Khi Lỗi Thuộc Về Những Vì Sao
Chương 10
Tôi tranh luận với Mẹ rằng nên dành cho tôi hơn một nửa va-li, vì nếu không có tôi và bệnh ung thư của tôi thì ngay từ đầu chúng tôi sẽ không bao giờ được đi Amsterdam. Mẹ phản đối rằng do bà to gấp đôi tôi nên cần mặc nhiều vải để giữ gìn sự đoan trang thùy mị của mình, bà xứng đáng có ít nhất hai phần ba chiếc va-li.
Cuối cùng, cả hai mẹ con đều đuối lý. Nên đành mặc kệ.
Chuyến bay của chúng tôi khởi hành vào giữa trưa. Vậy mà Mẹ đánh thức tôi dậy lúc năm giờ ba mươi phút, vừa bật đèn phòng vừa réo, “AM-STERDAM!” Bà cứ chạy vòng vòng khắp nhà cả buổi sáng, để đảm bảo rằng chúng tôi không quên ổ cắm biến điện, kiểm tra năm lần bảy lượt xem chúng tôi đã có đủ bình ô-xy và tất cả các bình đều đầy khí chưa, vân vân và vân vân, trong khi tôi chỉ cần nhấc lưng khỏi giường và chui ngày vào Bộ Vía Du Lịch Amsterdam của mình (quần jean, áo hai dây màu hồng và chiếc áo len màu đen trong trường hợp máy bay bật nhiệt độ thấp).
Đồ đạc được chất lên xe vào lúc sáu giờ mười lăm phút, rồi Mẹ nhất quyết đòi hai mẹ con phải ăn sáng với Ba, mặc dù tôi luôn phản đối chuyện ăn sáng trước khi bình minh ló dạng. Tôi không phải là nông dân Nga thế kỷ mười chín cần ních đầy bụng cho một ngày lao động cực nhọc ngoài đồng. Nhưng dù sao tôi cũng cố lót dạ vài quả trứng luộc trong khi Ba và Mẹ thưởng thức món bánh burger kẹp trứng tự làm theo kiểu McMuffins khoái khẩu. Tôi tò mò hỏi:
“Tại sao chúng ta lại ăn thức ăn sáng vào bữa sáng? Giống như, tại sao chúng ra không ăn cà-ri vào bữa sáng?”
“Hazel, lo ăn đi.”
“Nhưng tại sao chứ? Con hỏi thật mà: Sao mà món trứng đánh bị liệt thành món ăn độc quyền cho bữa sáng này? Ta có thể kẹp sandwich với thịt xông khói mà chẳng ai phiền trách. Nhưng chỉ cần kẹp trứng vào sandwich là bum, nó trở thành bánh sandwich điểm tâm.”
Ba lúng túng trả lời trong khi miệng đầy đồ ăn. “Khi con trở về, chúng ta sẽ ăn tối bằng đồ ăn sáng. Chịu chưa con yêu?”
“Con không muốn ‘ăn tối bằng đồ ăn sáng’,” tôi trả lời, đặt dao và nĩa trên chiếc đĩa còn ê hề thức ăn của tôi. “Con muốn ăn trứng đánh vào bữa ăn tối mà không cần giải thích nhảm nhí là món trứng đánh chỉ dành riêng cho bữa ăn sáng ngay cả khi ta dùng nó vào giờ ăn tối.”
“Con phải tự chiến đấu trong thế giới này, Hazel,” Mẹ tôi nói. “Nhưng nếu đây là vấn đề mà con muốn tranh đấu thì Ba Mẹ sẽ đứng sau lưng ủng hộ con.”
“Hơi lấp ló phía sau thôi,” Ba tôi đế thêm làm Mẹ cười ngặt nghẽo.
Dù sao tôi cũng biết chuyện mình nêu ra khá ngốc nghếch, nhưng tôi vẫn cảm thấy tội tội cho món trứng đánh.
Sau khi ăn xong, Ba rửa chén bát rồi đưa chúng tôi ra xe. Tất nhiên là ông lại sụt sùi. Ông hôn lên má tôi với khuôn mặt ướt đẫm nước mắt. râu ria lởm chởm chưa cạo. Ông ép chặt mũi mình vào gò má của tôi và thì thầm, “Ba yêu con. Ba cũng rất tự hào về con.” (Tự hào về chuyện gì nhỉ, tôi tự hỏi.)
“Cám ơn Ba.”
“Vài ngày nữa ba con mình lại gặp nhau, được chưa con yêu? Ba yêu con rất nhiều.”
“Con cũng yêu Ba mà,” tôi mỉm cười. “Con và Mẹ chỉ đi có ba ngày thôi.”
Khi chúng tôi lái xe ra khỏi nhà, tôi vẫy tay chào Ba. Ông vẫy tay lại và nước mắt ngắn dài, khiến tôi cứ nghĩ chắc ông tưởng sẽ không bao giờ còn nhìn thấy tôi nữa. Có lẽ ông luôn nghĩ thế vào mỗi buổi sáng trước khi đi làm trong suốt phần đời còn lại của ông, thật tội cho Ba tôi.
Mẹ và tôi lái xe đến nhà của Augustus. Khi đến nơi, bà muốn tôi chờ ở trong xe để đỡ mệt nhưng tôi không chịu. Khi chúng tôi đến gần nhà, tôi nghe thấy tiếng ai khóc bên trong. Lúc đầu tôi không nghĩ đó là Gus, bởi vì chẳng giống gì với chất giọng trầm trầm của anh. Nhưng sau đó tôi nghe thấy một giọng nói chắc chắn mang âm điệu của anh nhưng đã bị biến âm. “VÌ ĐY LÀ CUỘC SỐNG CỦA CON, MẸ. CUỘC SỐNG CỦA CON THUỘC VỀ CON.” Và Mẹ tôi nhanh chóng choàng tay quanh vai tôi, buộc tôi quay trở lại xe, dáng vẻ gấp gáp. “Chuyện gì vậy Mẹ?”
“Chúng ta không được nghe trộm chuyện nhà người ta, Hazel.”
Hai mẹ con tôi trở vào trong xe và tôi nhắn tin cho Augustus báo rằng chúng tôi đã đến và đợi ở bên ngoài đến khi nào anh sẵn sàng khởi hành.
Chúng tôi nhìn chằm chằm vào nhà trong một lúc. Điều kỳ lạ về mấy ngôi nhà là chúng luôn giống như không có gì đang xảy ra bên trong mặc dù phần lớn cuộc sống của chúng ta đều diễn ra trong đó. Tôi tự hỏi liệu đó có phải là điểm thú vị trong kiến trúc không.
Sau một hồi, Mẹ lên tiếng, “À, chắc chúng ta đến quá sớm.”
“Mẹ nói cứ như thể con không phải dậy từ lúc năm giờ ba mươi vậy,” tôi nói.
Mẹ với tay lấy cốc cà phê trên bộ điều khiển giữa chúng tôi, nhấp một ngụm. Vừa lúc đó điện thoại của tôi rung lên, là tin nhắn của Augustus.
Anh KHÔNG THỂ quyết định nên mặc đồ gì. Em thích anh mặc áo polo tròng cổ hay áo cài nút hơn?
Tôi trả lời:
Áo cài nút.
Ba mươi giây sau, cửa trước mở ra, và anh Augustus tươi cười xuất hiện, tay kéo một chiếc túi du lịch phía sau. Anh mặc quần jean, đóng thùng một chiếc áo cài nút màu xanh da trời. Điếu Camel Light bặm hờ ở khóe môi. Mẹ tôi bước ra chào anh. Anh tạm thời rút điếu thuốc ra và nói bằng một giọng tự tin mà tôi đã quen, “Cháu luôn thấy vui khi gặp bác ạ.”
Tôi quan sát gương mặt học qua gương chiếu hậu cho đến khi Mẹ mở cốp xe. Một lúc sau Augustus mở cánh cửa phía sau tôi và loay hoay ngồi vào ghế sau bằng một chân.
“Anh có muốn em nhường chỗ này không?” Tôi hỏi.
“Chẳng cần đâu. Chào em, Hazel Grace.”
“Chào anh. Okay chưa?”
“Okay rồi.”
“Okay.”
Mẹ tôi ngồi vào sau tay lái, đóng cửa xe và trịnh trọng thong báo, “Điểm dừng kế tiếp, Amsterdam.”
Và không hoàn toàn đúng như thế. Điểm dừng chân tiếp theo là bãi đậu xe sân bay, rồi đến một chiếc xe buýt đưa chúng tôi đến ga đi, và sau đó một chiếc xe điện không mui đưa chúng tôi đến vạch kiểm soát. Anh chàng Quản lý An ninh Vận chuyển đứng bên kia vạch, ở đầu dãy, dõng dạc hô hào nào là các túi hành lý không được chứa chất nổ, vũ khí hoặc chất lỏng nặng hơn một trăm gram. Tôi rủ rỉ với Augustus, “Quan sát: Đứng ngay hàng thẳng lối là một hình thức áp bức,” và anh đáp, “Nghiêm trọng.”
Thay vì bị kiểm tra bằng tay, tôi chọn cách bước qua các máy dò tìm kim loại mà không đeo bình ô-xy, giá thép hoặc thậm chí đầu phun bằng nhựa ở trong mũi. Đi bộ qua máy X-quang đánh dấu lần đầu tiên trong nhiều tháng liền, tôi cất bước mà không cần tiếp ô-xy. Và cảm giác thật tuyệt vời khi đi bộ mà không vướng víu gì, cứ sải bước tự tin vượt lên chính mình và sự im lặng của máy thừa nhận rằng tôi, dẫu chỉ trong tích tắc, là một sinh vật phi kim loại.
Tôi cảm thấy rõ rệt chủ quyền của cơ thể mình, điều mà tôi không sao mô tả được rõ ràng, chỉ có thể đưa ra một ví dụ là khi tôi còn nhỏ, tôi từng vác một chiếc ba lô nặng trịch chứa đầy sách vở đi khắp nơi. Và khi đã vác chiếc ba lô to oạch ấy đủ lâu, tôi sẽ cảm thấy như thể đang trôi bồng bềnh khi cởi nó ra.
Chỉ mười giây sau, tôi có cảm giác như hai lá phổi của mình đang co lại giống như cánh hoa tàn lúc hoàng hôn. Tôi ngồi xuống băng ghế xám phía sau máy quét và cố gắng bắt nhịp thở. Tôi ho húng hắng, và thấy rất khổ sở cho đến khi đút được đầu phun ô-xy vào mũi trở lại.
Dù vậy nó vẫn đau. Nỗi đau luôn thường trực, quặn thắt bên trong như thể muốn tôi phải cảm nhận được nó. Lúc nào tôi cũng thấy giống như bị đánh thức bởi nỗi đau khi có một đối tượng nào đó ở thế giới bên ngoài bất thình lình cần tôi chú ý hay nhận xét này nọ. Mẹ lo lắng nhìn tôi, bà vừa nói gì đó. Mẹ vừa nói chuyện gì nhỉ? Rồi tôi chợt nhớ ra, bà hỏi tôi có chuyện gì không ổn sao.
“Không có gì đâu Mẹ,” tôi đáp.
“Amsterdam!” Bà hào hứng.
Tôi mỉm cười hùa theo, “Amsterdam!”
Bà đưa tay kéo tôi đứng lên khỏi băng ghế.
Chúng tôi tới của khởi hành một tiếng trước giờ lên máy bay. “Bác Lancaster, bác thật là một người cực kỳ đúng giờ,” Augustus nói khi anh ngồi xuống bên cạnh tôi trong khu vực chờ chỉ lác đác vài hành khách.
“Ừm như vậy thì bác sẽ dư dả thời gian để sắp xếp này nọ,” Mẹ đáp.
“Mẹ cũng đầu tắt mặt tối mà!” Tôi nói với bà, mặc dù tôi hiểu Mẹ ‘đầu tắt mặt tối’ chủ yếu vì phải chăm sóc cho tôi. Dĩ nhiên Mẹ cũng khá ‘đầu tắt mặt tối’ vì làm vợ của Ba — một người không có mấy khái niệm về chuyện giao dịch ngân hàng, kêu thợ sửa ống nước, nấu ăn hay chuyện khác, ngoài việc làm công ăn lương cho Công ty Bất động sản Morris. Nhưng phần lớn là vì tôi. Mục tiêu sống lớn nhất của Mẹ và của tôi lại đan chéo vào nhau một cách phức tạp.
Khi hành khách lần lượt đến và lấp kín những ghế chờ xung quanh chúng tôi, Augustus chợt nói, “Anh sẽ đi mua một chiếc burger trước khi lên máy bay. Em có muốn ăn gì không?”
“Dạ không, nhưng em đánh giá rất cao việc anh không chạy theo những quy ước xã hội về món ăn sáng.”
Anh nghiêng đầu nhìn tôi bối rối. Mẹ tôi chen vào, “Chả là Hazel vừa phát triển một đề tài nghiên cứu về ‘thân phận thấp hèn’ của món trứng đánh.”
“Thật đáng xấu hổ khi tất cả chúng ta cứ thờ ơ sống và mù quáng chấp nhận món trứng đánh về cơ bản luôn là ‘món điểm tâm’.”
“Anh muốn thảo luận sâu hơn về đề tài này,” Augustus nói. “Nhưng giờ anh sắp chết đói đây, nên anh đi ăn trước. Anh sẽ quay lại ngay.”
Hai mươi phút sau chưa thấy Augustus quay về, tôi hỏi Mẹ xem liệu có chuyện gì bất trắc không. Và Mẹ chỉ ngẩng nhìn lên trong tích tắc từ quyển tạp chí nhảm nhí đang đọc, đừa đủ lâu để nói, “Chắc thằng bé đi vào phòng vệ sinh hay gì đó thôi.”
Một nhân viên kiểm soát cửa khởi hành bước đến và thay bình ô-xy của tôi bằng chiếc do hãng hàng không cung cấp. Tôi hơi ngượng khi cô nhân viên cứ quỳ dưới chân tôi, thu hút ánh mắt hiếu kỳ của các hành khách xung quanh. Nên tôi bấm tin nhắn cho Augustus trong khi cô nhân viên vẫn lúi húi làm tiếp.
Anh không trả lời. Mẹ dường như không quan tâm, nhưng tôi đang tưởng tượng trong đầu cơ man những bất trắc có thể phá hỏng chuyến đi Amsterdam (nào là bị bắt giam, bị thương, hay bị suy sụp tinh thần). Và mỗi phút trôi qua, tôi thấy ngực mình đau nhói nhưng không phải là căn bệnh ung thư hoành hành.
Và chỉ khi nữ nhân viên đứng phía sau quầy kiểm soát về thông báo mời những hành khách cần lên máy bay trước chuẩn bị khiến mọi người đang ngồi trong sảnh chờ đều đổ dồn ánh mắt về phía tôi, thì tôi mới thấy Augustus đang khập khiễng bước nhanh về phía chúng tôi. Một tay anh cầm chiếc túi McDonald, ba lô treo lủng lẳng trên vai.
“Anh đã ở đâu vậy?” tôi hỏi.
“Mọi người xếp hàng rồng rắn ở đó, anh xin lỗi,” anh nói và chìa tay đỡ tôi đứng dậy. Nắm tay anh, chúng tôi sóng bước bên nhau đến cổng kiểm soát để ra máy bay.
Tôi có thể cảm nhận là tất cả mọi người đều đang nhìn chúng tôi, thắc mắc không biết hai đứa tôi bị bệnh gì, có bị đe dọa mạng sống không, và Mẹ tôi thật can đảm, vân vân và vân vân. Đôi khi đây chính là chuyện tồi tệ nhất khi bị ung thư: dấu hiệu bệnh tật thể hiện rõ trên cơ thể bạn, tách biệt bạn khỏi những người khỏe mạnh khác. Chúng tôi khác biệt không lẫn vào đâu được. Và hiển nhiên nhất là khi cả ba chúng tôi đi qua hai hàng ghế trống trên máy bay, mấy cô tiếp viên gật đầu chào ra vẻ thông cảm và chỉ cho chúng tôi tới hàng ghế ở tít phía sau. Tôi ngồi ở ghế giữa, Augustus ở ghế cửa sổ và Mẹ ở cạnh lối đi ngay phía sau cánh máy bay. Bên phía Mẹ ngồi hơi lấn một chút nên tất nhiên tôi hơi xích qua phía Augustus. Anh mở túi McDonald và lấy ra một cái hamburger của anh. Vừa ăn anh vừa nói:
“Tuy nhiên, lý luận về trứng của em, là bữa ăn sáng đã nâng món trứng đánh lên như một món điểm tâm bất khả xâm phạm phải không? Em có thể ăn thịt xông khói, phô mai Cheddar ở bất cứ nơi đâu vào bất cứ lúc nào, từ món bánh mì taco chiên giòn của Mexico đến bánh sandwich điểm tâm hay phô mai nướng, nhưng riêng món trứng đánh thì thật quan trọng.”
“Lố bịch,” tôi thốt lên. Hành khách bắt đầu lên máy bay. Tôi không muốn nhìn họ, nên tôi nhìn sang chỗ khác và nhìn sang chỗ khác là nhìn vào Augustus.
“Anh chỉ đang nói là: Có lẽ món trứng đánh hơi bị cô lập, nhưng chúng cũng đặc biệt mà. Chúng có một vị trí và thời gian phân bổ riêng, giống như nhà thờ vậy.”
“Anh sai đến mức không còn có thể sai hơn được nữa. Anh đang lâm vào tình cảm ủy mị như mấy cái gối thêu lời động viên ở nhà ba mẹ anh rồi. Anh đang lập luận rằng, vật càng mong manh dễ vỡ, càng hiếm thấy thì càng đẹp, chỉ đơn giản là vì nó mong manh dễ vỡ và hiếm thấy. Nhưng đó là dối trá, và anh biết thế mà.”
“Em thật khó dỗ dành quá!”
“Dễ dỗ dành thì không còn là dỗ dành rồi. Anh từng là một bông hoa hiếm hoi và mong manh dễ vỡ, anh nhớ chứ?”
Trong một lúc anh không nói gì. “Em thật biết cách làm anh im lặng, Hazel Grace.”
“Đó là đặc quyền của em và trách nhiệm của em.”
Trước khi tôi thôi nhìn anh, anh khẽ nói, “Nghe này, anh xin lỗi. Lúc nãy anh tránh mặt ở cửa kiểm soát. Thật ra hàng người xếp hàng ở McDonald không dài như thế; anh chỉ... anh chỉ không muốn ngồi đó mà tất cả mọi người đều nhìn chúng ta.”
“Chủ yếu là nhìn em thôi,” tôi chỉnh lại. Mọi người có thể nhìn lướt qua Gus mà không bao giờ biết anh cũng bị bệnh, trong khi bệnh của tôi thể hiện ra hết bề ngoài, đó là một phần lý do tại sao tôi chỉ muốn ru rú ở nhà. “Augustus Waters, thần tượng của bao cô nàng, lại thấy xấu hổ khi ngồi bên cạnh một cô gái vác theo một bình ô-xy.”
“Không phải xấu hổ. Họ chỉ đôi khi khiến anh bực mình thôi. Và anh không muốn mình mang tâm trạng bực bội hôm nay.” Sau đó anh mò tay vào túi và lật mở gói thuốc lá.
Khoảng chín giây sau, một nữ tiếp viên tóc vàng chạy đến hàng ghế của chúng tôi và lịch sự nói: “Thưa anh, anh không được hút thuốc trên máy bay này. Hay bất kỳ máy bay nào khác.”
“Tôi không hút thuốc,” anh giải thích, điếu thuốc là bập bỗng trong miệng khi anh nói.
“Nhưng —”
“Đó là một phép ẩn dụ,” tôi giải thích dùm anh. “Anh ấy đặt thứ giết người ấy trong miệng mình mà không cho nó khả năng giết anh.”
Chị tiếp viên thoáng bối rối trong giây lát rồi nhã nhặn nói. “Vâng, phép ẩn dụ đó bị cấm trên chuyến bay ngày hôm nay ạ.” Gus gật đầu và trả điếu thuốc vào bao.
Cuối cùng máy bay cũng bắt đầu lăn bánh trên đường băng và tiếng viên phi công thông báo, Các tiếp viên chú ý, máy bay chuẩn bị cất cánh. Tiếp theo là tiếng hai động cơ phản lực gầm lên và máy bay bắt đầu tăng tốc. “Đây chính là cảm giác khi em ngồi trong xe anh lái nè,” tôi nói. Anh hơi mỉm cười, nhưng vẫn cắn chặt quai hàm. Tôi hỏi anh, “Ổn không vậy?”
Máy bay lướt trên đường băng với tốc độ mỗi lúc một nhanh hơn. Bỗng nhiên Gus nắm lấy tay vịn, mắt mở to. Tôi đặt tay lên tay anh và hỏi, “Anh ổn không?” Anh chẳng nói gì, chỉ mở to mắt nhìn chăm chăm tôi. Tội lại hỏi, “Anh sợ đi máy bay hả?”
“Lát anh sẽ cho em biết,” anh nói. Mũi của máy bay nhấc lên và chúng tôi đã ở trên không trung. Gus nhìn chằm chằm ra ngoài cửa sổ, xem mặt đất thu nhỏ dần ở bên dưới. Sau đó tôi thấy tay anh thả lỏng ra ở bên dưới tay tôi. Anh liếc qua tôi rồi nhìn ra ngoài cửa sổ. “Chúng ta đang bay,” anh tuyên bố.
“Trước đây anh chưa bao giờ đi máy bay à?”
Anh lắc đầu, “NHÌN KÌA!” anh reo lên, chỉ tay vào cửa sổ.
“Ừ, ừ, em thấy rồi. Trông giống như chúng ta đang ở trên máy bay.”
“CHẲNG CÓ GÌ TRÔNG GIỐNG NHƯ THẾ TRONG LỊCH SỬ NHN LOẠI,” anh nói. Sự phấn khích của anh thật đáng yêu, và tôi không thể cưỡng mình nghiêng qua hôn lên má anh.
“Này, báo cho cô biết là tôi đang ở đây đấy nhé,” Mẹ nhắc nhở. “Ngồi ngay bên cạnh cô, Mẹ của cô đấy. Là người đã nắm tay dìu cô đi khi cô chập chững những bước đầu đời đấy.”
“Chỉ là tình thương mến thương thôi mà!” Tôi nhắc lại lời Gus hôm trước, rồi quay sang hôn chụt lên má Mẹ.
“Anh không thấy tình thương mến thương xíu nào,” Gus thì thầm chỉ đủ cho tôi nghe. Khi một chàng Gus ngạc nhiên, phấn khích một cách ngây thơ, chuyển sang một anh Augustus hay có những Nghĩa Cử Cao Quý Mang Tính Ẩn Dụ thì đơn giản là tôi không thể cưỡng lại sự quyến rũ đó.
Đó là một chuyến bay ngắn quá cảnh tới Detroit. Đến nơi chúng tôi đi xe điện mini sang cửa khởi hành đi Amsterdam. Chiếc máy bay này có màn hình ti-vi ở mặt sau mỗi ghế. Nên khi chúng tôi đang bay trên những đám mây, Augustus và tôi cùng canh giờ bật xem bộ phim hài lãng mạn cùng một lúc trên màn hình riêng của mỗi đứa. Nhưng bất chấp mọi nỗ lực đồng bộ hóa quy tình nhấn nút play của chúng tôi, phim trên màn hình của anh luôn chiếu trước một vài giây. Kết quả là trước mỗi tình huống buồn cười, anh đều cười trước khi tôi bắt đầu nghe câu thoại đó.
Mẹ nảy ra một kế hoạch vĩ đại là cả ba chúng tôi sẽ ngủ trong những giờ bay cuối cùng, sao cho khi hạ cánh vào lúc tám giờ sáng, chúng tôi đã ngủ đủ giấc và hoàn toàn tỉnh táo, sẵn sàng khám phá khắp mọi ngõ ngách của thành phố. Vì vậy, sau khi bộ phim kết thúc, Mẹ, Augustus và tôi cùng uống thuốc ngủ. Mẹ nhanh chóng ngủ khò trong vòng vài giây, nhưng Augustus và tôi vẫn thức và chong mắt nhìn ra ngoài cửa sổ trong một lúc. Đó là một ngày trời trong. Và dù không thể nhìn thấy mặt trời đang lặn, hai đứa tôi vẫn thấy được ánh hoàng hôn phản chiếu qua các tầng mây.
“Chúa ơi, đẹp quá!” tôi khẽ trầm trồ.
“Những tia sáng hừng đông chiếu lấp lánh trong đôi mắt đã lòa của cô,” anh đọc một câu trong tác phẩm Nỗi đau tột cùng.
“Nhưng giờ không phải bình minh,” tôi chỉnh lại.
“Mặt trời đang mọc ở nơi nào đó,” anh điềm nhiên đáp. Một lúc sau, anh nói tiếp: “Nhận xét: Thật tuyệt nếu được du hành trong một chiếc máy bay siêu nhanh để có thể đuổi theo mặt trời mọc ở vòng quanh thế giới hen!”
“Khi đó ta có thể sống lâu hơn,” tôi nói khiến anh liếc nhìn tôi, vẻ thắc mắc. “Anh biết không, theo thuyết tương đối hay gì đó,” tôi tiếp lời khi thấy anh vẫn chưa hết bối rồi, “chúng ta chậm lão hóa hơn khi di chuyển với tốc độ nhanh hơn so với đứng yên. Nên ngay bây giờ, thời gian trôi qua chậm hơn với chúng ta so với những người trên mặt đất.”
“Quả nhiên là ‘gái’ đại học, nói chuyện cũng thông minh hẳn,” anh gật gù.
Tôi trợn mắt nhìn anh. Anh thúc đầu gối (thật) của mình vào đầu gối của tôi và tôi cũng đẩy lại. “Anh buồn ngủ hả?” Tôi hỏi.
“Đâu có đâu,” anh trả lời.
“Ừ,” tôi thở dài. “Em cũng không thấy buồn ngủ.” Thuốc ngủ và chất ngây mê đều không phát huy tác dụng với tôi như những người bình thường khác.
“Em có muốn xem một bộ phim khác không?” anh hỏi.
“Ở đây có một bộ phim do Portman đóng từ Kỷ nguyên Hazel của chỉ nè.”
“Em muốn xem phim gì mà anh chưa từng xem á.”
Cuối cùng chúng tôi cùng xem phim 300, một bộ phim chiến tranh kể về 300 chiến binh dũng mãnh Sparta trong cuộc chiến không cân sức bảo vệ thành bang Sparta khỏi sự xâm lăng của đội quân Ba Tư đông có khi đến cả tỉ người. Phim bên màn hình Augustus vẫn bắt đầu trước bên tôi. Nên sau vài phút nghe anh hô, “Chết nè!” hay “Thảm quá!” mỗi khi có ai bị giết một cách man rợn, tôi nghiêng mình và tựa đầu trên vai anh, quyết định sẽ xem trên màn hình của anh để chúng tôi thực sự cùng xem phim với nhau.
300 quy tụ một dàn diễn viên trẻ trung, hùng hậu, những chiến binh mình trần lưc lưỡng, da bóng nhẫy rất bắt mắt nên cũng dễ theo dõi. Tuy nhiên khiên giáo trong phim hình như chẳng có tác dụng gì. Thi thể lính Ba Tư và chiến binh Sparta cứ chồng chất lên nhau làm tôi không thể tìm ra lý do tại sao lính Ba Tư lại tàn độc còn chiến bình Sparta lại dũng cảm như vậy. Theo tác phẩm Nỗi đau tột cùng thì “Tính đương thời phản ánh rõ rệt trong những cuộc chiến mà không ai mất mát bất cứ thứ gì dù giá trị to hay nhỏ, trừ chính mạng sống của họ.” Và đó chính là cuộc chiến của mấy anh chàng khổng lồ đang choảng nhau kịch liệt này.
Về cuối phim, hầu như tất cả mọi người đều đã chết, thì đội quân Sparta nảy ra ý tưởng điên rồ là xếp xác chết thành một bức tường khổng lồ, ngáng giữa lính Ba Tư và con đường độc đạo dẫn vào thành bang Sparta. Tôi thấy chuyện đổ máu này không cần thiết nên tôi quay mặt đi một lúc và hỏi Augustus, “Anh nghĩ có bao nhiêu người đã chết vậy?”
Anh phẩy tay ra hiệu im lặng, “Suỵt. Suỵt. Tới khúc gay cấn nè.”
Thế là khi tấn công, trong khi bọn lính Ba Tư phải hì hục leo lên bức tường xác này thì các chiến binh người Sparta chiếm ưu thế hơn vì đã đứng trên đỉnh núi thi thể. Và khi xác chồng xác, bức tường của các chiến sĩ đã hy sinh anh dũng càng cao chất ngất và khó leo hơn. Tất cả mọi người đều vung kiếm / bắn tên loạn xạ, khiến máu đổ thành sông từ Ngọn Núi Xác Chết này...
Tôi ngồi thẳng người lên để tránh xem cảnh máu me rùng rợn mà thay vào đó, tôi nhìn Augustus đang xem phim. Anh không thể kìm kiểu cười ngốc ngếch của mình. Tôi nheo mắt nhìn lên màn hình phía bên tôi khi ngọn núi ngày càng lớn hơn vì xác của các bên tham chiến. Khi người Ba Tư cuối cùng thắng thế, tôi nhìn qua Augustus một lần nữa. Và anh dường như hết sức vui vẻ mặc dù cái thiện vừa thua cái ác. Tôi lại rúc vào vai anh, nhưng lần này nhắm tịt mắt cho đến khi trận chiến kết thúc.
Khi đến đoạn giới thiệu danh sách các diễn viên và ê-kíp đoàn làm phim, anh tháo tai nghe ra, “Xin lỗi nha, anh xem phim nhập tâm quá, cứ bị cuốn vào sự hy sinh cao thượng của người Sparta. Lúc nãy em nói gì vậy?”
“Anh nghĩ có bao nhiêu người đã chết?”
“Giống như có bao như nhân vật hư cấu đã chết trong bộ phim hư cấu này hả? Thấm tháp gì đâu,” anh đùa.
“Không, ý em là, tính từ hồi đó đến giờ thì sao?”
“Anh vô tình biết được câu trả lời nè: có bảy tỉ người đang sống và khoảng chín mươi tám tỉ người đã chết.”
“Ồ,” tôi thốt lên. Tôi cứ đinh ninh là do tốc độ tăng dân số quá nhanh nên tổng số người sống sẽ tăng cao hơn số người đã chết cộng lại chứ.
“Tỷ lệ là khoảng mười bốn người đã chết trên một người đang sống,” anh nói. Danh sách giới thiệu vẫn tiếp tục chạy trên màn hình. Phải mất một thời gian dài để nhận diện những người đã chết, tôi đoán thế. Đầu tôi vẫn tựa trên vai anh. “Anh đã nghiên cứu về số liệu này vài năm trước đây,” Augustus nói tiếp. “Lúc đó anh tự hỏi liệu tất cả mọi người đều sẽ được nhớ đến không. Giống như, nếu thế giới này được tổ chức chặt chẽ và mỗi người sống được chia một lượng người đã chết thì liệu có đủ người còn sống để nhớ hết tất cả những người đã chết không?”
“Thế có đủ không?”
“Chắc chắn đủ, bất cứ ai cũng có thể nêu tên mười bốn người chết mà. Nhưng chúng ta là những kẻ khóc mướn vô tổ chức, nên rất nhiều người chỉ nhớ đến mỗi đại thi hào Shakespeare mà không một ai buồn nhớ đến người mà ông đã viết trong bài Xonê thứ Năm Mươi Lăm.”
“Đúng vậy,” tôi thừa nhận.
Im lặng một hồi, anh hỏi tôi, “Em có muốn đọc sách hay làm gì không?” Tôi đồng ý. Thế là tôi một bài thơ dài mang tên Tiếng Hú của Allen Ginsberg sáng tác mà lớp tôi đang học, còn Gus đọc lại cuốn Nỗi đau tột cùng. Được một lát, anh lại hỏi:
“Có gì hay không?”
“Bài thơ á?”
“Ừ.”
“À, hay lắm. Mấy gã trong bài thơ này còn dùng nhiều thuốc hơn em. Còn NĐTC sao rồi?”
“Vẫn xuất sắc. Hay em đọc thơ cho anh nghe đi.”
“Đây thực sự không phải là một bài thơ thích hợp để đọc to khi quý phụ huynh đang say giấc nồng bên cạnh. Trong đó toàn mấy chuyện dâm dật và ma túy.”
“Em vừa kể hai trong nhiều thứ tiêu khiển ưa thích của anh đó. Thế thôi, vậy em đọc cho anh nghe gì khác đi?”
“Ừm, nhưng em không có gì khác để đọc.”
“Thật là chán mà. Anh đang có hứng nghe thơ thẩn. Thế em có thuộc bài thơ nào không?”
“Hãy cùng đi với nhau, em và anh,” tôi rụt rè đọc, “Khi màn đêm vây kín bầu trời mênh mông / như một bệnh nhân nằm mê man trên bàn mổ.”
“Chậm chậm thôi em.”
Tôi thấy hơi e dè, giống như lần đầu tôi kể với anh về tác phẩm Nỗi đau tột cùng vậy. “Ừm, được rồi. Được rồi. ‘Hãy cùng đi với nhau, băng qua những phố phường thưa thớt bóng người / Lắng nghe lời thì thầm của những đêm không ngủ / Giấu mình trong khách sạn rẻ tiền vui tình một đêm / hay trong nhà hàng mạt rệp vương vãi vỏ sò: / Những con đường nối tiếp nhau như một mê cung miên man buồn tẻ / Ẩn chứa trong lòng những mục đích không sáng trong / Dẫn em đến một câu hỏi bí ẩn choán cả tâm trí... / Ồ không, xin em đừng hỏi, đừng hỏi “Đó là gì?” / Mà hãy cứ đi cùng anh và tự khám phá.’”
“Anh yêu em,” anh lặng lẽ nói.
“Anh Augustus!”
“Thật đó,” anh vừa nói vừa nhìn tôi chăm chăm. Tôi có thể thấy khóe mắt anh nheo lại. “Anh yêu em và chẳng việc gì anh phải chối bỏ niềm vui được nói ra sự thật đó. Anh đang yêu em và anh biết tình yêu này vô vọng, chắc chắn sẽ bị lãng quên, rằng chúng ta đêu có số phận bi đát và rằng sẽ đến một ngày mọi nỗ lực của cả hai ta đều trở về với cát bụi. Anh cũng biết mặt trời rồi sẽ nuốt chửng hành tinh xanh của chúng ra nhưng anh vẫn yêu em.”
“Anh Augustus!” Tôi gọi tên anh lần nữa, không biết nói gì thêm. Giống như mọi cảm xúc đang dâng trào trong tôi, như thể tôi đang đắm chìm trong một niềm vui sướng lâng lâng pha chút tê tái trong lòng, nhưng tôi không thể nói nên lời. Tôi không thể nói bất cứ điều gì đáp lại anh. Tôi chỉ nhìn anh và để anh nhìn tôi cho đến khi anh khẽ gật đầu, mím chặt môi rồi quay đi, gục đầu lên thành cửa sổ.
Top Truyện Hot Nhất
Truyện hot hiện nay
Bình luận
Sắp xếp