Kẻ Tầm Xương

Chương 37


Chương trước

7:15 PM đến 10:00 PM thứ Hai

Khi Sachs bước vào phòng anh thì mặt trời đã sắp lặn.

Cô không mặc đồ thể thao. Cũng không phải cảnh phục. Cô mặc quần bò và chiếc áo khoác màu xanh lá cây. Trên khuôn mặt xinh đẹp của cô có vài vết sẹo mà Rhyme không nhận thấy, mặc dù anh đoán với những sự kiện trong ba ngày qua thì những vết thương này không phải tự có.

“Ái chà”, cô nói trong khi đi vòng quanh phần sàn nhà nơi Stanton và Polling đã chết. Chỗ đó đã được lau sạch bằng chất tẩy rửa – khi tên tội phạm đã vào trong quan tài thì pháp y trở thành thừa thãi – nhưng vết bẩn thì thật khổng lồ.

Rhyme nhìn Sachs dừng lại và lạnh lùng gật đầu chào bác sĩ William Berger, ông ta đang đứng cạnh ô cửa sổ của con chim ưng với chiếc va li bên cạnh.

“Anh tóm được hắn rồi, đúng không?” Cô hỏi, hất đầu về phía vết máu.

“Ừ”, Rhyme nói. “Hắn toi rồi.”

“Một mình anh?”

“Cũng không công bằng lắm”, anh nói. “Anh phải cố kìm chế mình.”

Phía bên ngoài, mặt trời đang xuống thấp, đổ thứ ánh sáng rực rỡ xuống thắp sáng những ngọn cây và đường viền của những toà nhà tinh tế dọc theo Đại lộ Năm phía bên kia công viên.

Sachs liếc nhìn bác sĩ Berger, ông này nói: “Lincoln và tôi vừa có cuộc trao đổi nhỏ.”

“Đúng thế ư?”

Một khoảng im lặng thật dài.

“Amelia”, anh bắt đầu. “Anh sẽ tiến hành thôi. Anh quyết định rồi.”

“Em thấy rồi.” Đôi môi tuyệt đẹp của cô, đang bị những mũi khâu nhỏ xíu làm hỏng, hơi mím lại một chút. Đó là phản ứng duy nhất của cô. “Anh biết không, em rất ghét khi bị anh đem tên riêng ra gọi. Em rất ghét.”

Làm thế nào mà anh giải thích được cho cô biết rằng cô là lý do chính để anh chọn cái chết cho mình? Buổi sáng hôm đó, khi thức dậy và có cô bên cạnh, anh buồn bã nhận ra rằng rồi cô sẽ bước xuống giường, mặc quần áo và đi ra cửa – trở lại với cuộc sống riêng của cô, cuộc sống bình thường. Vì sao, câu chuyện tình của họ đã kết thúc – nếu như anh dám nghĩ về họ như một đôi tình nhân. Việc cô tìm thấy một anh chàng Nick khác để yêu chỉ là vấn đề thời gian. Vụ 823 đã chấm dứt, và không có nó để liên kết họ lại thì cuộc sống của họ sẽ trôi ra rất xa nhau. Điều đó là chắc chắn.

Ồ, Stanton thực sự thông minh hơn anh nghĩ. Rhyme đã bị lôi kéo tới bờ vực của thế giới thực thêm một lần nữa và, đúng thế, anh đã vượt qua nó, rất xa.

Sachs, anh nói dối đấy. Đôi khi ta không thể bỏ qua những người đã chết. Đôi khi ta phải cùng đi với họ...

Hai bàn tay nắm chặt, cô đi về phía cửa sổ. “Em đã cố gắng nghĩ ra một lý lẽ đủ mạnh mẽ để thuyết phục anh đừng làm điều đó. Anh biết đấy, một điều thực sự hấp dẫn. Nhưng em không thể. Tất cả những gì em có thể nói là em không muốn anh làm điều đó.”

“Thoả thuận là thoả thuận, Sachs ạ.”

Cô nhìn Berger. “Mẹ kiếp, Rhyme.” Bước tới phía giường, cô quỳ xuống. Cô đặt tay lên vai anh, vuốt tóc trên trán cho anh. “Nhưng anh làm cho em một việc nhé.”

“Việc gì?”

“Cho em một vài giờ.”

“Anh không thay đổi ý định đâu.”

“Em hiểu. Chỉ cần hai giờ thôi. Có một việc anh cần phải làm trước đã.”

Rhyme nhìn Berger. Ông ta nói: “Tôi không thể ở lại lâu hơn được nữa, Lincoln. Máy bay của tôi... Nếu anh muốn đợi thì một tuần nữa tôi có thể quay lại...”

“Được rồi, bác sĩ...”, Sachs nói. “Tôi sẽ giúp anh ấy.”

“Cô?” Ông bác sĩ nghi ngờ hỏi.

Cô miễn cưỡng gật đầu. “Vâng.”

Đó là bản chất của cô. Rhyme có thể thấy rất rõ điều đó. Anh nhìn vào đôi mắt xanh của cô, tràn lệ nhưng thật trong sáng.

Cô nói: “Khi em bị... khi hắn chôn sống em, Rhyme ạ, em không cử động được. Không một ly. Trong một khắc, em rất mong được chết. Không phải sống nữa, chỉ làm sao để chấm dứt điều đó. Em hiểu cảm giác của anh.”

Rhyme chậm rãi gật đầu rồi nói với Berger: “Được rồi, bác sĩ. Anh có thể để lại... Ngày nay người ta gọi là gì nhỉ?”

“Đồ dùng cá nhân được không?” Berger đề xuất.

“Ông có thể để nó trên bàn, ở đằng kia.”

“Cô chắc chứ?” Ông ta hỏi Sachs.

Cô lại gật đầu.

Người bác sĩ để những viên thuốc, chai brandy và cái túi nhựa lên chiếc bàn đầu giường. Sau đó ông ta lục lọi trong va li. “Tôi sợ tôi không có dây chun. Buộc cái túi.”

“Được rồi”, Sachs nói, nhìn xuống đôi giày của cô. “Tôi có vài sợi.”

Sau đó Berger đi lại gần giường, đặt tay lên vai Rhyme. “Tôi chúc anh tự giải thoát bình yên”, ông ta nói.

“Tự giải thoát”, Rhyme châm biếm nói khi Berger đi khỏi. Sau đó nói với Sachs: “Còn bây giờ, anh cần làm gì nhỉ?”

Cô quay xe lúc đang chạy với tốc độ năm mươi dặm một giờ, trượt mạnh trên đường và êm ả chuyển sang số bốn.

Gió thốc vào qua cửa sổ mở rộng, thổi tóc họ bay tung. Gió dữ dội nhưng Sachs chưa bao giờ nghe nói tới chuyện lái xe mà đóng cửa sổ.

“Thế thì không phải là kiểu Mỹ rồi”, cô tuyên bố và vượt ngưỡng một trăm dặm một giờ.

Khi ta di chuyển...

Rhyme cho rằng sẽ sáng suốt hơn nếu họ lái xe trong bãi tập của NYPD nhưng anh không ngạc nhiên khi Sachs tuyên bố đó là đường chạy vớ vẩn; cô đanh bại nó ngay trong tuần đầu tiên tại học viện. Vậy là họ chạy ra Long Island, câu chuyện về lý do để “đối phó” với cảnh sát Hạt Nassau của họ đã sẵn sàng, vì họ đã luyện qua và nó có vẻ đáng tin.

“Vấn đề của xe có năm số là số cao nhất không phải là số nhanh nhất. Đó là số chạy đường trường, em thì không quan tâm đến tiết kiệm xăng và đường trường”. Sau đó cô nắm lấy tay trái anh đặt chiếc núm tròn màu đen, trùm tay cô lên tay anh, về số.

Động cơ gầm lên và họ vọt lên tốc độ một trăm hai mươi dặm một giờ, những ngôi nhà và hàng cây lao qua vun vút, những con ngựa đang ăn cỏ trên cánh đồng lo lắng ngẩng lên nhìn theo vệt đen của chiếc Chevrolet đang lao qua.

“Đỉnh quá, phải không Rhyme?” Cô nói to. “Hết ý, hơn cả sex. Hơn mọi thứ”.

“Anh cảm thấy sự chuyển động”, anh nói. “Anh nghĩ là anh cảm thấy được. Ở ngón tay anh.”

Cô cười. Anh tin rằng cô siết chặt tay anh trong bàn tay cô. Cuối cùng họ cũng chạy hết đoạn đường vắng, xung quanh lại đông người. Sachs miễn cưỡng giảm tốc độ, quay xe hướng về phía vầng trăng lưỡi liềm vừa mọc trên thành phố xa xa, gần như vô hình trong không khí tháng Tám ngột ngạt.

“Thử chạy với tốc độ một trăm năm mươi xem sao”, cô đề nghị. Lincoln Rhyme nhắm mắt, thả mình vào trong gió, mùi cỏ mới cắt và tốc độ.

Đó là buổi tối nóng nhất trong tháng.

Từ điểm quan sát mới của mình, Lincoln Rhyme có thể nhìn xuống công viên, nhìn ngắm những kẻ lập dị ngồi trên ghế đá, những người chạy bộ kiệt sức, các gia đình ngồi quây quần quanh khói của chiếc bếp nướng thịt đang lụi tàn như những kẻ sống sót sau một cuộc chiến thời trung cổ.

Thom đã cho đĩa CD vào máy – khúc khoan thai bi tráng cho đàn dây của Samuel Barber[143]. Nhưng Rhyme nở một nụ cười chế giễu, tuyên bố rằng điệu nhạc này là một lời chia buồn sáo rỗng và ra lệnh cho cậu ta thay nó bằng Gershwin[144].

Amelia Sachs lên cầu thang, vào phòng ngủ của anh và nhận thấy anh đang nhìn ra ngoài. “Anh nhìn gì vậy?” Cô hỏi.

“Những người nóng bỏng.”

“Và những con chim? Lũ chim ưng?”

“À, đúng rồi, chúng nó ở kia.”

“Cũng nóng bỏng chứ?”

Anh nhìn con chim đực. “Anh không nghĩ thế. Hình như chúng nó vượt lên trên điều đó”.

Cô đặt cái túi xuống chân giường và nhấc thứ bên trong ra, một chai brandy đắt tiền. Anh nhắc cô về chai whisky Scotch nhưng cô nói cô sẽ góp phần rượu. Cô đặt nó bên cạnh những viên thuốc và cái túi nhựa. Trông như một người vợ chuyên nghiệp vui tươi, vừa từ Balducci’s[145] về nhà đem theo hàng đống rau dưa và đồ biển nhưng lại có quá ít thời gian để nấu nướng.

Cô còn mua thêm ít đá, theo yêu cầu của Ryhme. Anh nhớ Berger đã nói đến sức nóng của cái túi. Cô mở nút chai Courvoisier[146], rót cho mình một ly và đổ đầy cái cốc vại của anh, đưa ống hút vào miệng cho anh.

“Thom đâu?” Cô hỏi anh.

“Ra ngoài”

“Anh ta có biết không?”

“Có.”

Họ cùng nhấm nháp rượu.

“Anh có muốn em nhắn gì cho vợ anh không?”

Rhyme suy nghĩ một lúc lâu: chúng ta có nhiều năm để chuyện trò với ai đó, để giãi bày và khoác lác, để nói về khát vọng, sự giận dữ và những nỗi hối tiếc – và than ôi, chúng ta đã lãng phí những khoảnh khắc đó như thế nào. Còn Amelia Sachs, anh mới biết cô có ba ngày và họ đã cùng thổ lộ tâm tình nhiều hơn những gì anh và Blaine đã làm trong gần một thập kỷ.

“Không”, anh nói. “Anh đã gửi mail cho cô ấy.” Anh cười thầm. “Thực sự là một món quà của thời đại chúng ta, phải nói là như thế.”

Uống thêm một chút rượu, vị đắng se se lan tỏa trong miệng anh. Êm hơn, mờ mịt hơn, nhẹ nhàng hơn.

Sachs cúi xuống giường, chạm cốc với anh.

“Anh có một ít tiền”, Rhyme bắt đầu. “Anh chuyển cho Blaine và Thom phần lớn. Anh…”

Nhưng cô khiến anh im lặng bằng một nụ hôn lên trán và cái lắc đầu.

Có tiếng lóc cóc nhẹ nhàng của đá cuội khi cô đổ những viên Seconals nhỏ xíu ra tay.

Rhyme nghĩ một cách máy móc: Tia reagent thử màu Dille-Koppanyi. Thêm một phần trăm cobalt acetate vào chất đang khám nghiệm sau đó là năm phần trăm isopropylamine trong metanola. Nếu chất này là thuốc an thần, tia reagent sẽ chuyển sang màu xanh tím rất đẹp.

“Ta phải làm thế nào?” Cô hỏi, nhìn những viên thuốc. “Em thực sự không biết”.

“Hòa với rượu”, anh đề xuất.

Cô thả chúng vào cốc vại của anh. Chúng nhanh chóng tan ra.

Chúng thật mong manh. Như những giấc mơ mà chúng tạo ra.

Cô dùng ống hút khuấy cho tan. Anh nhìn những móng tay xướt xát của cô nhưng điều đó cũng không làm anh buồn. Đêm nay là đêm của anh, và đó là đêm của niềm vui.

Bất chợt Lincoln Rhyme nhớ lại thời thơ ấu của mình, ở ngoại ô Illinois. Anh chẳng bao giờ uống sữa. Mẹ đã phải mua cho anh ống hút tráng mùi bên trong để dỗ anh uống. Mùi dâu tây, mùi chocolate. Anh không nghĩ đến chúng cho tới lúc này. Đó là một phát minh vĩ đại, anh nhớ lại. Anh luôn chờ suất sữa buổi chiều của mình.

Sachs đẩy ống hút đến gần miệng anh hơn. Anh ngậm nó vào môi. Cô đặt tay lên tay anh.

Ánh sáng hay bóng tối, âm nhạc hay sự im lặng, những giấc mơ hay sự nhập định của giấc ngủ không mộng mị? Ta sẽ thấy gì?

Anh bắt đầu uống. Vị chẳng có gì khác với rượu thường. Có thể hơi đắng hơn một chút. Nó giống như…

Phía dưới nhà có tiếng đập cửa thình thình. Dùng cả chân lẫn tay, có lẽ thế. Cả tiếng người la hét.

Anh nhả ống hút. Nhìn ra phía cầu thang.

Cô nhìn anh, nhăn mặt.

“Em ra ngoài xem thế nào”, anh nói với cô.

Cô biến mất dưới cầu thang và một khắc sau đã quay lại, trông có vẻ không vui. Lon Sellitto và Jerry Banks theo sau. Rhyme nhận thấy viên thám tử trẻ lại làm trò đồ tể trên mặt anh ta bằng dao cạo râu. Chắc chắn là anh ta cần học cách kiểm soát nó.

Sellitto nhìn cái túi và cái chai. Ánh mắt anh ta quay sang Sachs, nhưng cô khoanh tay nhìn lại, thầm ra lệnh cho ông ta ra về. Đây không phải vấn đề cấp bậc, cái nhìn nói với viên thám tử rằng điều đang diễn ra ở đây không phải việc của ông ra. Mắt Sellitto nhận thông điệp, nhưng ông ta không hề có ý định bỏ đi.

“Lincoln, tôi cần nói chuyện với anh.”

“Nói đi, nhưng nhanh lên, Lon. Chúng tôi đang bận.”

Viên thám tử nặng nề ngồi xuống cái ghế mây. “Một giờ trước, một quả bom đã phát nổ tại trụ sở Liên Hiệp Quốc. Ngay cạnh phòng tiệc. Trong bữa tối chào đón các đại biểu của hội nghị hòa bình.”

“Sáu người chết, năm mươi tư người bị thương”, Banks nói thêm. “Hai mươi người trong số họ bị thương rất nghiêm trọng.”

“Trời ơi”, Sachs thầm thì.

“Kể cho anh ấy đi”, Sellitto lầm bầm.

Banks tiếp tục: “Liên Hiệp Quốc đã thuê khá nhiều nhân viên thời vụ phục vụ hội nghị. Tội phạm là một trong số họ – một nhân viên tiếp tân. Khoảng nửa tá nhân chứng nhìn thấy cô ta đeo một cái ba lô đi làm và để nó trong kho cạnh phòng tiệc. Cô ta để nó ở đấy, trước khi có tiếng nổ. Đội công binh cho rằng phải có tới hai cân C4 hay Semtex”.

Sellitto nói: “Linc, quả bom, đó là một cái ba lô màu vàng, nhân chứng nói như vậy.”

“Màu vàng? Sao nghe quen thế nhỉ?”

“Bộ phận nguồn lực của Liên Hiệp Quốc nhận định nhân viên tiếp tân đó là Carole Ganz.”

“Người mẹ”, Rhyme và Sachs đồng thanh.

“Đúng thế. Người phụ nữ được các vị cứu trong nhà thờ. Có điều Ganz là tên giả. Tên thực của ả là Charlotte Willoughby. Ả là vợ Ron Willoughby. Có thấy gì không?”

Rhyme nói không.

“Tin này được đưa khoảng hai năm trước. Anh ta là trung sĩ quân đội, được giao nhiệm vụ phục vụ trong lực lượng gìn giữ hòa bình của Liên Hiệp Quốc tịa Miến Điện”.

“Tiếp đi”, nhà hình sự học nói.

“Willoughby không muốn đi – anh ta nghĩ một người Mỹ không nên mặc quân phục UN và không nhận mệnh lệnh từ bất kỳ ai ngoài Quân đội Mỹ. Ngày nay nó là vấn đề cánh hữu rất lớn. Chưa được một tuần thì anh ta đã bị một tên du côn ở Rangoon bắn chết. Bị bắn vào lưng. Anh ta trở thành người tử vì đạo của phe bảo thủ. Bên chống khủng bố nói là vợ anh ta đã được một nhóm quá khích ở ngoại ô Chicago chiêu mộ. Vài sinh viên tốt nghiệp Đại học Chiacago hoạt động bí mật. Edward và Katherine Stone”.

Banks tiếp tục câu chuyện. “Chất nổ được giấu trong gói đất nặn trẻ em, cùng với những thứ đồ chơi khác. Chúng tôi nghĩ ả sẽ đem cô bé theo cùng để nhân viên an ninh ở lối vào phòng tiệc không để tâm đến đất nặn. Nhưng Pammy vẫn ở trong bệnh viện nên ả không còn vỏ bọc, ả đã bỏ qua phòng tiệc và để nó trong nhà kho. Nhưng như thế cũng đã đủ thiệt hại rồi.”

“Thoát rồi à?”

“Đúng thế. Không để lại một dấu vết.”

“Đứa bé con thì sao?” Sachs hỏi. “Pammy?”

“Đi rồi. Ả đã cho cô bé xuất viện đúng lúc vụ nổ xảy ra. Không có dấu vết gì của họ.”

Rhyme nói: “Còn nhóm khủng bố?”

“Nhóm ở Chicago? Chúng cũng biến mất. Có một hang ổ ở Wisconsin[147] nhưng nó cũng đã bị xóa sạch. Chúng ta không biết chúng ở đâu.”

“Thế thì đó là tin đồn mà đặc tình của Dellray nghe được”. Rhyme cười. “Carole là người tới sân bay. Chẳng liên quan gì đến thủ phạm 823”.

Anh thấy Sellitto và Banks đang nhìn mình chằm chằm.

Ồ, lại là cái trò im lặng này.

“Quên đi, Lon.” Rhyme nói, cảm nhận thật rõ ràng cái cốc bên cạnh mình, đang tỏa hơi ấm đón chào. “Không được đâu.”

Viên thám tử lớn tuổi kéo chiếc áo phông, vẻ khúm núm. “Mẹ kiếp, ở đây sao lạnh thế, Lincoln. Chúa ơi, cậu thử nghĩ xem. Có hại gì đâu?”

“Tôi không giúp được đâu.”

Sellitto nói: “Có một tin nhắn. Carole viết và gửi tới Tổng thư ký trong phong bì nội bộ. Lải nhải về việc chính phủ thế giới đang tước bỏ quyền tự do của Mỹ. Những thứ vớ vẩn kiểu thế. Nhận trách nhiệm về vụ đánh bom ở London và nói sẽ có thêm những vụ khác. Ta cần tóm chúng, Linc.”

Banks mặt sẹo nói, tỏ vẻ quan trọng: “Cả Tổng thư ký và Thị trưởng đều mời anh. SAC Perkins nữa. Nếu anh cần thuyết phục thêm, sẽ có người từ Nhà Trắng gọi tới. Nhưng chúng tôi chắc là anh không cần, phải không thám tử?”

Rhyme không nhận xét gì về sai lầm liên quan đến chức vụ của anh.

“Nhóm PERT của Cục cũng đã sẵn sàng. Fred Dellray nắm vụ này và anh ta mời – trân trọng, anh ta dùng đúng từ ấy – anh ta trân trọng mời anh phụ trách vấn đề pháp y. Hiện trường vụ án thì vẫn còn y nguyên, ngoại trừ việc người ta đã đưa những người bị thương đi.”

“Thế thì nó không còn nguyên vẹn nữa”, Rhyme cáu kỉnh. “Cực kỳ ô nhiễm rồi.”

“Càng có thêm lý do để chúng tôi cần anh”, Banks liều mạng, thêm câu “thưa ngài” để xoa dịu cái nhìn của Rhyme.

Rhyme thở dài, nhìn cái ly và ống hút. Sự bình yên đã tới quá gần. Và cả đau đớn. Vô hạn.

Anh nhắm mắt. Trong phòng không một tiếng động.

Sellitto nói: “Nếu chỉ có mình ả thì không sao. Nhưng ả còn có cô bé nữa, Lincoln. Hoạt động bí mật, với một bé gái? Anh có biết là cuộc đời cô bé sẽ ra sao không?”

Anh sẽ chết với tôi vì câu này đấy, Lon.

Ryhme tựa đầu xuống gối. Cuối cùng anh mở bừng mắt. Anh nói: “Sẽ phải có vài điều kiện”

“Nói đi, Linc.”

“Thứ nhất”, anh nói. “Tôi không làm việc một mình.”

Rhyme nhìn về phía Amelia Sachs.

Cô ngần ngừ một thoáng, sau đó mỉm cười và đứng dậy, nhấc cốc brandy pha thuốc lên. Cô mở rộng cửa sổ, hắt thứ chất lỏng màu vàng nâu vào làn không khí nóng nực, chín nẫu phía bên trên con ngõ cạnh tòa nhà. Trong lúc ấy, chỉ cách đó vài feet, con chim ưng ngẩng lên, nghiêng đầu giận dữ nhìn cử động của cánh tay cô, rồi quay lại cho những đứa con đang đói meo của nó ăn.

PHỤ LỤC

Trích từ: Từ điển thuật ngữ, Lincoln Rhyme, Chứng cứ vật lý, xuất bản lần thứ tư. New York: Forensic Press, 1994. Đã được phép in lại.

Nguồn sáng thay thế (ALS): Bất kỳ loại bóng đèn nào có cường độ sáng cao với bước sóng và màu sắc ánh sáng khác nhau, được sử dụng để hiển thị những dấu vân tay ẩn, một số loại dấu tích và chứng cứ sinh học.

Hệ thống nhận dạng dấu vân tay tự động (AFIS): Một trong những hệ thống được máy tính hóa để quét và lưu trữ dấu vân tay.

Birefringence (khúc xạ đúp): Sự khác biệt giữa hai giá trị khúc xạ do một số loại tinh thể hiển thị. Có ích trong việc nhận dạng cát, sợi và bụi bẩn.

Thẻ đăng ký vật chứng (COC): Một bản ghi chú của những người đã sở hữu một vật chứng từ lúc thu được nó lên hiện trường vụ án cho tới khi đưa nó ra tòa.

COD: Nguyên nhân tử vong.

Mẫu đối chứng: Vật chứng thu được tại hiện trường vụ án từ những nguồn đã biết, được sử dụng để so sánh với vật chứng từ một nguồn chưa biết. Ví dụ: máu, lông, tóc của nạn nhân là mẫu đối chứng.

DCDS: Chết tại hiện trường.

Kiểu thử biến thiên mật độ (D-G): Một kỹ thuật so sánh các mẫu đất để xác định xem chúng có xuất xứ từ một nơi hay không. Phép đo bằng cách thả những mẫu đất vào các ống chứa chất lỏng có giá trị mật độ khác nhau.

Nhận dạng DNA: Phân tích và lập biểu đồ cấu trúc gen trong tế bào của những loại chứng cứ sinh học nhất định (ví dụ: máu, tóc, tinh dịch) nhằm mục tiêu so sánh với mẫu đối chứng từ nghi phạm đã biết. Quy trình bao gồm tách và so sánh các đoạn DNA – deoxyribonucleic acid – đơn vị tạo dựng cơ bản của nhiễm sắc thể. Một số loại nhận dạng DNA đưa ra xác suất chứng cư xuất phát từ một cá nhân nhất định chỉ bằng vài phần trăm triệu. Còn được gọi là “nhận dạng gen” – hay còn bị gọi sai là “lấy vân tay DNA” hay “lấy vân tay gen”.

Nhà nhân chứng học pháp y: Một chuyên gia về khung xương, trợ giúp các nhà điều tra hiện trường vụ án trong việc đánh giá và nhận dạng hài cốt, khai quật mộ.

Nha sĩ pháp y: Một chuyên gia răng miệng, hỗ trợ các nhà điều tra hiện trường vụ án trong việc nhận dạng nạn nhân nhờ nghiên cứu những di cốt của răng và phân tích các chứng cứ vết cắn.

Vân: Những đường nổi lên của da trên ngón tay, bàn tay và bàn chân, mỗi người có hình dáng vân riêng biệt, duy nhất. Những dấu vân tại hiện trường vụ án có thể được phân loại thành: (1) nhựa (để lại trên các vật thể dễ bị ảnh hưởng như mát tít); (2) vật chứng (do da bị phủ các chất lạ như bụi hay máu để lại); (3) ẩn (do da bị dính chất nhờn của cơ thể như dầu hay mồ hôi để lại, thường không thấy được bằng mắt thường).

Sắc ký khí/phổ kế khối lượng (GC-MS): Hai thiết bị được sử dụng trong phân tích pháp y để xác định các chất chưa biết như ma túy hay vật chứng đã tồn tại. Chúng thường được kết nối với nhau. Sắc ký khi tách các thành phần của chất, sau đó đưa chúng sang phổ kế khối lượng, thiết bị này xác định chính xác từng thành phần.

Lưới: Cách phổ biến được sử dụng để tìm kiếm chứng cớ, theo đó nhân viên tìm kiếm khắp hiện trường theo một chiều (ví dụ từ trên xuống dưới), sau đó đi khắp hiện trường theo hướng vuông góc (tây – đông).

Tàn thuốc súng (GSR): Vật chất – cụ thể là barium và antimony – rơi rớt trên tay và quần áo của người bắn súng. GSR sẽ ở lại trên da người trong vòng sáu tiếng nếu không bị cố tình rửa trôi hay vô ý cọ sạch bởi sự tiếp xúc quá mức khi tội phạm bị bắt, bị còng (rủi ro cao hơn nếu tay bị còng ra sau lưng).

Nhận dạng vật chứng: Xác định loại hay lớp vật chất của một chứng cứ. Khái niệm này khác với “nhận dạng cá thể” là việc xác định nguồn duy nhất của vật chứng. Ví dụ, một mẩu giấy báo được tìm thấy tại hiện trường vụ án có thể được nhận dạng là loại giấy in họa báo nhưng có thể được nhận rõ là một mẩu trùng khớp với phần bị mất từ một trang bị xé trong một số nhất định của một tờ họa báo của nghi phạm. Nhận dạng cá thể, tất nhiên có giá trị chứng minh khác với nhận dạng vật chứng.

Nhận dạng cá thể: Xem “Nhận dạng vật chứng”

Vết xám: Phần da nạn nhân đã tử vong bị thâm tím, biến màu do máu bị đông và sẫm lại sau khi chết.

Nguyên tắc trao đổi của Locard: Được Edmond Locard, một nhà hình sự học người Pháp đưa ra. Lý thuyết này cho rằng luôn có sự trao đổi vật chứng giữa tội phạm và hiện trường vụ án hay nạn nhân, bất kể chứng cứ này có thể là nhỏ bé hay khó phát hiện đến đâu.

Phổ kế khối lượng: Xem “Sắc ký khí”.

Ninhydrin: Hóa chất làm hiển thị dấu vân ẩn trên những bề mặt xốp như giấy, bìa và gỗ.

Vật chứng (PE): Trong luật hình sự, PE tham chiếu tới những thực thể được trình tại tòa để hỗ trợ khẳng định của bị đơn hay công tố viên về việc một tuyên bố nào đó là đúng sự thật. Vật chứng bao gồm: các đối tượng vô tri vô giác, các chất của cơ thể và các dấu ấn (như dấu tay).

Thử máu có cơ sở: Số lượng bất kỳ các kỹ thuật hóa học sử dụng để xác định có máu vương tại hiện trường hay không, ngay cả trong trường hợp mắt thường không nhìn thấy được. Những phép thử phổ biến nhất là dùng luminol và orthotolidine.

Kính hiển vi điện tử quét (SEM): Một thiết bị bắn các hạt electron vào mẫu vật chứng cần nghiên cứu và chiếu hình ảnh thu được lên màn hình máy tính. Với SEM, có thể nhận được độ phóng đại mười vạn lần so với độ phóng đại năm trăm lần của kính hiển vi thông thường. SEM thường được gắn khối tia X tán sắc năng lượng (EDX), có thể xác định được các chất có trong mẫu khi kỹ thuật viên quan sát.

Dàn cảnh: Nỗ lực của tội phạm nhằm sắp xếp lại, thêm hay bỏ bớt chứng cứ khỏi hiện trường vụ án để tạo ấn tượng rằng tội ác do hắn hay do ai đó khác gây ra sẽ không thể tìm thấy.

Chứng cứ dấu tích: Những mẩu vật chất nhỏ, đôi khi siêu nhỏ như bụi, chất xơ và sợi.

Đối tượng: Nghi phạm chưa được xác định.

Máy làm lắng chân không kim loại (VMD): Phương tiện hữu hiệu nhất hiển thị dấu vân ẩn trên những bề mặt nhẵn. Vàng hay kẽm được làm bốc hơi trong một buồng chân không bao bọc một lớp kim loại mỏng lên đối tượng cần được quan sát, do đó làm hiển thị dấu vân.

GHI CHÚ CỦA TÁC GIẢ

Tôi mang ơn Peter A. Micheels, tác giả cuốn The Detectives – và E. W. Count, tác giả cuốn Cop Talk, những cuốn sách của họ không chỉ hữu ích cho tôi khi nghiên cứu mà còn là những cuốn sách tuyệt hay. Cảm ơn Pam Dorman, sự biên tập khéo léo của anh có mặt khắp nơi trong câu chuyện này. Và tất nhiên, cảm ơn người đại diện của tôi, Deborah Schneider… Nếu thiếu chị thì tôi có thể làm được gì đây? Tôi chân thành cảm ơn Nina Salter ở Calmann-Lévy vì những nhận xét của cô trong những bản thảo đầu tiên của cuốn sách này, và cảm ơn Karolyn Hutchinson tại REP ở Alexandria, Virginia vì sự giúp đỡ vô giá liên quan đến xe lăn và những thiết bị khác dành cho người bị liệt. Tôi cũng muốn gửi lời cảm ơn tới Teddy Rosenbaum – bản thân cô cũng là một thám tử – vì công việc biên tập của cô. Các sinh viên nghiên cứu về thực thi pháp luật có thể băn khoăn về cấu trúc của NYPD và FBI được giới thiệu trong cuốn sách này; việc thay đổi sơ đồ tổ chức hoàn toàn do tôi tự làm. À, tất nhiên – nếu ai đó muốn đọc cuốn Crime in Old New York có thể sẽ gặp đôi chút khó khăn để tìm được nó. Đây là một tác phẩm hư cấu, dù tôi có được nghe nói tới sự tồn tại của một cuốn như thế nhưng đã bị ăn trộm khỏi Thư viện Công cộng New York – bởi một hay vài người chưa rõ danh tính.

Jeffery Deaver

* * *

[1] Upper West Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm và sông Hudson. (Các chú thích là của người dịch)

[2] Dặm: Một dặm tương đương với 1,6km; ở đây tương đương với một trăm km một giờ.

[3] Midtown: Là một trong ba phân khu chính của khu Manhattan, Thành phố New York.

[4] Feet: Số nhiều của foot, một foot tương đương với 30,48cm, ở đây là khoảng 10m.

[5] CS: Khám nghiệm hiện trường.

[6] Bungee-jumping: Môn thể thao mạo hiểm, người chơi buộc dây đàn hồi vào người và nhảy từ một vị trí cao xuống.

[7] JFK: Sân bay quốc tế John F. Kennedy ở New York.

[8] CNN (viết tắt của Cable News Netwowk): Kênh truyền hình cáp tin tức nổi tiếng của Mỹ.

[9] IRD (viết tắt của Investigation and Resource Division), là bộ phận Điều tra và Nguồn lực, thuộc Sở cảnh sát New York.

[10] Cliffhanger: Cheo leo vách núi, tên một bộ phim.

[11] Morgan Stanley: Một công ty dịch vụ tài chính toàn cầu ở Thành phố New York.

[12] Martha Stewart: Chủ bút một tờ báo gia đình, một kiểu chị Thanh Tâm ở Mỹ.

[13] The Scences of the Crime: Những hiện trường vụ án.

[14] ROM: Một dạng bài tập kéo dãn cơ.

[15] ECU (viết tắt của Environment Control Unit): Thiết bị Điều khiển Môi trường.

[16] SOB (viết tắt của Son of a Bitch): Một cách nói khinh bỉ về cơ quan trước đó của Rhyme.

[17] Katherine Anne (Katie) Couric: Sinh năm 1975 tại Arlington, Virginia, một nhà báo, phát thanh viên nổi tiếng ở Mỹ.

[18] BQE: Đường cao tốc Brooklyn-Queen ở New York.

[19] Yale: Đại học Yale, nơi Banks tốt nghiệp; đây là một cách nghĩ chế nhạo về Banks.

[20] Công ty Everest & Jennings: Một công ty chế tạo giường bệnh và hệ thống hỗ trợ của Rhyme.

[21] CRC Press: Tên một nhà xuất bản chuyên về Pháp y.

[22] Pound: Một pound tương đương với 453,59g. Ở đây tương đương với bảy mươi lăm kg.

[23] NYPD (viết tắt của New York Police Department): Sở Cảnh sát New York.

[24] SCI (viết tắt của Spinal Cord Injury): Chấn thương cột sống.

[25] Con đường An lạc, Hội Độc cần: Tên của những hội ủng hộ việc chết theo ý muốn.

[26] FBI (viết tắt của Federal Bereau of Investigation): Cục Điều tra Liên bang Mỹ.

[27] Chinatown: Khu phố của người Trung Quốc ở New York.

[28] PERT: Nhóm Phản ứng Vật chứng.

[29] Inch: Một icnh tương đương với 2.54 cm.

[30] ALS: Xem phần phụ lục.

[31] Ninhydrin: Xem phần phụ lục.

[32] PE (viết tắt của Physical Evidence): Vật chứng – Xem phần phụ lục.

[33] Amiăng: Tên một nhóm các khoáng chất có trong tự nhiên dưới dạng sợi và được sử dụng trong một số ngành công nghiệp.

[34] Hornblende: Tên một loại khoáng chất.

[35] CSU (viết tắt của Crime Scene Unit): Đơn vị Khám nghiệm Hiện trường.

[36] Đại Bản Doanh (nguyên văn là Big Building): Cách gọi One Police Plaza (sở chỉ huy của Sở Cảnh sát New York) của cảnh sát New York.

[37] Stalactite: Thạch nhũ.

[38] Sears: Một thương hiệu bình dân.

[39] ESU (viết tắt của Emergency Services Unit): Đơn vị Phản ứng nhanh.

[40] SWAT (viết tắt của Special Weapon And Tactics): Đội Chiến thuật và Vũ khí Đặc nhiệm.

[41] Nighthawks: Đại bàng đêm, tác giả Edward Hopper (1882 – 1967), một họa sĩ nổi tiếng người Mỹ.

[42] S&S: Tìm kiếm và giám sát.

[43] HRT (viết tắt của Hostage Rescue Team): Nhóm Giải cứu con tin.

[44] Paul Leland Kirk (1902 – 1970): Nhà hóa học, nhà khoa học pháp lý nổi tiếng của Mỹ.

[45] Quả Táo Lớn: Tên lóng của New York.

[46] EDTA: Tên viết tắt của hợp chất hóa học ethylenediaminetetraacetic acid.

[47] BAFT (viết tắt của Bereau of Alcohol, Tobacco, Firearms and Explosives): Cục Phụ trách các vấn đề về rượu, thuốc lá, vũ khí và chất nổ, một tổ chức của chính phủ Mỹ.

[48] EPA (viết tắt của Environmental Protection Agency): Cục Bảo vệ Môi trường.

[49] Sam Spade: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.

[50] Kojak: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.

[51] Jury Garland: Tên của những nhân vật thám tử trên truyền hình hay truyện tranh.

[52] Jessica Beatrice Fletcher: Một nhân vật hư cấu trong series chương trình truyền hình của Mỹ: Murder, she wrote.

[53] EDX (viết tắt của Energy dispersive X-ray spectroscopy): Một phương pháp phân tích trong ngành hóa học.

[54] GC-MS: Xem phần phụ lục.

[55] Pearl: Ngọc trai.

[56] RRV (viết tắt của Rapid Response Vehicles): Những chiếc xe phản ứng nhanh.

[57] Howard Robard Hughes (1905 – 1976): Phi công, nhà tư bản công nghiệp, đạo diễn, nhà sản xuất phim nổi tiếng người Mỹ.

[58] CP (viết tắt Commanding Post): Trạm chỉ huy

[59] 10-84: Tên một mẫu biểu thủ tục hành chính cảnh sát.

[60] DCDS: Xem phần phụ lục.

[61] Món thịt gà của Tướng Tso: Đây là món gà chiên ngọt tẩm gia vị thường thấy tại các nhà hàng Trung Quốc ở Mỹ. Có một giả thuyết không chắc chắn cho rằng, tên gọi của món ăn này xuất phát từ câu chuyện: vợ của Tướng Tso – tên là Zuo Zongtang (1812-1885), một vị tướng người Hồ Nam dưới triều nhà Thanh – đã chế biến món ăn này, dâng lên chồng mình và các cộng sự của ông, nó trở thành đặc sản của tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc.

[62] Morgen: Ngày mai (tiếng Đức).

[63] Mein Gott: Lạy Chúa (tiếng Đức).

[64] Früh morgens: Sớm sủa lắm (tiếng Đức).

[65] Wisk: Tên một loại bột giặt.

[66] Irgendwas stimmt hier nicht: Có gì đấy không ổn (tiếng Đức).

[67] Oasis (Ốc đảo): Một nhóm nhạc rock của Anh.

[68] Gottverdammte: Chết tiệt (tiếng Đức).

[69] Nein: Không (tiếng Đức).

[70] Hilfe: Cứu tôi (tiếng Đức).

[71] Nein, bitte nicht: Làm ơn, đừng (tiếng Đức).

[72] Ming Wa: Một nhà hàng Trung Quốc ở Alhambra.

[73] Rocky Raccoon: Chồn Đá, một bài hát nổi tiếng của The Beatles.

[74] WNYC: Đài phát thanh và Truyền hình Công cộng Thành phố New York.

[75] Crime in Old New York: Tội phạm ở New York.

[76] Kommen Sie mit mir mit: Đi với tôi (tiếng Đức).

[77] Mein Name ist micht Hanna: Tao không phải Hanna (tiếng Đức).

[78] Thước (yard): Thước Anh, tương đương với 0,914m.

[79] So nicht: Thôi đi (tiếng Đức).

[80] Edward Henry Weston (1886 - 1958): Nhiếp ảnh gia nổi tiếng người Mỹ.

[81] Dieser Schmerz: Đau quá (tiếng Đức).

[82] Vorwärts: Lên đi (tiếng Đức).

[83] Bitte, helfen Sie mir: Cứu tôi với (tiếng Đức).

[84] Bitte: Giúp tôi (tiếng Đức).

[85] Judas: Tên một nhân vật trong Kinh Thánh, kẻ phản bội Chúa Jesus. Ở đây ám chỉ kẻ phản bội.

[86] ATF: Viết tắt của BATF.

[87] Dashiell Hammet (1894 – 1961): Một nhà văn người Mỹ nổi tiếng với tiểu thuyết trinh thám và truyện ngắn. Ông được coi là cây bút viết truyện thám xuất sắc mọi thời đại.

[88] DEA: Cơ quan phòng chống ma tuý.

[89] Und: Và (tiếng Đức).

[90] Was: Cái gì (tiếng Đức).

[91] Das Nummernschild: Loại xe (tiếng Đức).

[92] Vielen Dark: Cảm ơn nhiều (tiếng Đức).

[93] Danke schön: Cảm ơn (tiếng Đức).

[94] Dustbuster: Tên một loại máy bút hụi cầm tay.

[95] Jekyll và Hyde: Hai nhân vật trong tiểu thuyết của nhà văn Louis Stevenson. Nói về sự rối loạn đa nhân cách của con người.

[96] Oedip: Hay còn gọi là Hội chứng Oepidus theo lý thuyết của nhà tâm lý học người Áo Zigmud Freud. Hội chứng này được đặt tên theo tên nhân vật Oedipus trong thần thoại Hy Lạp. Đây là nhân vật đã giết cha mình là Laius, và kết hôn với mẹ mình, Jocasta. Theo lý thuyết này, hội chứng đó thường xuất hiện trong giai đoạn trẻ từ ba đến năm tuổi. Đứa trẻ sẽ cảm thấy ham muốn về giới tính đối với mẹ, là người khác giới và mong muốn cái chết của cha, là người cùng giới.

[97] Zodiac: Tên lóng của những tên giết người hàng loạt nổi tiếng ở Mỹ.

[98] Thả xu gọi điện (tiếng lóng): ý nói người nào chỉ điểm.

[99] Pony Express: Nói kháy, một dịch vụ bưu chính xa xưa của Mỹ, dùng ngựa Pony để vận chuyển.

[100] SOP: Quy trình làm việc tiêu chuẩn.

[101] Texas Chainsaw: Cưa máy Texas, một bộ phim kinh dị.

[102] MO (viết tắt của Modus Operandi): Hoạt động.

[103] AFIS: Xem phần phụ lục.

[104] Dick: dương v*t.

[105] Señor Ortega: Ngài Ortega.

[106] 13-43: Mẫu đơn Khiếu nại, được dùng như một động từ.

[107] COC: Xem phần phụ lục.

[108] DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông.

[109] New York DMV: Cơ quan Quản lý Phương tiện Giao thông New York.

[110] ETA: Dự kiến thời gian đến nơi.

[111] SEM: Xem phần phụ lục.

[112] Smithsonian: Cơ sở đào tạo quốc gia của Mỹ, với nhiều viện nghiên cứu và bảo tàng.

[113] Tốc độ tám mươi: Hơn một trăm năm mươi km một giờ.

[114] Prozac: Một loại thuốc giảm đau.

[115] Imipramine: Một loại thuốc an thần.

[116] Robert Mario De Niro, Jr.: Nam diễn viên đã hai lần giành được giải thưởng của Viện Hàn lâm Điện ảnh Mỹ, đạo diễn, nhà sản xuất phim. Ông được coi là một trong những diễn viên vĩ đại và có ảnh hưởng nhất mọi thời đại.

[117] Tovex: Một loại chất nổ dạng gel nước.

[118] Mr. Potato Head: Một loại đồ chơi của Mỹ gồm một mô hình củ khoai tây bằng nhựa có thể được trang trí bằng những bộ phận khác nhau như tai, mắt để tạo ra một khuôn mặt. Đồ chơi này được George Lerner sáng chế năm 1949, do Công ty Hasbro sản xuất và phân phối lần đầu tiên vào năm 1952.

[119] Upper East Side: Một khu vực thuộc Manhattan, New York, nằm giữa Công viên Trung tâm ở sông Đông.

[120] Crystal Palace: Cung điện Pha Lê, một địa danh ở New York.

[121] Annie Oakley: Nữ diễn viên, xạ thủ người Mỹ đầu thế kỷ XX.

[122] C4: Đốt sống C4.

[123] Clara Barton (1821 – 1912): Nữ y tá người Mỹ, nhà nhân đạo, người sáng lập Hội Chữ thập đỏ Mỹ.

[124] ICC (viết tắt của International Criminal Court): Tòa án Hình sự Quốc tế, một tòa án xử tội phạm chiến tranh, tội phạm chống nhân loại và diệt chủng.

[125] Hộp đêm S&M: Hộp đêm ở đó có các trò bạo dâm và khổ dâm.

[126] BMW: Một thương hiệu xe nổi tiếng của Đức.

[127] Nguyên văn: Tower Records: Chuỗi cửa hàng bán băng đĩa.

[128] Levi Stabbs (tên thật là Levi Stubbles): Sinh năm 1936, một ca sĩ người Mỹ, được biết tới như ca sĩ chính của nhóm nhạc R&B The Four Tops nổi tiếng của Motown.

[129] Four Tops: Nhóm tứ tấu vocal Mỹ, hát các thể loại doo-wop, jazz, nhạc soul, R&B, disco, nhạc hiện đại và nhạc trình diễn.

[130] Storm Arrow: Mũi tên Bão táp.

[131] Lột da – Flail (vụt) và flay (lột da): Từ đồng âm khác nghĩa, một cách chơi chữ.

[132] Feldspar: Tên của nhóm các khoáng chất tạo thành đá và tạo thành sáu mươi phần trăm lớp vỏ Trái Đất.

[133] Austen: (1775 – 1817): Tiểu thuyết gia người Anh. Xã luận và cách sử dụng điệu nghệ ngôn ngữ tự do gián tiếp và mỉa mai đã làm cho Austen trở thành một trong những tiểu thuyết gia được tôn trọng và có ảnh hưởng lớn nhất trong văn học Anh.

[134] Dreiser: Theodore Herman Albert Dreiser (1871 – 1945), tác giả người Mỹ thuộc trường phái tự nhiên, nổi tiếng vì sự gai góc, mạnh bạo.

[135] Rottweiler: Một giống chó lớn có nguồn gốc từ Đức.

[136] Doberman: Một giống chó địa phương (Mỹ).

[137] Brokaw (Thomas John Brokaw – sinh năm 1940 tại Webster, South Dakota): Phóng viên truyền hình nổi tiếng người Mỹ. Trước đó làm các bộ phim tài liệu tin tức được chiếu thường xuyên cho mạng truyền hình NBC, cựu phát thanh viên của NBC News, tổng biên tập chương trình NBC Nightly News with Tom Brokaw.

[138] Bob Evans: Một công ty dịch vụ, xử lý và bán lẻ thực phẩm có trụ sở chính tại Columbus, Ohio. Công ty điều hành hai chuỗi nhà hàng ăn tối ở Mỹ, gồm có Bob Evans Restaurants và Mimi.

[139] Bryan Gumbel (Bryan Charles Gumbel): Một nhân vật trên truyền hình Mỹ cho các chương trình tin tức và thể thao. Ông ta nổi tiếng với mười lăm năm làm việc như người đồng dẫn chương trình The Today Show của đài NBC.

[140] Kevorkian (Jack Kevorkian): Ông được ghi nhận là người công khai tuyên truyền cho quyền được chết của bệnh nhân thập tử nhất sinh thông qua cái chết nhẹ nhàng, ông tuyên bố đã hỗ trợ ít nhất một trăm ba mươi bệnh nhân làm việc này. Câu nói nổi tiếng của ông là: “Chết không phải là phạm tội.”

[141] Matlock: Chương trình truyền hình pháp luật của đài ABC, Mỹ.

[142] Thợ may: Tailor, đọc như Taylor, có nghĩa là thợ may.

[143] Samuel Osborne Barber (1910 – 1981): Nhà soạn nhạc opera, nhạc cho piano và nhạc giao hưởng người Mỹ.

[144] George Gershwin (1898 – 1937): Nhà soạn nhạc và nghệ sĩ dương cầm người Mỹ.

[145] Balducci’s: Một trong những công ty thực phẩm đặc biệt lớn nhất ở Mỹ với mười cửa hàng thực phẩm, bốn nhà hàng và có di sản từ năm 1916.

[146] Courvoisier: Một loại rượu cô nhắc.

[147] Wisconsin: Một bang nằm gần trung tâm lục địa Bắc Mỹ.


Bình luận
Sắp xếp
    Loading...