cả gia đình khi Rosaline mười lăm tuổi. Có một số bài viết khá dài về hai vụ xét xử cách đây chừng hai mươi nhăm năm, trong đó Harvey bị buộc tội giả mạo giấy tờ nhưng không bị kết án, và một vụ gần đây hơn, năm 1956, có liên quan tới việc chuyển giao cổ phần ở Boston. Lần này, Harvey cũng thoát khỏi mạng lưới pháp luật, nhưng Công tố uỷ viên đã có đôi chút nghi ngờ về gã. Những mẩu chuyện gần đây nhất về Metcalfe đều nằm trong cột "Ngồi lê đôi mách": Những bức hoạ cảu Metcalfe, ngựa của ông ta, hoa phong lan của ông ta, rồi thành công của cô con gái tại Vassar và những chuyến đi của ông ta tới châu Âu. Còn về Prospecta Oil thì chẳng có một dòng nào. Stephen thầm thán phục khả năng che dấu báo chí các hoạt động mời ám của Harvey.
Hôm đó, Terry mời ông bạn đồng hương đi ăn trưa. Giới phóng viên thường thích có những mối quan hệ mới và Stephen có vẻ là một người bạn đầy hứa hẹn. Họ vẫy taxi tới phố Whitefield Street. Trong lúc xe đang từ từ chạy ra khỏi khu trung tâm để đi về khu West End thì Stephen thầm hy vọng anh sẽ không phải "ăn một bát cháo chạy ba quãng đồng". Và anh đã không bị thất vọng.
Nhà hàng Lacy có kiểu kiến trúc tương đối thoáng mát, các bàn ăn được trang trí toàn bằng khăn lanh sạch sẽ và hoa thuỷ tiên vàng mới nở. Terry bảo đây là một trong những nhà hàng rất được giới báo chí ưa chuộng. Chủ nhà hàng này là Margaret Costa, một người chuyên viết sách nấu ăn, còn chồng bà ta, dĩ nhiên là rất lành nghề đầu bếp. Sau khi thưởng thức món súp cải soong và rượu Chateau de Péronne 1972, Terry trở lên cởi mở hơn về đề tài Metcalfe. Bản thân anh ta cũng đã có lần phỏng vấn Metcalfe khi Harvard khánh thành hội trường mang tên gã bao gồm một phòng thể dục dụng cụ và bốn sân tenis có mái che.
- Hy vọng rằng ngày nào đó ông ta sẽ nhận được bằng danh dự. – Terry châm biếm. – Tuy vậy, hơi khó đấy, kể cả khi ông ta có trao tặng một tỷ.
Stephen trầm ngâm suy nghĩ về lời nhận xét này của Terry.
- Có lẽ cậu nên đến Đại sứ quán Mỹ. Xin phòng tư liệu, có thể sẽ có thông tin đầy đủ về Harvey. – Terry nói rồi liếc nhanh vào đồng hồ đeo tay. – Chó chết. Thư viện đóng cửa lúc 4 giờ. Muộn rồi. Và cũng tới giờ tôi phải trở lại toà soạn.
Stephen phân vân, liệu có phải ngày nào các phóng viên cũng ăn uống lâu la như thế này không.
Chia tay Terry, anh vội vã ra ga đón chuyến tàu 5 giờ 15 phút và chen chúc với cánh hành khách đi vé tháng trở về Oxford. Chỉ khi còn lại một mình trong phòng riêng anh mới bắt đầu nghiên cứu các kết quả của một ngày rong ruổi. Mặc dầu mệt mỏi rã rời, anh vẫn buộc mình ngồi vào bàn để hoàn thành tập hồ sơ đầu tiên về Harvey Metcalfe.
Hôm sau, Stephen lại đón chuyến tàu 8 giờ 17 phút đi London. Lần này, anh mua vé hạng hai. Người soát vé yêu cầu anh rời khỏi toa ăn sau giờ điểm tâm.
"Tất nhiên", Stephen trả lời, nhưng trong suốt khoảng thời gian còn lại, anh cứ nhấm nháp cà phê chứ không hề bước chân ra khỏi toa ăn hạng nhất. Anh thấy hài lòng về bản thân. Anh đã tiết kiệm được 2 bảng, và đó chính là điều mà Harvey Metcalfe chắc sẽ làm.
Theo lời khuyên của Terry Robard, xuống ga Paddington, anh đón taxi để tới Đại sứ quán Mỹ. Đó là một toà nhà chín tầng đơn điệu khổng lồ rộng 250.000 foot vuông, trải dọc suốt chiều dài của Quảng trường Grosvenor. Thực tế, toà nhà này không được tao nhã như dẫy cư xa của các quan chức đại sứ Mỹ ở khu Winfield nằm bên công viên Regent. Năm ngoái Stephen đã được mời đến đấy dự tiệc. Trước kia, đây là nhà riêng của Barbara Hutton, sau này, vào năm 1946, Chính phủ Mỹ mua lại và biến nó thành nhà ở cho các nhân viên ngoại giao của mình.
Cửa vào thư viện Đại sứ quán trên tầng một đóng chặt. Stephen buộc phải quay ra nghiên cứu tấm bảng đồng treo trên bức tường ngoài hành lang. Bảng này có ghi tên tất cả các nhà đại sứ kể từ khi hai nước bắt đầu đặt quan hệ ngoại giao.Khi anh bắt đầu đọc đến Joseph Kennedy thì cánh cửa thư viện xoay tròn. "Chẳng khác gì một ngân hàng" Stephen nghĩ rồi bước vào bên trong. Một cô gái đang ngồi sau tấm biển "Bàn cung cấp thông tin" với dáng vẻ rất nghiêm nghị. Khi Stephen hỏi cô ta các thông tin về Harvey Metcalfe, cô ta không trả lời ngay, mà lại hỏi:
- Tại sao ông cần đến những tài liệu này?
Stephen hơi cảm thấy lúng túng nhưng ngay lập tức anh lấy lại bình tĩnh. "Mùa thu tới, tôi sẽ trở về Harvard và sẽ là giáo sư của trường. Tôi thấy mình nên hiểu biết đôi chút về mối quan hệ giữa ngài Metcalfe với trường. Hiện giờ tôi đang là giáo viên hợp đồng của trường Magdalen Oxford".
Cô gái tin ngay và vui vẻ đi tìm tài liệu cho anh. Chỉ vài phút sau trong tay anh đã là một tập hồ sơ. Dẫu chẳng sống động bằng các bài viết của New York Times song tập hồ sơ này cũng cung cấp những số liệu về đóng góp từ thiện của Metcalfe, và các thông tin chi tiết, chính xác về các món quà ủng hộ đảng Dân chủ. Hầu như người ta không bao giờ tiết lộ những con số chính xác về cái mà họ đã ủng hộ các đảng phái chính trị, nhưng Harvey thì không.
Sau khi đã đọc xong tài liệu ở thư viện ĐẠi sứ quán, Stephen đón taxi tới văn phòng Cunard ở quảng trường St. James và nói chuyện với một nhân viên đặt chỗ, rồi từ đó anh lại đi tiếp tới khách sạn Claridge’s trên phố Brook Tại đây, anh trò chuyện với một người quản lý. Sau cùng, anh gọi điện thoại tới Monte Carlo để hoàn thành công việc điều tra rồi quay về Oxford trên chuyến tàu 5 giờ 15 phút.
Stephen nằm lăn ra giường với cảm giác thoải mái vì giờ đây anh đã hiểu biết về Harvey Metcalfe hơn bất cứ một người nào, có lẽ chỉ thua Arlene, vợ gã và ngài thanh tra Clifford Smith trong đội Chống lừa đảo. Một lần nữa, anh lại làm việc đến gần sáng, hoàn thành tập hồ sơ gần bốn mươi trang đánh máy. Xong xuôi công việc, Stephen lên giường và chìm ngay vào giấc ngủ say sưa. Sáng hôm sau anh vẫn dậy sớm, xuống nhà ăn dùng điểm tâm với trứng, thịt muối hun khói, cà phê và bánh mì nướng; sau đó anh mang tập hồ sơ về Harvey tới văn phòng của Bursa để phôtô thành bốn bản. Vậy là anh có cả thấy năm bản của bộ hồ sơ. Trên đường trở về, khi qua cầu Magdalen, như thường lệ, anh dừng chân ngắm nhìn những thảm hoa được cắt tỉa cẩn thận trong vườn thực vật của trường. Sau đó anh ghé vào hiệu sách Maxwells ở phía bên kia cầu.
Stephen trở về phòng riêng với năm tập hồ sơ đẹp đẽ, mỗi tập một mầu. Anh xếp chúng vào những cặp tài liệu khác nhau rồi cất cả vào ngăn bàn, khoá lại. Stephen có phong cách làm việc gọn gàng, khoa học, một phong cách mà Harvey chưa bao giờ biết tới.
Tiếp theo, Stephen đọc lại các ghi chép mà anh tự viết ra sau cuộc phỏng vấn của thanh tra Smith rồi gọi điện tới tổng đài, hỏi xin các địa chỉ ở London và số máy của bác sĩ Robin Oakley, nhà buôn tranh Jean – Pierre Lamanns và Tử tước Brigsley. Nhân viên tổng đài từ chối trả lời quá hai số điện thoại cùng một lúc. Điều này khiến Stephen ngạc nhiên vì sao họ vẫn thu được lợi nhuận. Ở Mỹ, Công ty điện thoại lúc nào cũng sẵn lòng cung cấp cho bạn cả tá số điện thoại và bao giờ cũng kết thúc bằng câu muôn thủa, hân hạnh được giúp đỡ ngài.
Hai số điện thoại và địa chỉ mà anh moi được ở người đưa tin bất đắc dĩ, kém nhiệt tình này là bác sỹ Robin Oakley, số 122 phố Harley, London W1 và Jean – Pierre Lamanns số 40 phố New Boed, W1. Sau đó Stephen lại quay số tổng đài và xin hỏi số máy cũng như địa chỉ của Lord Brigsley.
"Không có ai tên là Brigsley sống ở khu Trung tâm". Cô nhân viên tổng đài trả lời và lại còn mỉa mai: "Nếu ông ta thực sự là một Tử tước, thì có lẽ ông phải tìm tên ông ta trong cuốn danh bạ cổ".
Stephen đi lên hội trường. Ở đây anh đọc danh sách mới nhất về tên tuổi nghề nghiệp của những nhân vật nổi tiếng và đã tìm thấy, không những tên tuổi mà còn là tiểu sử nhà quý tộc "áng kính".
Brigsley, Viscount, James Clarence Spencer; sinh ngày 11 tháng Mười năm 1942; Điền chủ. Tước hiệu: Từ tước. Là con trai và là người thừa kế của Bá tước xứ Louth đệ ngũ. Học vấn: Tốt nghiệp Harrow, Christ Church, Oxford (Cử nhân xã hội); tham gia Đội kịch của trường Đại học Oxford. Từ năm 1966- 1968: Là trung uý thuộc trung đoàn vệ binh Anh. Loại hình giải trí Polo (trên cạn); săn bắn. Địa chỉ: Tathuell Hall, Louth, Lincs. Các câu lạc bộ tham gia: Garick, Guards.
Sau đó Stephen đi bộ tới trường đại học Christ Church để hỏi thăm cô thư ký văn phòng, liệu cô ta có giữ địa chỉ ở London của James Brigsley, trúng tuyển năm 1963? Thật may mắn cô ta đã đáp ứng được yêu cầu của anh: số 19 đường King, London, khu Tây Nam 3.
Stephen bắt đầu cảm thấy hào hứng đối đầu với Harvey Metcalfe. Anh rời trường Christ Church, theo đường Peekwater và cổng Cantebury rồi rõ vào phố High để trở về trương Magdalen. Anh đi thong dong, tay đút túi, và thầm thào ra trong đầu một bức thư ngắn. Sau đó, anh trở về phòng và viết ra giấy những gì vừa nghĩ:
Trường Magdalen,
Oxford,
15, tháng Tư.
Bác sỹ Oakley thân mến,
Tối thứ Năm tuần tới, tôi sẽ tổ chức một bữa tiệc nhỏ. Tiệc của những người đáng kính.
Tôi sẽ rất lấy làm vinh dự được đón tiếp ngài. Chắc chắn, ngài sẽ thấy sự có mặt của mình là hữu dụng.
Chân thành
Stephen Bradley
Tái bút: Tôi rất lấy làm tiếc vì David Kesler không thể tham dự cùng chúng ta.
Trang phục: Cà vạt màu đen
Thời gian: 7 giờ 30 đến 8 giờ tối.
Với chiếc máy chữ cũ kỹ nhãn hiệu Remington, Stephen đánh thêm hai lá thư với nội dung tương tự, nhưng lần này, anh đề địa chỉ của Jean – Pierre Lamanns và Lord Brigsley. Sau đó, anh ngồi trầm ngâm hồi lâu trước khi nhấc máy bộ đàm nội bộ.
- Harry phải không? – Anh nói với người đội trưởng đội phục vụ - Nếu có ai gọi điện tới hỏi thăm về một người tên là Stephen Bradley, thì ông sẽ trả lời: "Vâng, thưa ngài, đó là một giáo sư toán học từ Harvard tới, rất nổi tiếng về các buổi tiệc chiêu đãi. Được chứ, Harry?"
- Vâng, thưa ngài! – Harry Wooldey, đội trưởng đội phục vụ trả lời. Theo ông, người Mỹ bao giờ cũng khó hiểu – và ông tiến sỹ Bradley này cũng không phải là ngoại lệ.
Đúng như Stephen dự đoán, cả ba người đều gọi điện tới hỏi thăm về tiến sỹ Bradley. Thực ra nếu bản thân anh có ở vào tình huống này thì anh cũng sẽ gọi điện kiểm tra như họ. Stephen nhớ lại nội dung các bức thư. Quả thật là chúng rất trừu tượng.
Suốt ba tuần lễ tiếp theo, Stephen lần lượt nhận được các thư trả lời. Thư của James Brigsley đến chậm nhất, vào ngày thứ Sáu. Cả ba người đều nhận lời dự tiệc.
Cùng với sự giúp đỡ và tham gia ý kiến của viên quản lý hội trường và bếp trưởng, bữa tiệc do một người ít giao tiếp nhất chủ trì đã được lên thực đơn với các món đặc sắc:
- Coquilles St Jacques (Sò St Jacques)
- Carrée d’agneau en croute (Thịt cừu thái lát mỏng)
- Cassorroole d’artichauds et champignons (Ác ti sô xào nấm)
- Pommes de terre boulangère (Bánh mì khoai tây)
- Griestorte with raspberries (Bánh mạch nha điểm quả mâm xôi)
- Camembert Frappé (Pho mát ướp lạnh)
- Café
Mọi thứ đã được chuẩn bị sẵn sàng. Stephen chỉ còn phải chờ đợi.
Đúng lúc đồng hồ điểm 7 giờ 30 phút tối ngày thứ năm, Jean – Pierre xuất hiện. Stephen thầm thán phục chiếc áo dự tiệc lịch sự và chiếc nơ mềm của vị khách. Bất giác, anh đưa tay sờ lên chiếc nơ bé nhỏ của mình và lấy làm ngạc nhiên tại sao Jean – Pierre Lamanns, một người có vẻ rất khôn ngoan, lịch sự lại có thể là nạn nhân của Prospecta Oil. Trong khi Stephen mải mê với màn độc thoại về tầm quan trọng của tam giác cân trong nghệ thuật hiện đại thì Jean – Pierre lơ đãng vuốt ve bộ ria mép. Đây là một chủ đề mà Stephen thường đề cập tới mỗi khi có năm phút giải lao, còn hôm nay anh sử dụng nó để trốn tránh các câu hỏi của Jean – Pierre. May sao, bác sỹ Robin Oalley đã xuất hiện, giải thoát cho anh. Mặc dầu cũng vừa bị lừa mất một số tiền khá lớn, nhưng chỉ cần nhìn thoáng qua thôi, Stephen cũng hiểu tại sao bác sỹ lại hành nghề thành công đến vậy tại phố Harley. Theo cách nói của H.H. Munro thì Robin thuộc loại đàn ông có ngoại hình khả ái tới mức phụ nữ sẵn sàng tha thứ cho bất cứ đôi ba thiếu sót nào của anh. Robin quan sát người chủ tiệc và phân vân, liệu anh có nên hỏi về lý do quen biết giữa họ hay không. Không! Anh quyết định: Mặc xác nó. Nhất định là sau buổi tiệc, ta sẽ biết lý do tại sao ta lại có mặt ở đây. Anh cảm thấy hơi lo âu với dòng tái bút về David Kesler. Stephen giới thiệu Robin với Jean – Pierre và trong khi hai người trò chuyện với nhau thì anh kiểm tra lại bàn tiệc. Một lần nữa, cửa ra vào lại mở, và với một chút tôn kính hơn những lần trước, người bồi thông báo: "Từ tước Brigsley". Stephen bước ra tận cửa để đón và bỗng do dự: Liệu mình nên cúi chào hay chỉ bắt tay? Mặc dầu James không biết một ai trong số những người đang có mặt ở cuộc hội ngộ kỳ lạ này, nhưng anh cũng không hề tỏ ra lúng túng. Anh bắt chuyện với mọi người có mặt một cách dễ dàng. James đã tạo ra được ấn tượng rất tốt. Tuy vậy, Stephen vẫn không thể không nhớ lại các kết quả học tập của Brigsley ở trường Christ Church và phân vân liệu nhà quý tộc này có hữu dụng trong các kế hoạch của anh không. Quả như dự đoán, tài nghệ nấu ăn của người đầu bếp đã tạo nên được sự thần bí mà Stephen mong muốn, và không một vị khách nào dám hỏi anh về lý do của bữa tiệc.
Cuối cùng, khi những người phục vụ đã don sạch bàn ăn và chuẩn bị mang tới các món mới thì Robin không thể chịu đựng được thêm nữa:
- Tiến sỹ Bradley, có phải là thô lỗ không nếu như tôi muốn hỏi đôi điều?
- Cứ gọi tôi là Stephen.
- Stephen, tôi có thể biết mục đích của cuộc hội ngộ nho nhỏ này không?
Sáu con mắt đổ dồn về phía Stephen, cùng chờ đợi câu trả lời.
Stephen đứng dậy, quan sát các vị khách rồi bước hai vòng quanh bàn trước khi lên tiếng. Anh bắt đầu bài diễn thuyết của mình bằng cách gợi toàn bộ cội nguồn của nó từ vài tuần trước đây. Anh nói với họ về cuộc gặp gỡ giữa anh và David Kesler ngay tại căn phòng này, rồi sự đầu tư của anh vào Prospecta Oil, tiếp theo là chuyến viếng thăm của đội Chống lừa đảo, và sự tiết lộ của họ về Harvey Metcalfe. Anh kết thúc bài phát biểu công phu với câu: " Thưa các ngài, sự thật là cả bốn chúng ta đều ở trong một tình trạng oái oăm như nhau". Anh cảm thấy cách nói này rất phù hợp với người Anh.
Nhưng anh chưa kịp kết thúc bài diễn thuyết của mình thì Jean – Pierre đã phản đối.
- Hãy chừa tôi ra. Tôi không bao giờ bị lôi cuốn vào một chuyện vớ vẩn như vậy. Tôi là chuyên gia buôn đồ cổ, chứ không phải là một tên đầu cơ.
Không để cho Stephen có cơ hội trả lời, Robin Oakley cũng nói luôn:
- Tôi chưa bao giờ được nghe một chuyện ngớ ngẩn như thế này. Anh đã lầm tôi với ai rồi. Tôi là bác sỹ phố Harley, tôi chẳng có lấy một chút hiểu biết sơ đẳng nhất về dầu lửa.
Stephen hiểu tại sao đội chống lừa đảo lại quá ngán ngẩm hai nhân vật này, và tại sao họ lại tỏ ra biết ơn đến vậy với sự cộng tác của anh. Tất cả đưa mắt nhìn Tử tước Brigsley. Anh ta nhướng mắt lên rồi khẽ khàng nói:
- Đúng, tất cả đều đúng đến từng chi tiết nhỏ, thưa tiến sỹ Bradley, và tôi thì còn ở vào tình trạng tồi tệ hơn ngài. Tôi đã vay 150.000 đồng bảng Anh bằng cách thế chấp nông trang của cha tôi ở Hampshire để mua một lô cổ phiếu bỏ đi. Bây giờ, ngân hàng sẽ tước quyền sở hữu nông trang của tôi. Nếu chuyện này vỡ lở thì cha tôi, ngài Bá tước đời thứ năm, sẽ rõ hết mọi chuyện. Lúc ấy, tôi chẳng còn biết mình phải làm gì nữa. Đối với tôi mọi sự đã kết thúc, trừ phi ngay bây giờ tôi trở thành ngài Bá tước thứ sáu.
- Cám ơn ngài. – Stephen nói. Khi ngồi xuống anh quay sang nhìn Robin với ánh mắt dò hỏi.
- quỷ tha ma bắt! – Robin nói. – Ngài đã đúng, tôi cũng có liên quan. David Kesler là bệnh nhân của tôi, và trong một phút thiếu suy nghĩ, tôi đã quyết định vay tín dụng ngân hàng 100.000 đồng bảng anh để đầu tư vào Prospecta Oil. Chỉ có trời mới biết cái gì đã xui khiến tôi làm cái việc ngu ngốc này. Tôi đã ôm vào người một đống giấy lộn chỉ đáng giá 50 xu. Tài khoản của tôi ở ngân hàng đã bị thâm thủng và họ đang bắt đầu làm ầm ĩ lên. Ngoài ra, tôi còn phải mang cầm ngôi nhà ở ngoại ô Berkshire và vay mượn khá nhiều tiền để trang trải tiền thuê phòng khám trên phố Harley và chu cấp cho một bà vợ xa hoa cùng hai đứa con trai ở trường dự bị tư thục có tiếng nhất nước Anh. Kể từ khi thanh tra Smith tới thăm tôi hai tuần trước đây, tôi đã không chợp mắt được lấy một phút. – Nói tới đây, anh ta dừng lại, ngước mắt nhìn mọi người. Nguồn sinh lực dồi dào và nét tự tin ngọt ngào vốn có đã biến đâu mất. Một cách chậm chạp, cả bọn đưa mắt nhìn Jean –Pierre đăm đăm.
- Thôi được, thôi được, - anh ta chấp nhận, - Tôi cũng vậy. Cái lưới chết tiệt này đã ụp xuống vào đúng lúc tôi đang ở Paris, vì vậy mà bây giờ trong tay tôi có một đống cổ phiếu vô dụng. Tôi đã vay 80.000 bảng anh dựa trên vốn vổ phần góp ở phòng tranh. Hơn thế nữa, tôi lại còn khuyên nhủ một số bạn bè cùng đầu tư vào cái Công ty ma này.
Im lặng lại trùm xuống căn phòng và một lần nữa, Jean – Pierre lại là người lên tiếng đầu tiên:
- Vậy theo ngài, giáo sư, chúng ta phải làm gì? – Anh ta châm chọc, - mỗi năm tổ chức một bữa tiệc tưởng nhớ sự ngu muội của mình ư?
- Không. Cái đó không tồn tại trong tâm tưởng tôi. – Stephen lưỡng lưu, chắc chắn những điều anh sắp nói ra đây sẽ còn làm cho mọi người huyên náo hơn. Nhưng rồi anh vẫn đứng dậy và với giọng nói khẽ khàng, đầy dụng ý anh đặt vấn đề:
- Tiền của chúng ta đã bị một kể cực kỳ xảo quyệt đánh cắp, một kẻ làm giầu bằng sự lừa đảo. Không một ai trong số chúng ta hiểu biết về chứng khoán và cổ phiếu, nhưng chúng ta đều là những chuyên gia lão luyện trong lĩnh vực của riêng mình. Vì vậy, thưa các ngài, tôi thiết nghĩ chúng ta sẽ phải lấy lại số tiền mà chúng ta đã mất: KHÔNG HƠN MỘT XU, KHÔNG KÉM MỘT XU..
Im lặng vài giây, rồi ồn ào lại nổi lên.
- Đuổi theo để lấy lại à? – Robin nói.
- Bắt cóc hắn? – James tư lự.
- Tại sao chúng ta không giết quách hắn đi rồi đòi tiền bảo hiểm nhân mạng? Jean – Pierre tham gia.
Nhiều phút trôi qua, Stephen vẫn kiên trì chờ đợi. Cuối cùng, anh đưa ra bốn tập hồ sơ mang nhan đề: HARVEY METCALFE và có ghi tên của bốn người bên ngoài. Mỗi tập một màu khác nha: Xanh lá cây cho Robin, xanh dương cho James và vàng cho Jean – Pierre. Stephen giữ lại cho mình bản gốc, màu đỏ. Cả ba người sững sờ vì ngạc nhiên. Rõ ràng là anh đã làm việc một cách nghiêm túc.
Stephen tiếp tục:
- Xin các ngài hãy đọc tập hồ sơ này thật kỹ lưỡng, qua đó các ngài sẽ có những hiểu biết sơ lược về Harvey Metcalfe. Các ngài hãy nghiên cứu các dữ liệu thật nghiêm túc rồi tự vạch ra những kế hoạch hợp tác giữa chúng ta để tất cả chúng ta có thể lấy lại từ tay hắn 1.000.000 đồng bảng anh mà hắn không hề hay biết. Mỗi người chúng ta phải có một kế hoạch riêng sau đó, đề nghị ba người còn lại cộng tác. Mười bốn ngày nữa, chúng ta sẽ gặp nhau tại đây để trình bày các kế hoạch cá nhân. Ngoài ra, mỗi người phải ứng trước 10.000 bảng để làm chi phí hàng ngày. Vì tôi là một nhà toán học, tôi sẽ thu số tiền này và mở một tài khoản chung cho hoạt động. Mọi chi phí cho việc "đòi nợ" này đều sẽ được cộng vào hoá đơn và sẽ bắt Metcalfe thanh toán, bắt đầu từ chi phí cho chuyến đi tối nay của các ngài và chi phí cho bữa tiệc này.
Jean – Pierre và Robin lập tức phản đối, nhưng James, lại cũng chính anh kết thúc cuộc cãi vã với một kết luận đơn giản.
- Tôi đồng ý. Tại sao chúng ta phải chịu thiệt thòi? Nếu chỉ một mình thôi, chúng ta sẽ không có cơ hội chiến thắng. Nhưng hợp lại chúng ta có thể vặn cổ thằng con hoang này.
Robin và Jean – Pierre nhìn nhau, nhún vai rồi gật đầu.
Sau đó, cả bốn người bắt đầu thảo luận một cách cặn kẽ các tài liệu mà Stephen đã thu thập trong vài ngày qua. Quá nửa đêm một chút thì họ ra về, mỗi người đều nhất trí sẽ trở lại đây sau mười bốn ngày nữa với một bản kế hoạch để cả Đội duyệt. Không một ai trong số họ biết chắc là chuyện này rồi sẽ đi tới đâu, nhưng có một điều họ biết rất rõ, đó là: Họ không còn đơn thương độc mã.
Stephen hài lòng vì bước đầu của kế hoạch chống lại Harvey Metcalfe của Đội đã tiến triển như anh mong múôn. Hy vọng là các bạn đồng mưu của anh sẽ bắt tay vào công việc ngay. Anh nhẹ nhàng thả người lên chiếc ghế tựa, nhìn đăm đăm lên trần nhà và lại tiếp tục suy nghĩ.