Kẻ Tầm Xương
Chương 26
“Tiếp đi”, anh khuyến khích.
“Anh chàng mà em đã kể với anh? Bọn em định cùng nhau mua một căn hộ.”
“Ồ, cùng với một con chó giống collie. Em không nói đó là một anh chàng. Bạn trai của em à?”
Người tình bí mật? Rhyme băn khoăn.
“Anh ấy đã từng là bạn trai của em.”
“Anh đã nghĩ có thể đó là người cha đã mất của em.”
“Không. Đúng là cha em đã mất – ba năm trước. Bị ung thư. Nhưng gia đình em biết điều đó sẽ đến. Nếu điều đó làm em phải sẵn sàng thì em nghĩ em đã sẵn sàng. Nhưng còn Nick…”
“Anh ấy bị giết?” Rhyme dịu dàng hỏi.
Nhưng cô không trả lời. “Nick Carelli. Một người trong hàng ngũ của chúng ta. Một cảnh sát. Một thám tử, cấp ba. Làm việc trong nhóm Tội phạm Đường phố.”
Cái tên nghe quen quen. Rhyme không nói gì để cô tiếp tục.
“Bọn em sống với nhau một thời gian. Đã nói đến chuyện hôn nhân.” Cô ngừng lại, có vẻ như đang sắp xếp lại ý nghĩ như sắp xếp lại các tấm bia trong trường bắn. “Anh ấy là mật vụ. Vì thế bọn em giữ bí mật về mối quan hệ của mình. Anh ấy không thể để tin đồn lan trên phố rằng bạn gái anh ấy là cảnh sát.” Cô hắng giọng. “Rất khó giải thích. Anh biết không, bọn em có… một thứ đó giữa hai người. Đó là… điều đó không thường xuyên xảy ra với em. Quỷ thật, điều đó chưa bao giờ xảy ra trước Nick. Bọn em có mối quan hệ thực sự sâu sắc. Anh ấy biết em phải làm cảnh sát và đó không phải là vấn đề đối với anh ấy. Em cũng nghĩ như vậy về công việc cớm chìm của anh ấy. Như một dạng… bước sóng. Anh biết đấy, như lúc anh vừa hiểu được hoàn toàn về một người nào đó? Anh đã bao giờ cảm nhận được điều em đang nói không? Với vợ anh?”
Rhyme mỉm cười nhợt nhạt. “Anh có cảm thấy. Đúng thế. Nhưng không phải với Blaine, vợ anh.” Và đó là tất cả những gì anh muốn nói về vấn đề này. “Hai người gặp nhau thế nào?” Anh hỏi.
“Bài giảng nhiệm vụ tại học viện. Khi có người đứng lên và nói cho anh nghe những nhiệm vụ mà đơn vị của họ thực hiện. Nick giảng bài về công tác mật vụ. Anh ấy rủ em đi chơi ngay lập tức. Lần hẹn hò đầu tiên của bọn em là ở Rodman’s Neck.”
“Trường bắn?”
Sachs gật đầu, sịt mũi. “Sau đó bọn em tới nhà mẹ anh ấy ở Brooklyn và ăn mì ống, uống một chai Chianti. Bà véo em rất mạnh và nói em quá gầy để có thể có con. Bắt em ăn hai suất cannoli. Bọn em về nhà em và tối hôm đó, anh ấy đã ở lại. Lần hẹn hò đầu tiên đáng kể đấy chứ? Từ đó, bọn em gặp nhau thường xuyên. Chắc chắn sẽ nên chuyện, Rhyme ạ. Em cảm thấy thế, chắc chắn mọi chuyện sẽ tốt đẹp.”
Rhyme nói: “Chuyện gì xảy ra?”
“Anh ấy…”
Một ngụm lớn. “Chuyện là anh ấy đã lợi dụng. Cả quãng thời gian em biết anh ấy…”
“Thế à?”
“Ăn trộm. Trộm lớn. Em không hề có bất kỳ manh mối nào. Không một manh mối khốn kiếp nào. Anh ấy giấu nó ở vài ngân hàng quanh thành phố. Anh ấy lấy khoảng hai trăm nghìn đô la.”
Lincoln im lặng một lúc. “Anh xin lỗi, Sachs. Ma túy?”
“Không. Chủ yếu là đồ dùng. Đồ điện tử, ti vi. Và quần áo. Họ gọi đó là Liên kết Brooklyn. Báo chí.”
Rhyme gật đầu. “Đó là lý do anh nhớ đến nó. Có khoảng gần một tá người liên quan, đúng không? Tất cả đều là cảnh sát.”
“Chủ yếu. Một số người của ICC[124] nữa.”
“Chuyện gì xảy ra với cậu ấy? Nick ấy?”
“Anh biết chuyện gì xảy ra khi cớm xử cớm rồi. Họ đánh anh ấy nhừ tử. Nói rằng anh ấy chống cự, nhưng em biết là không phải. Gãy ba xương sườn, hai ngón tay, mặt nát nhừ. Bị kết án nhưng anh ấy vẫn bị tù hai mươi đến ba mươi năm.”
“Vì tội chiếm đoạt tài sản?”
“Anh ấy tự làm một, hai vụ. Dùng súng đập một lái xe, bắn người kia. Chỉ để dọa anh ta thôi. Em biết là chỉ để dọa anh ta. Nhưng quan tòa đã quăng anh ấy đi.” Cô nhắm mắt, mím môi thật chặt.
“Khi anh ấy bị bắt, bên Nội vụ theo anh ấy rất chặt. Họ kiểm tra điện thoại. Bọn em rất thận trọng trong việc gọi điện cho nhau. Anh ấy nói thỉnh thoảng bọn tội phạm nghe trộm điện thoại của anh ấy. Nhưng vẫn có mấy cuộc gọi đến chỗ em. Bên Nội vụ bám theo em luôn. Vì thế Nick gạt em ra. Ý em là anh ấy phải làm thế. Nếu không em sẽ xuống dốc luôn cùng anh ấy. Anh biết bên Nội vụ rồi đấy – lúc nào cũng là những tên thợ săn phù thủy.”
“Chuyện gì xảy ra?”
“Để thuyết phục họ rằng em chẳng là gì đối với anh ấy… thì anh ấy đã nói vài câu về em.” Cô nuốt khan, mắt nhìn xuống nền nhà. “Khi bên Nội vụ thẩm vấn, họ hỏi anh ấy về em. Nick nói: ‘ À, P.D. Sachs? Tôi có chơi cô ta vài lần. Hóa ra cô ta cũng vớ vẩn. Nên tôi đá cô ta.” Cô ngửa đầu ra sau, lấy tay lau nước mắt. “Biệt hiệu? P.D.”
“Lon có nói với anh.”
Cô nhăn mặt. “Ông ấy có nói nó nghĩa là gì không?”
“Con gái cớm tuần tra. Từ cha em.”
Cô cười uể oải. “Nó khởi đầu như thế đấy. Nhưng đó không phải là cách kết thúc. Trong cuộc điều tra, Nick nói em là thứ vớ vẩn đến mức nó phải có nghĩa là ‘săn bướm’, bởi vì có lẽ em thích con gái hơn. Anh đoán xem điều này lan truyền trong sở nhanh đến thế nào.”
“Chỗ đó có cùng mẫu số mà, Sachs.”
Cô hít một hơi dài. “Em thấy anh ấy ở tòa vào cuối cuộc điều tra. Anh ấy nhìn em một lần và… em không thể tả được điều gì trong mắt anh ấy. Thực sự là cõi lòng tan nát. Anh ấy làm điều đó để bảo vệ em. Nhưng vẫn cứ… Anh đã đúng, anh biết không. Về sự cô đơn.”
“Anh không có ý…”
“Không”, cô nói mà không cười. “Em đánh anh, anh đánh em. Thế là công bằng. Và anh đúng. Em ghét sự cô đơn. Em muốn ra ngoài, em muốn gặp ai đó. Nhưng sau Nick, em đã mất hứng thú với tình dục.” Sachs cười chua chát. “Mọi người đều nghĩ rằng có ngoại hình như em là tuyệt vời. Em có thể chọn anh chàng của mình, đúng không? Thật vớ vẩn. Những thằng cha mời em đi chơi là những thằng cha muốn chơi em. Thế nên em đầu hàng. Tự làm còn dễ hơn. Em ghét điều đó, nhưng dễ hơn”
Cuối cùng thì Rhyme đã hiểu phản ứng của cô khi lần đầu tiên nhìn thấy anh. Cô thoải mái với anh vì đấy là người đàn ông không phải là mối đe dọa đối với cô. Không thúc ép tình dục. Một người mà cô không phải phòng ngự. Có thể có một chút tình đồng nghiệp nữa – như thể họ cũng thiếu mất một loại gen thiết yếu.
“Em biết đấy”, anh đùa, “anh và em, ta cần đến với nhau và không được có chuyện gì”.
Cô cười. “Thế thì kể cho em nghe về vợ anh. Hai người lấy nhau được bao lâu?”
“Bảy năm. Sáu năm trước tai nạn. Và một năm sau đó.”
“Và cô ấy bỏ anh?”
“Không. Anh bỏ cô ấy. Anh không muốn cô ấy cảm thấy có lỗi trong việc này.”
“Anh quá tốt.”
“Cuối cùng thì anh cũng làm cô ấy bỏ đi được. Anh là một tên khốn. Em mới chỉ nhìn thấy mặt tốt của anh thôi.” Một lúc sau, anh hỏi. “Câu chuyện của Nick… có liên quan gì tới lý do em bỏ Đội Tuần tra không?”
“Không. Thực ra là có.”
“Chim bị tên sợ cây cong?”
Cuối cùng cô gật đầu. “Cuộc sống ngoài phố giờ khác rồi. Đó là thứ đã làm cho Nick như vậy. Thứ làm biến đổi anh ấy. Nó không còn giống như khi cha em đi tuần trong khu của ông nữa. Khi đó mọi thứ tốt hơn.”
“Ý em là nó không giống như những câu chuyện cha kể cho em nghe?”
“Có thể”, cô nhượng bộ. Sachs ngồi thụp xuống ghế. “Bệnh than? Đúng như thế nhưng không nghiêm trọng đến mức như em giả bộ.”
“Anh biết”, Rhyme hỏi.
“Anh biết? Sao anh biết được?”
“Anh chỉ cần nhìn vào chứng cứ và rút ra một số kết luận.”
“Đó là lý do anh theo vụ của em cả ngày? Anh biết là em giả vờ?”
“Anh theo vụ của em”, anh nói, “vì anh biết em giỏi hơn em nghĩ”.
Cô nhìn anh thăm dò.
“À Sachs này, em làm anh nhớ đến chính mình.”
“Thế ư?”
“Để anh kể cho em nghe một chuyện. Anh làm công việc khám nghiệm hiện trường được gần một năm thì nhận được một cuộc gọi từ Đội Trọng án. Có một người chết trong một ngõ hẻm ở Greenwich Village. Tất cả trung sĩ chỉ huy đã ra ngoài nên anh được chọn để khám nghiệm hiện trường. Lúc đó, anh nhớ anh mới hai mươi sáu tuổi. Anh tới đó, kiểm tra và phát hiện ra người chết là giám đốc Sở Y tế và Nhân đạo của thành phố. Lúc đó xung quanh ông ta có rất nhiều ảnh Palaroid. Chắc em đã nhìn thấy vài tấm ảnh đó – ông ta đã đến một trong những hộp đêm S&M[125] trên Phố Washington. À, anh quên không nói, khi họ tìm thấy ông ta thì ông ta mặc một bộ váy ngắn màu đen và đi đôi tất chân mắt lưới.
Thế là anh bảo vệ hiện trường. Bất ngờ ông đại úy xuất hiện và đi qua dây chắn. Anh biết ông ấy có ý định làm cho những tấm ảnh đó biến mất trên đường đến phòng vật chứng nhưng anh lại ngây thơ tới mức không quan tâm đến những tấm ảnh – anh chỉ quan tâm đến việc ai đó đi ngang qua hiện trường.”
“Peretti là bảo vệ hiện trường vụ án.”
Rhyme tặc lưỡi. “Thế là anh không cho ông ấy vào. Lúc ông ấy đứng ngoài hàng rào quát tháo thì một nhân viên của Sở đến và cố gắng kết thúc sự việc. Anh nói không với ông ấy. Ông ấy cũng bắt đầu quát tháo anh. Hiện trường phải được giữ nguyên cho tới khi IRD xong việc, anh nói với họ thế. Đoán thử xem cuối cùng là ai đến?”
“Thị trưởng?”
“Gần đúng. Phó Thị trưởng.”
“Và anh bắt cả họ phải đứng ngoài.”
“Không ai vào được hiện trường, trừ bên chụp ảnh. Tất nhiên cái giá mà anh phải trả là sáu tháng làm nhân viên in ấn. Nhưng bọn anh bắt được thủ phạm nhờ vào một vài manh mối và dấu vân tay trên một bức hình Palaroid – hóa ra đấy là bức hình được tờ Bưu điện in trên trang nhất. Giống như việc em làm sáng hôm qua, Sachs ạ. Chặn tàu và xe trên Đại lộ Mười một.”
“Em không nghĩ tới điều đó”, cô nói. “Em chỉ làm thôi. Sao anh lại nhìn em thế?”
“Nào, Sachs. Em biết là em cần ở đâu mà. Ngoài phố. Tuần tra, Các vụ Trọng án, IRD, không quan trọng… Nhưng Phòng Quan hệ Công chúng ư? Ở đó em sẽ thối rữa. Đó là công việc tốt đối với một số người, nhưng không phải dành cho em. Đừng đầu hàng nhanh thế.”
“Ồ, thế còn anh thì không đầu hàng à? Còn Berger thì sao?”
“Với anh mọi chuyện hơi khác.”
Cái nhìn của cô dò hỏi. Đúng thế không? Rồi cô đi quanh tìm khăn giấy. Khi quay lại ghế, cô hỏi: “Anh không đem xác chết nào theo anh đấy chứ?”
“Cũng có khi. Nhưng giờ chúng đã được chôn cất rồi.”
“Kể em nghe đi.”
“Chẳng có gì cả đâu, thật đấy…”
“Không đúng. Em thấy thế. Nào, em đã kể cho anh nghe chuyện của em rồi.”
Anh cảm thấy một cơn ớn lạnh lạ lùng. Anh biết đấy không phải cơn sai lệch phản xạ. Nụ cười của anh biến mất.
“Rhyme, kể đi”, cô dai dẳng. “Em muốn nghe.”
“Được rồi, có một vụ vài năm trước”, anh nói. “Anh đã phạm sai lầm. Một sai lầm tệ hại.”
“Kể em nghe.” Cô rót cho hai người thêm một ngấn whisky Scotch nữa.
“Đó là một cuộc gọi nội địa báo giết người – tự sát. Một cặp vợ chồng trong một căn hộ ở Chinatown. Ông ta bắn vợ, rồi tự sát. Anh không có nhiều thời gian khám nghiệm hiện trường; anh làm rất nhanh. Và anh phạm một sai lầm cũ rích – anh đã biết trước mình sẽ tìm thấy gì trước khi anh bắt đầu tìm kiếm. Anh tìm thấy một ít sợi vải mà anh không biết đặt vào đâu nhưng anh giả định rằng cặp vợ chồng này đã lôi nó vào. Anh tìm thấy mảnh đạn nhưng không so nó với khẩu súng tìm được tại hiện trường. Anh nhận thấy phương cách nạp đạn tự động nhưng không đan lưới để tìm vị trí chính xác của khẩu súng. Anh tìm xong, ký giấy rồi về văn phòng.”
“Chuyện gì đã xảy ra?”
“Hiện trường bị dàn cảnh. Thực ra, đó là một vụ cướp của giết người. Tên tội phạm chưa rời căn hộ.”
“Cái gì? Hắn vẫn ở đó?”
“Sau khi anh ra về hắn bò từ gầm giường ra và bắt đầu bắn. Hắn giết chết một nhân viên pháp y và làm bị thương một người trợ lý. Hắn chạy ra phố và bắn nhau với mấy cảnh sát tuần tra chạy đến khi nghe gọi 10-13. Tên tội phạm bị bắn – sau đó cũng đã chết – nhưng hắn giết chết một cảnh sát và làm bị thương người khác. Hắn cũng bắn một gia đình vừa ra khỏi nhà hàng Trung Quốc gần đó. Dùng đứa con làm lá chắn.”
“Ôi, trời ơi.”
“Colin Stanton là tên người cha. Ông ta không hề bị thương và ông ta là một bác sĩ quân y – EMS nói ông ta đã có thể cứu được vợ và cả hai đứa con nếu ông ta cố gắng cầm máu, nhưng ông ta đã quá hoảng loạn và cứng đơ người. Ông ta cứ đứng, nhìn họ chết dần trước mắt mình.”
“Lạy chúa, Rhyme. Nhưng đó không phải lỗi của anh. Anh…”
“Để anh kể nốt. Đó vẫn chưa phải là đoạn kết.”
“Chưa ư?”
“Người chồng về nhà – ở phía bắc New York. Ông ta bị suy nhược thần kinh và phải vào bệnh viện tâm thần một thời gian. Ông ta thử tự tử. Đầu tiên ông ta tự cắt cổ tay mình bằng một mảnh giấy – bìa tạp chí. Sau đó ông ta lẻn vào thư viện và tìm thấy một cốc nước trong phòng tắm của người thủ thư, đập nó ra và dùng mảnh kính vỡ cứa vào cổ tay. Người ta đã khâu lại vết thương cho ông ta và giữ ông ta trong bệnh viện tâm thần khoảng một năm. Cuối cùng thì người ta cũng thả ông ra. Khoảng một tháng sau khi ra viện, ông ta lại thử lần nữa. Lần này thì dùng dao.” Rhyme lạnh lùng nói thêm. “Lần này thì có kết quả.”
Anh biết về cái chết của Stanton nhờ một tờ cáo phó được fax từ nhân viên điều tra đột tử ở Albany tới Phòng Quan hệ Công chúng của NYPD. Ai đó đã gửi nó cho Rhyme bằng đường công văn nội bộ với một tờ giấy vàng dán kèm: FYI – có thể anh sẽ quan tâm, người sĩ quan đó viết.
“IA điều tra nội bộ. Lỗi chuyên môn. Họ đập cổ tay anh. Anh nghĩ họ có thể đuổi việc anh.”
Cô thở dài và nhắm mắt trong giây lát. “Và anh nói với em là anh không thấy có lỗi trong chuyện này?”
“Hết rồi.”
“Em không tin anh.”
“Anh đã chịu án rồi, Sachs ạ. Anh sống với những xác chết này một thời gian. Sau đó anh bỏ chúng đi. Nếu không, làm sao anh tiếp tục làm việc được.”
Sau một lúc lâu, cô nói: “Khi em mười tám tuổi, em bị phạt. Vì chạy quá tốc độ. Em chạy với tốc độ chín mươi ở chỗ chỉ được phép chạy bốn mươi.”
“Rồi.”
“Cha em nói, ông sẽ cho em vay tiền nộp phạt, nhưng em phải trả lại ông. Có lãi. Nhưng anh biết ông còn nói gì với em nữa không? Ông nói bố sẽ đánh đòn nếu con vượt đèn đỏ hay lái xe không cẩn thận. Nhưng chạy nhanh thì ông hiểu. Ông nói với em: ‘Bố biết cảm giác của con, con yêu ạ. Khi ta di chuyển, chúng không thể bắt được ta.’”, Sachs nói với Rhyme. “Nếu em không thể lái xe, nếu em không thể chuyển động, có thể em cũng sẽ làm điều đó. Tự tử.”
“Anh đã từng đi bộ khắp nơi”, Rhyme nói. “Anh lái xe không nhiều. Không có xe suốt hai mươi năm. Em có xe gì?”
“Chẳng phải là thứ mà một người Manhattan kiêu kỳ như anh sẽ lái đâu. Một chiếc Chevy. Mác Camaro. Đó là xe của cha em.”
“Ông đã cho em một cái máy khoan hơi? Để sửa xe, anh đoán thế?”
Cô gật đầu. “Và một máy hàn hơi. Một bộ tạo khe bugi. Cờ lê bánh cóc – món quà sinh nhật lần thứ mười ba của em.” Cười nhẹ nhàng. “Chiếc Chevy ấy, thật là một chiếc xe với núm tay lỏng. Anh có biết đấy là gì không? Một chiếc xe Mỹ. Đài, quạt và công tắc điện đều lỏng lẻo và hạng bét. Nhưng bộ giảm xóc thì như đá, nhẹ như thùng trứng và em lúc nào cũng qua mặt được BMW[126].”
“Anh đoán là em đã làm rồi.”
“Một, hai lần gì đấy.”
“Xe hơi có địa vị trong thế giới của người tàn tật”, Rhyme giải thích. “Bọn anh ngồi – hay nằm – trong khu cách ly của Viện Phục hồi Chức năng và nói chuyện về những thứ bọn anh có thể lấy được từ công ty bảo hiểm. Xe tải kiểu xe lăn thật là đỉnh. Sau đó là xe điều khiển bằng tay. Tất nhiên là những thứ đó chẳng giúp gì cho anh.” Anh liếc mắt, kiểm tra bộ nhớ thuần thục của mình. “Anh không đi xe đã nhiều năm. Anh không nhớ lần cuối là khi nào cả.”
“Em có một ý”, Sachs bất ngờ nói. “Trước khi ông bạn của anh – bác sĩ Berger – quay lại, để em đưa anh đi một vòng. Hay có vấn đề? Ngồi dậy? Anh nói là xe lăn không giúp được anh.”
“À, không, xe lăn không thành vấn đề. Nhưng còn xe hơi? Anh nghĩ chắc là được.” Anh cười. “Một trăm sáu mươi tám? Dặm một giờ?”
“Hôm ấy là một ngày đặc biệt”, Sachs nói và nhớ lại. “Điều kiện tốt. Không có cảnh sát giao thông.”
Điện thoại reo và Rhyme tự trả lời. Đó là Lon Sellitto.
“Chúng tôi đã có các nhóm S&S ở tất cả các nhà thờ mục tiêu trong khu Harlem. Dellray chịu trách nhiệm về việc này – anh ta trở thành một tín đồ thực sự rồi. Anh không còn nhận ra anh ta nữa đâu. Ồ, mà tôi còn có thêm ba mươi cảnh sát tuần tra và hàng tá nhân viên anh ninh Liên Hiệp Quốc để đến bất cứ nhà thờ nào mà chúng ta có thể bỏ qua. Nếu hắn không xuất hiện, chúng tôi sẽ càn quét tất cả các nhà thờ vào lúc bảy rưỡi, trong trường hợp hắn lẩn được vào mà chúng tôi không phát hiện ra. Tôi nghĩ chúng ta sẽ tóm được hắn, Linc ạ.” Viên thám tử nói, nhiệt tình một cách đáng nghi ngờ so với một cảnh sát của Đội Trọng án Thành phố New York.
“Được rồi, Lon. Khoảng tám giờ tôi sẽ cử Amelia tới Trung tâm chỉ huy của anh.”
Họ dập máy.
Thom gõ cửa trước khi vào phòng.
“Như thể cậu ta sẽ bắt được chúng ta trong tư thế tế nhị.” Rhyme cười thầm.
“Không lý do gì nữa”, anh ta nói. “Đi ngủ. Ngay bây giờ.”
Đã 3:00. Từ lâu rồi, Rhyme đã không còn cảm giác kiệt sức. Anh đang bay lượn ở đâu đó. Phía trên cơ thể mình. Anh băn khoăn không hiểu có phải mình gặp ảo giác hay không.
“Được rồi, thưa mẹ”, anh nói. “Sĩ quan Sachs sẽ ngủ lại đêm nay, Thom. Cậu làm ơn lấy giúp một cái chăn.”
“Anh nói gì?” Thom quay lại phía anh.
“Một cái chăn.”
“Không, trước đó cơ.” Người trợ lý hỏi. “Cái từ ấy?”
“Tôi không biết. ‘Làm ơn’?”
Mắt Thom mở to vì cảnh giác. “Anh ổn chứ? Anh có muốn tôi gọi Peter Taylor quay lại không? Hay cha cả của Tu viện Columbia? Bác sĩ phẫu thuật?”
“Thấy thằng khốn này làm phiền tôi chưa?” Rhyme nói với Sachs. “Hắn không biết là hắn gần đến lúc bị đuổi việc thế nào rồi đâu.”
“Gọi dậy lúc mấy giờ?”
“Sáu giờ ba mươi là ổn,” Rhyme nói.
Khi anh ta đi khỏi, Rhyme hỏi: “Này, Sachs, em có thích nghe nhạc không?”
“Em thích.”
“Loại nào?”
“Nhạc cổ, dòng doo-wop, Motown… Còn anh thì sao? Anh trông có vẻ giống một anh chàng cổ điển.”
“Em thấy cái tủ chỗ kia chứ?”
“Cái này hả?”
“Không, cái khác cơ. Phía bên phải. Em mở nó ra.”
Cô làm theo và há miệng vì ngạc nhiên. Cái tủ quả là một căn phòng chứa tới gần nghìn đĩa CD.
“Giống như cửa hàng bán đĩa[127]?”
“Có một bộ dàn, em thấy nó trên giá không?”
Cô lướt nhẹ tay trên dàn máy Harmon Cardon dính đầy bụi.
“Đắt hơn cả chiếc xe hơi đầu tiên của anh”, Rhyme nói. “Anh không dùng nó nữa.”
“Sao lại không?”
Anh không trả lời mà nói: “Em cho đĩa gì đó vào đi. Điện còn cắm không? Thế à? Tốt. Em chọn nhạc đi.”
Một khắc sau, cô bước ra khỏi tủ và đi lại ghế sofa khi Levi Stabbs[128] và Four Tops[129] bắt đầu hát về tình yêu.
Phải đến một năm rồi mới lại có âm nhạc vang lên trong nhà, Rhyme nghĩ. Anh im lặng, cố gắng trả lời câu hỏi của Sachs vì sao anh lại ngừng nghe nhạc. Nhưng anh không thể.
Sachs dọn tài liệu và sách ra khỏi ghế. Nằm lên đó và lần giở cuốn Hiện trường vụ án.
“Tặng em một cuốn được không?” Cô hỏi.
“Em cứ lấy mười cuốn.”
“Anh sẽ…”, giọng cô chợt ngừng lại.
“Ký sách cho em?” Anh cười. Cô cười với anh. “Anh điểm chỉ, được không? Các nhà phân tích nét chữ không bao giờ cho em xác suất trùng lặp nét chữ quá tám mươi phần trăm. Nhưng còn dấu tay? Bất kỳ chuyên gia dấu vân tay nào cũng có thể khẳng định đó là dấu tay của anh.”
Anh nhìn cô đọc chương một. Mắt cô rũ xuống. Cô gập sách.
“Anh làm cho em một việc, được không?” Cô hỏi.
“Việc gì?”
“Đọc cho em nghe…”
“Đọc cho em nghe. Thứ gì đó trong sách. Khi Nick và em còn bên nhau…”, giọng cô nhạt dần.
“Sao cơ?”
“Khi Nick và em còn ở bên nhau, nhiều lần Nick đọc cho em nghe trước khi bọn em ngủ. Bất cứ thứ gì: sách, báo, tạp chí… Một trong những thứ em nhớ nhất.”
“Anh đọc rất dở”, Rhyme thú nhận. “Anh đọc như thể anh đang trích dẫn báo cáo khám nghiệm hiện trường. Nhưng anh có trí nhớ… khá là tốt. Để anh kể em nghe về vài hiện trường vụ án, được không?”
“Thật không?” Cô nằm ngửa, cởi chiếc áo khoác màu xanh hải quân và tháo cái áo giáp chống đạn hiệu American Body Armor, vứt nó sang một bên. Phía trong cô mặc một chiếc áo phông nhàu nát và dưới đó là áo lót ngực thể thao. Cô lại mặc chiếc áo khoác rồi nằm lên ghế, kéo chăn. Xoay người sang bên rồi nhắm mắt.
Rhyme giảm ánh sáng bằng điều khiển từ xa.
“Anh luôn thấy ngạc nhiên với hiện trường chết chóc”, anh bắt đầu. “Chúng giống như những đền thờ. Chúng ta luôn quan tâm đến nơi chôn cất người chết hơn là nơi họ được sinh ra. Ví dụ như John Kennedy. Mỗi ngày có hàng nghìn người đến thăm kho sách Texas ở Dallas. Em nghĩ có bao nhiêu người hành hương đến một phòng sản phụ ở Boston?”
Rhyme ngả đầu vào chiếc gối mềm mại quý phái “Anh có làm em chán không?”
“Không”, cô nói. “Làm ơn đừng dừng lại.”
“Em có biết điều làm anh luôn băn khoăn là gì không, Sachs?”
“Nói cho em biết đi”
“Điều đó làm anh ngạc nhiên nhiều năm rồi – Tinh thần Hiệp sĩ. Hai nghìn năm trước. Còn bây giờ, có một hiện trường vụ án mà anh thích khám nghiệm. Anh biết em sẽ nói: Nhưng chúng ta biết bọn tội phạm rồi cơ mà. Có phải như vậy không? Điều mà chúng ta thực sự biết được là những gì nhân chứng nói với chúng ta. Em có nhớ là anh đã nói – đừng bao giờ tin nhân chứng. Có thể những câu chuyện trong Kinh thánh là không hề có thực. Bằng chứng đâu? Phải là chứng cứ vật lý. Móng tay, máu, mồ hôi, ngọn giáo, chữ thập, giấm ăn. Dấu dép và dấu vân tay.”
Rhyme hơi nghiêng đầu sang trái và tiếp tục kể chuyện về những hiện trường vụ án và chứng cứ cho tới khi ngực Sachs phập phồng đều đặn, hơi thở của cô làm những sợi tóc đỏ nhẹ nhàng bay. Ngón tay anh lần tìm nút tắt đèn trên bộ điều khiển ESU, và rồi anh cũng nhanh chóng chìm vào giấc ngủ.
Ánh sáng mờ mờ của buổi bình minh xuất hiện trên bầu trời.
Hoàn toàn tỉnh táo, Carole Ganz có thể nhìn thấy lớp kính lõi lưỡi thép bên trên đầu cô. Pammy, con yêu... Rồi cô nghĩ tới Ron. Và tất cả tài sản của cô còn đang ở trong cái tầng hầm kinh khủng ấy. Tiền bạc, chiếc ba lô màu vàng...
Cô nghĩ tới Pammy.
Có thứ gì đó làm cho cô gián đoạn giấc ngủ chập chờn, bất ổn. Gì vậy nhỉ?
Cơn đau ở cổ tay? Nó giật giật khủng khiếp. Cô xoay người một chút. Cô...
Tiếng rống khó chịu của đàn organ và giọng hát của dàn đồng ca lại ngập tràn trong phòng.
Đó là thứ đã đánh thức cô. m nhạc. Làn sóng âm nhạc ập tới. Nhà thờ không bị bỏ hoang. Có người ở đây. Cô mỉm cười. Có ai đó sẽ...
Điều này nhắc cô nhớ tới quả bom.
Carole nhìn qua khe tủ hồ sơ. Nó vẫn còn đó, bập bềnh ngoài cạnh bàn. Nó mang hình dáng thô thiển của một quả bom thật sự và một thứ vũ khí giết người – không giống những dụng cụ sáng bóng, dễ thương mà ta vẫn thấy trên phim ảnh. Băng dính quấn xộc xệch, dây dẫn bị bóc vỏ nham nhở, xăng vẩn đục… có thể chỉ là bom xịt, cô nghĩ. Trong ánh sáng ban ngày, trông nó không có vẻ nguy hiểm lắm.
m nhạc lại vang lên. Nó vang lên ngay trên đầu cô. Kèm theo tiếng lê chân. Cửa đóng lại. Sàn nhà gỗ kêu kẽo kẹt khi mọi người đi lại. Bụi bay ra từ rầm nhà.
Giọng hát đang vang lên nửa câu bỗng ngừng lại. Một giây lát sau, họ lại bắt đầu hát.
Carole đạp chân, nhưng ở đây nền nhà bằng bê tông, tường gạch. Cô cố hét lên nhưng âm thanh bị miếng băng dính dán miệng nuốt chửng. Buổi diễn tập vẫn tiếp tục, tiếng nhạc nghiêm trang, đầy sinh lực lan xuống tận tầng hầm.
Sau mười phút, Carole kiệt sức ngã vật xuống sàn. Mắt cô lại nhìn về phía quả bom. Lúc này đã sáng hơn và cô có thể nhìn thấy cái đồng hồ hẹn giờ.
Carole nhăn mặt. Cái đồng hồ hẹn giờ!
Đó không phải là một quả bom thối. Kim định giờ đặt ở mức 6:15. Kim đồng hồ lúc này chỉ 5:30.
Bò xa hơn ra phía sau tủ hồ sơ, Carole lấy đầu gối đập vào thành tủ kim loại. Nhưng bất kỳ tiếng động yếu ớt nào phát ra đều ngay tức khắc bị tan biến trong tiếng rền vang của bài hát Sweet Low, Sweet Chariot từ trên cao vọng xuống, đang ngập tràn tầng nhà thờ.
IV
IV
ĐẾN TẬN XƯƠNG
Các vị thần chỉ chối từ một thứ: quyền năng thay đổi quá khứ.
ARISTOTLE