Đêm Đầu Tiên

Chương 18


Chương trước Chương tiếp

Paris

Ngọn đèn nhỏ tỏa sáng trong văn phòng của Inovy. Vị giáo sư đang ghi chú vào quyển sổ tay cho một cuộc hẹn. Điện thoại đổ chuông, ông gỡ chiếc kính ra và nhấc máy.

-Tôi muốn thông báo cho ông rằng cậu ta đã gần đến đích.

-Cô ấy đã đọc rồi à?

-Phải, vào sáng nay.

-Họ phản ứng như thế nào?

-Vẫn còn quá sớm để trả lời…

Inovy cảm ơn Walter. Ông gọi một cuộc điện thoại khác và chờ nó được chấp nhận.

-Lá thư của cậu đã đến nơi an toàn, tôi muốn cảm on cậu, cậu đã viết hết mọi thứ tôi nói với cậu chứ?

-Tôi sao chép hết mọi lời của ông, chỉ cho phép mình thêm vào mấy dòng ngắn.

-Tôi đã yêu cầu cậu đừng thay đổi bất kỳ điều gì!

-Vậy thì tại sao ông không tự mình đi mà gửi nó? Không nói hết tất cả ra với cô ấy đi? Sao lại dùng tôi như một người trung gian? Tôi không thể hiểu nổi ông đang chơi trò gì!

-Tôi cũng mong đây chỉ là một trò chơi, nó cho anh nhiều sự tính nhiệm hơn là cho tôi, nhiều hơn bất kỳ ai, tôi không có nuôi hy vọng bằng cách nói cho anh điều này, Max. Anh là giáo viên của cô ấy, chứ không phải tôi. Khi tôi gọi một vài ngày để chứng thực thông tin có từ Yell, nó thậm chí sẽ thuyết phục hơn. Không phải chúng ta đã nói rằng hai cái đầu thì tốt hơn một sao?

-Không phải khi hai ý kiến đến từ cùng một người.

-Chúng ta là người duy nhất biết việc đó, không phải sao? Nếu cậu không cảm thấy thoải mái, hãy tự nhủ với mình rằng đó là vì sự an toàn của họ. Thông báo cho tôi khi cô ấy gọi lại cho cậu. Cô ấy sẽ làm thôi, tôi chắc đấy. Và, như thỏa thuận, hãy sắp xếp sau cho không thể kết nối được. Mai tôi sẽ đưa cho cậu một số mới để liên lạc với tôi. Chúc ngủ ngon, Max.

Luân Đôn

Chúng tôi ra khỏi nhà ngay giờ đầu tiên. Keira vẫn còn ngáy ngủ, cô ấy ngủ thiếp đ itre6n taxi và tôi phải hướng nó ra sân bay Heathrow.

-Em không thích bay cho lắm, cô nói khi máy bay cất cánh.

-Thật không may cho một nhà thám hiểm, em có ý định chinh phục miền Bắc bằng việc đi bộ à?

-Có một con thuyền…

-Vào mùa đông?

-Cho em ngủ đi nào.

Chúng tôi có ba giờ nghỉ lại tại Glasgow. Tôi muốn dẫn Keira đi thăm quan thành phố, nhưng thời gian lại không cho phép. Keira quan tâm về việc cất cánh trong khi điều kiện thời tiết phía trước không mấy thuận lợi. Bầu trời chuyển màu sang đen, những đám mây nặng trịch kéo đến đường chân trời. Cứ mỗi giờ lại có một thông báo trì hoãn chuyến bay và yêu cầu hành khách kiên nhẫn. Một cơn bão lớn đang đổ bộ qua đây, hầu hết các chuyến bay đã bị hủy, nhưng chúng tôi là một trong số ít những chuyến bay vẫn còn treo bảng khởi hành.

-Em đánh giá có bao nhiêu cơ hội chúng ta nhận được từ ông già này? tôi hỏi khi cửa đóng.

-Anh đánh giá xem có bao nhiêu cơ hội chúng ta sống sót an toàn đến Shetland? Keira hỏi lại.

-Anh không nghĩ rằng họ sẽ để ta vướn vào những rủi ro không cần thiết.

-Sự tin tưởng của anh về con người quyến rũ em, Keira nói.

Mưa ngừng rơi, hãy tận hưởng chút bình lặng ngắn ngủi đi, tiếp viên hang không hướng dẫn cho chúng tôi cách làm thủ tục nhanh chóng, Keira làm theo một cách miễn cưỡng.

-Nhìn kìa, tôi nói, chỉ tay ra phía cửa sổ, trời đã trong, chúng ta sẽ đi và tránh được cơn bão.

-Và chúng ta sẽ theo dõi khoảng trời quang đãng của anh khi chúng ta trở lại mặt đất?

Ưu điểm của cuộc rung lắc khủng hoảng trong suốt 55 phút bay này là Keira không hề rời khỏi tay tôi.

Chúng tôi hạ cánh xuống quần đảo Shetland vào giữa buổi chiều, trời vẫn còn mưa. Hang du lịch khuyên chúng tôi nên thuê một chiếc xe tại sân bay. Chúng tôi đi sáu mươi dặm đường băng qua các vùng đồng băng chăn thả cừu. Động vật chăn thả tự do, nông dân nhuộm màu lên long cừu để phân biệt chúng với những con cừu của các trang trại khác. Điều này khiến cho vùng đồng bằng đầy những màu sắc xinh đẹp đối lập với bầu trời xám xịt phía trên. Tại Toft, chúng tôi bắt phà đi đến Ulsta, một ngôi làng nhỏ nằm ở phía đông của đảo Yell, phần còn lại của hòn đảo gần như là những thôn làng.

Tôi chuẩn bị cho chuyến đi của chúng tôi tại phòng chờ “Bed and Breakfast” trên Burravoe, tôi nghĩ đây là cái duy nhất trên đảo.

“Bed and Breakfast” là một trang trại với các phòng có sẵn dành cho những du khách bị lạc.

Yell là một trong những hòn đảo nằm tận cùng của thế giới, nó trãi dài khoảng 35km nhưng chỉ rộng bằng phân nữa số đó. 957 người đang sống tại đó, thống kê này là chính xác, mỗi người sinh ra hay chết đi đều ảnh hưởng đáng kể đến nhân khẩu học của nơi này. Rái cá, hải cẩu xám và nhạn biển Bắc cực chiếm đa số.

Cặp vợ chồng người nông dân cho chúng tôi ở nhờ khá thú vị, ngoại trừ việc giọng nói của họ không cho phép tôi nghe hết toàn bộ những cuộc nói chuyện của họ. Bữa ăn tối được phục vụ vào lúc 6 và 7 giờ, phòng Keira và tôi chỉ có hai ngọn nến đang cháy chứ không có bất kỳ đèn đuốc gì. Gió vẫn thổi bên ngoài, đập mạnh vào cửa sổ, những chiếc tua-bin gió lung lay trong đêm và mưa va đập vào các bức tường. Keira thu mình vào tôi, chẳng có cơ hội để chúng tôi làm tình đêm đó.

Tôi đã có chút hối tiếc khi chúng tôi đi ngủ sớm vì buổn sáng được đánh thức bằn một cách vô cùng thô bạo. Tiếng bebe của cừu, éc éc của lợn, tiếng kêu của các loại gia cầm khác, chỉ thiếu mỗi tiếng của con bò, nhưng trứng, thịt xông khói, và sữa cừu mà chúng tôi ăn vào bữa sáng có một hương vị tuyệt vời đến không thể diễn tả được. Người phụ nữ hỏi chúng tôi lý do vì sao lại đến đây.

-Chúng tôi đến thăm một nhà nhân chủng học đã về hưu đang sống trên hòn đảo này, tên là Thornsten Yann, bà có biết ông ấy không? Keira hỏi.

Người phụ nữ nhúng vai và rời khỏi bếp, Keira và tôi nhìn nhau, chết lặng.

-Hôm qua em có hỏi anh chúng ta liệu có nhận được chút cơ may nào không, anh đã hạ kỳ vọng của mình xuống thấp một chút, tôi thì thầm với cô ấy.

Sau khi ăn sáng, tôi đến kho để thăm người chồng. Khi tôi hỏi ông ta về người có tên là Thornsten Yann, mặt ông ta biến sắc.

-Ông ta đang đợi anh à?

-Không chính xác, không phải.

-Anh sẽ sớm nhận ra thôi, tên Hà Lan đó là một gã xấu xa, không chào hỏi, cũng chẳng tạm biệt ai, lão lủi thủi như một kẻ cô độc. Khi lão ta vào làng mỗi tuần để mua sắm, lão chẳng nói với ai câu gì. Hai năm trước, một gia đình sống ở nông trại kế bên gặp rắc rối. Người phụ nữa hạ sinh trong đêm và không được ổn. Anh cần phải đi gọi bác sĩ và xa hơi của người chồng thì không hoạt động. Người chồng đã băng qua cánh đồng để cầu xin sự giúp đỡ, một kilomet trong trời mưa, lão người Hà Lan đó đã bắn anh ta với một khẩu súng. Đứa bé đã không thể qua khỏi. Tôi nói với anh, lão già đó là một kẻ xấu xa. Sẽ chỉ có mỗi linh mục và người thợ mộc xuất hiện vào cái ngày chúng tôi mang lão đến nghĩa trang.

-Sao lại là thợ mộc? tôi hỏi.

-Vì chỉ có ông ta sở hữu xe tang, và con ngựa kéo xe.

Tôi thuật lại cuộc nói chuyện với Keira và chúng tôi quyết định đi dạo dọc theo bãi biển, cần có thời gian để phát triển một kế hoạch tiếp cận.

-Em sẽ đi một mình, Keira nói.

-Và gì nữa? không có cách nào hết!

-Ông ấy sẽ không bắn một người phụ nữ, ông ấy sẽ không có lý do để cảm thấy bị đe dọa. Những câu chuyện nói xấu người hang xóm có rất nhiều trên các đảo, em cảm thấy người đàn ông này không phải là một con quái vật như mọi ngưởi đã miêu tả. Em biết một vài người sẽ bắn nếu có ai đó tiến lại nhà họ vào giữa đêm.

-Em có những sự giao du thật kỳ lạ!

-Anh cứ đưa em đến trước chổ của ông ấy và em sẽ tự làm phần còn lại.

-Chắc chắn là không!

-Ông ấy sẽ không bắn em đâu, tin em đi, em phát sợ đến việc nghĩ rằng sẽ bay trở lại đây lần nữa để gặp người đàn ông này.

Việc tranh luận vẫn còn tiếp tục trên đường đi bộ. Chúng tôi đi dọc theo vách đá, khám phá những vịnh nho nhỏ. Keira phải lòng một con rái cá, loài động vật hoang dã này thậm chí trông còn có vẻ thích thú với sự xuất hiện của chúng tôi, chúng tôi đi theo nó một vài feet. Bằng sự khéo léo, chúng tôi đẫn dầu trong hơn một giờ, gió lạnh, nhưng không có mưa và đi dạo thật dễ chịu. Trên đường đi, chúng tôi gặp một người đàn ông trở về sau khi đánh bắt cá. Chúng tôi hỏi đường.

Giọng ông ta tệ hơn những gì chúng tôi đoán.

-Hai người sẽ đi đâu? Ông ta thì thầm trong hơi thở.

-Burravoe.

-Khoảng một giờ đi bộ phía sau hai người, ông ta nói, bỏ đi.

Keira bỏ tôi lại đó và đi theo ông ta.

-Đây thật là một nơi xinh đẹp, cô ấy bắt chuyện với ông ta.

-Nếu cô thấy thế, người đàn ông trả lời.

-Mùa đông sẽ rất khắc nghiệt, tôi đoán thế, cô ấy tiếp tục.

-Cô có nhiều điều ngớ ngẩn như thế này để nói với tôi không? Tôi còn phải chuẩn bị bữa ăn.

-Ông Thornsten?

-Tôi không biết ai có cái tên này cả, người đàn ông nói, không dừng lại.

-Không có nhiều người trên hòn đảo này đâu, tôi không tin ông.

-Hãy tin vào thứ cô muốn tin và để cho tôi yên. Cô muốn tôi chỉ đường cho cô, cô phải đi về hướng của cô, quay lại và cô sẽ đi đúng đường.

-Tôi là một nhà khảo cổ học, chúng tôi đã đi một quãng đường dài chỉ để gặp ông.

-Dù là nhà khảo cổ hay không, tôi cũng không quan tâm, tôi đã nói tôi không phải là ông Thornsten của cô.

-Tôi cần nói chuyện với ông vài giờ để củng cố lại mình, tôi đã đọc tác phẩm của ông nói về cuộc di cư vĩ đại ở thời Đồ đá cũ, tôi cần ông dẫn lối.

Người đàn ông dừng lại và nhìn chằm chằm vào Keira.

-Cô thật là một kẻ gây rắc rối và tôi không muốn bị quấy rầy.

-Ông đầy cay đắng và hận thù.

-Tôi hoàn toàn đồng ý, người đàn ông nói kèm theo một nụ cười, có rất nhiều lý do mà cô biết hoặc không biết. Tôi phải nói bằng ngôn ngữ nào để cô để tôi yên?

-Hãy thử bằng tiếng Hà Lan! Tôi nghĩ rằng không mấy ai trong khu vực này có giọng nói hư của ông đâu.

Người đàn ông quay lưng lại và đi khỏi Keira. Cô đuổi theo ông ta và bắt lấy ông ngay lặp tức.

-Ông cứ cứng đầu đi, nhưng tôi không quan tâm tôi sẽ đi theo ông đến nhà nếu cần thiết, ông sẽ làm gì khi chúng tôi đến nhà của ông, tống khứ tôi bằng một khẩu súng à?

-Những người nông dân ở Burrvoe nói với cô điều đó à? Đừng tin vào những điều ngớ ngẫn cô nghe thấy trên đảo, mọi người ở đây đều phát chán, họ không biết phải phát minh ra cái gì.

-Điều duy nhất khiến tôi thích thú, cô ấy tiếp tục, là thứ àm ông sẽ phải nói, không có điều gì khác ngoài nó cả.

Lần đầu tiên, người đàn ông trong có vẻ quan tâm đến tôi. Ông ta bỏ qua Keira trông chốc lác và bước về phía tôi.

-Mọi thứ luôn luôn nhàm chán và tôi được đối xử đặc biệt?

Tôi không biết phải làm gì nhưng tôi hài long khi thấy bản than mình nở một nụ cười và ông ta khẳng định rằng Keira khá là quả quyết.

-Còn cậu, cậu sẽ làm gì trong cuộc sống ngoài việc theo dõi?

-Tôi là một nhà vật lý thiên văn.

Cái nhìn của ông ấy đột nhiên thay đổi, đôi mắt màu xanh thăm thẳm mở lớn hơn một chút.

-Tôi thích chúng, những vì sao, ông ấy thì thầm, chúng đã dẫn lối tôi một lần…

Thornsten xem xét mũi giày mình và đá bay một viên sỏi vào không khí.

-Tôi đoán anh phải yêu chúng lắm, nếu anh làm công việc đó, ông ấy tiếp tục.

-Tôi tưởng tượng, tôi trả lời.

-Đi theo tôi, tôi sống phía cuối đường, tôi sẽ cho anh một chút thức uống và anh sẽ kể cho tôi nghe một chút về bầu trời, sau đó thì để tôi yên, thỏa thuận chứ?

Chúng tôi bắt tay nhau thay cho một lời hứa.

Một tấm thàm mòn vẹt đặt trên sang gỗ, một chiếc ghế bành cũ cạnh lò sưởi, dọc theo bức tường cũ đổ nát là hai kệ đầy sách và bụi, trong góc là một chiếc giường sắt phủ một tấm chăn cũ, một ngọn đèn đứng trên bàn, những thứ ở trong căn phòng chính này khá khiêm tốn. Người chủ nàh đi quanh chiếc bàn bếp của mình, ông đưa cho chúng tôi cà phê đen, nó không đắng chút nào so với màu của nó. Ông đốt một điếu xì gà và nhìn chằm chằm vào chúng tôi.

-Hai người đến đây chính xác để làm gì? Ông ta hỏi, thổi que diêm.

-Thông tin về cuộc di cư sớm của con người băng qua phía bắc xa xôi để đến châu Mỹ.

-Các dòng di dân này gây ra nhiều tranh cãi, sự định cư ở châu Mỹ phức tạp hơn nhiều so với cái chúng ta biết. Nhưng tất cả chúng đều có trong sách, cô đâu cần phải đến đây.

-Ông nghĩ rằng điều này có thề không, Keira nói đến một nhóm người đã rời Địa Trung Hải để đến eo biển Bering và biểu Beaufort thông qua Bắc cực.

-Thánh thần ơi, Thornsten cười khúc khích, cô nghĩ rằng họ thực hiện chuyến đi này bằng máy bay à?

-Không có rắc rối để hạ xuống, tôi hỏi và ông chỉ cần trả lời câu hỏi của tôi thôi.

-Và sự kiện sử thi này diễn ra vào thời gian nào, cô biết không?

-Khoảng bốn hay năm ngàn năm trước.

-Chưa bao giờ nghe điều gì tương tự thế, sao lại quan tâm đặc biệt đến điều này?

-Vì nó khiến tôi hứng thú.

-Băng được hình thành nhiều hơn và chúng khiến các đại dương nhỏ hơn hiện nay, nếu di chuyển theo những mùa thuận lợi, ừ thì, điều đó có thể xảy ra. Bây giờ, chơi bài ngửa đi, cô nói rằng cô đã đọc tác phẩm của tôi, tôi không biết làm cách nào cô có kết luận tuyệt vời này vì tôi có rất ít công bố và cô thì quá trẻ để tham dự một trong những hội nghị mà tôi đưa ra chủ đề này. Nếu cô thật sự đã đọc những gì tôi viết, hãy chỉ hỏi tôi những câu hòi mà cô biết chắc câu trả lời trước khi đến, vì nó chính xác là những ký thuyết mà tôi bảo vệ. Chúng đã mang lại cho tôi những lợi nhuận của một nhà khảo cổ xã hội học, giờ đến lượt tôi hỏi cô hai câu hỏi. Cô thực sự đến tìm tôi làm gì và mục đích của cô?

Keira uống cà phê trong cốc của mình.

-Được rồi, cô ấy nói, chúng ta chơi bài ngửa vậy, tôi chả hề đọc bất kỳ thứ gì từ ông, tôi cũng không hề biết đến sự tồn tại của chúng cho đến tuần trước. Người giáo viên và bạn tôi đã giới thiệu ông với tôi, anh ấy nói rằng ông biết chính xác nhưng điều về cuộc di dân vĩ đại đã gây ra nhiều tranh cãi trong giới chúng tôi. Nhưng tôi luôn trong đợi vào nơi mà những người khác đã từ bỏ. Và hôm nay, tôi muốn có đường đi mà con người đã băng qua Bắc cực trong thiên niên kỷ thứ tư hoặc thứ năm.

-Sao họ lại phải thực hiện chuyến đi đó? Thornsten hỏi. Điều gì đã đẩy họ từ bỏ cuộc sống của mình? Đó chính là mấu chốt, cô gái ạ, khi một người tuyên bố quan tâm đến việc di cư. Con người sẽ không di chuyển nếu không cần thiết, bở vì họ đói và khát, họ bị truy hại, bản năng sinh tồn trong con người sẽ khiến họ di chuyển. Lấy vì dụ từ cô nhé, cô rời khỏi tổ của mình đến căn lều tồi tàn này là vì cô cần một điều gì đó, phải không?

Keira nhìn tôi, nhìn vào mắt tôi để tìm kiếm câu trả lời mà tôi có thể đoán ra. Chúng tôi có nên đặt lòng tin vào người đàn ông này, mạo hiểm với những mảnh vỡ mà chúng tôi có, cho chúng khích lại với nhau để tạo ra hiện tượng đó? Tôi chú ý rằng bất kỳ khi nào chúng tôi làm điều đó, cường độ đều giảm đi. Tôi cần phải tiết kiệm năng lượng và đảm bảo càng ít người biết những điều chúng tôi đang cố khám phá càng tốt. Tôi gật đầu với cô ấy, và cô hiểu ra, cô quay lại phía Thornsten.

-Thế nào? Ông ta nhấn mạnh.

-Đi mang theo một thông điệp, Keira nói.

-Thông điệp loại gì?

-Một thông tin quan trọng.

-Và cho ai?

-Cho những vị sứ giả của các nền văn mình dược thành lập trên các đại lục.

-Và làm sao họ có thể đoán ra khoảng cách mà các nền văn minh khác tồn tại?

-Họ không chắc chắn, nhưng tôi không biết liệu có bất kỳ sự thăm dò nào họ tìm thấy trên đường đi hay không. Dù vậy, tôi nghĩ rằng có đủ người trong dố họ cho rằng có những người khác sống ở những vùng đất xa xôi. Tôi có bằng chứng cho thấy có ba chuyến đi như vậy được thực hiện cùng một lúc và có khoảng cách đáng kể. Một ở phía nam, một ở phía đông Trung Quốc, và cái thứ ba ở phía Tây. Chỉ còn phía bắc để xác nhận lý thuyết của tôi.

-Cô thật sự chứng minh được rằng những chuyến đi như vậy đã diễn ra? Thornsten hỏi đầy nghi ngờ.

Giọng của ông ta thay đổi, ông ta kéo ghế lại gần Keira, đặt tay lên bàn.

-Tôi không nói dối ông, Keira nói.

- Ý của cô

-Bây giờ, tôi muốn thuần hóa, họ nói ông không dễ tiếp cận.

-Tôi sống ẩn dật nhưng tôi không phải một con thú!

Thornsten cố định Keira. Đôi mắt ông ấy được bao quanh bởi các nếp nhăn và nó sâu đến mức thật khó đề chịu đựng. Ông ta đứng dậy, rời chúng tôi trong một lúc.

-Tôi sẽ xem xét những ngôi sao của anh, tôi không quên thỏa thuận của chúng ta, ông ấy hét lên từ phòng khách.

Ông ta trở lại với một cái ống dài cái mà ông ấy mở nó ra trên cái bảng đồ trên bàn. Ngoan cố tách và phê của chúng tôi và cái gạt tàn sang một góc.

-Đó, ông nói, chỉ về phía bắc nước Nga trên tấm bảng đồ thế giới rộng lớn. Nếu chuyến đi thật sự tồn tại, có một vài con đường mở ra cho vị sứ giả của cô. Một, là đi thông qua Mông Cổ và Nga, đến eo biển Bering như cô đề nghị. Vào thời gian đó, người Sumer phát triển đủ để đi tàu dọc theo tuyến đường của những tảng băng trôi và đến được biển Beaufor, mặc dù không có bằng chứng cho thấy việc họ chưa từng đi. Một tuyết đường có thể khác, thông qua Na Uy, quần đảo Faroe, Iceland, đi qua hoặc đi dọc theo bờ biển Greenland, vịnh Baffin, họ có thể đến Beaufor. Điều kiện, tuy nhiên, nhiệt độ có thể hạ xuống làm đóng băng, họ có thể đánh bắt cá trên đường, mà không cần ăn thịt gấu, nhưng mọi thứ đều có thể.

-Có thể hay chắc chắn? Keira nhấn mạnh.

-Tôi đã bảo vệ luận án của mình rằng có những chuyến đi như vậy được thực hiện bởi người da trắng tử hai mươi ngàn năm trước đây, và tôi cũng lập luận rằng nền văn minh của người Sumer đã xuất hiện trên bờ sông Euphrates và Tigis bởi vì họ đã học được cách trồng lúa mì nâu nhưng không ai tin tôi.

-Sao ông lại nói về người Sumer? Keira hỏi.

-Bởi vì đây là một trong những nền văn minh đầu tiên, nếu họ không phải là người đầu tiên phát minh ra chữ viết thì cũng là một trong những người đầu tiên phát minh ra công cụ giúp con người ghi lại ngôn ngữ của họ. Cùng với chữ viết, người Sumer đã phát minh ra các kiến trúc và thuyền xứng đáng vơi tên gọi của nó. Tìm kiếm bằng chứng về cuộc hành trình vĩ đại diễn ra từ những thiên niên kỷ trước, và cô hy vọng mình sẽ tìm ra như thể có phép thuật à? Như Tom Thumb có đầy đá? Cô thật ngây thơ một cách đáng buồn. Bất kể cô đang thực sự tìm kiếm gì, nếu nó có tồn tại, sẽ có các văn bản mà trong đó cô tìm ra dấu vết. giờ cô muốn tôi nói nhiều hơn một chút và vẫn có ý ngắt lời tôi à?

Tôi nắm tay Keira, siết chặt nó trong tay tôi, có ý cho cô ấy biết hãy để ông ta tiếp tục câu chuyện của mình.

-Một số người lập luận rằng người Sumer đã định cư bên sông Euphrate và Tigis, bởi vì nó đã có những vụ mùa bội thu và họ học được cách lưu giữ hạt giống. Họ có thể giữ được các loại cây trồng trong những mùa lạnh và cằn cỏi và không cần thiết phải sống như những người du mục để tìm thức ăn mỗi ngày. Đó là những gì tôi đã giải thích, giải quyết cho việc thay đổi một trạng thái sinh sống của con người. Ngay sau khi định cư, họ bắt đầu cải thiện cuộc sống hàng ngày của mình và phát triển nền văn minh. Một thảm họa địa lý hay khí hậu nào đó đã thay đổi thứ tự này, con người không thể tìm thấy thức ăn hàng ngày cho mình và họ bắt đầu lên đường. Cuộc di dân hay di cư, giống như những trận chiến, cùng một khuôn mẫu, đó là cách thức tồn tại đời đời. Nhưng trí tuệ của người Sumer đã phát triển đến mức họ định cư như những người nông dân. Tôi đã đưa ra các ý kiến rằng nền văn minh kia là sự hợp nhất của nhiều nhóm người, mỗi nhóm mang trong mình một văn hóa của riêng mình. Một nhóm đến từ Ấn Độ, những nhóm khác đến bằng đường biển dọc theo bờ biển của Iran và nhóm thứ ba đến từ Tiểu Á. Azov, Black, Aegean và Địa Trung Hải, những vùng biển không xa nhau, khi họ không giao tiếp. Đây là tất cả những người di cư đã tập hợp với nhau để tạ o nên nền văn minh khác thường này. Nếu con người có thể thực hiện được cuộc hành trình như cô nói, thì không gì họ không thể làm được! Và trong trường hợp đó, họ sẽ phài nói đến nó. Hãy tìm những văn bản của họ và cô sẽ thấy bằng chứng mà cô tìm kiếm.

-tôi đã tách những phần hợp trại… Keira thì thầm thật chậm.

-Cô nói gì? Thornsten hỏi.

-Tôi tìm thấy một văn bản bắt đầu bằng câu này: Tôi đã tách những phần hợp trại.

-Văn bản nào?

-Đó là một câu chuyện dài, nhưng nó được viết bằng tiếng Geez chứng không phải tiếng Sumer.

-Cô là đồ ngu! Thornsten đấm hai tay mình. Điều đó không có nghĩa là nói được viết ra vào thời điểm của cuộc hành trình mà cô nói tới, cô có học chưa, có hay là không? Câu chuyện được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, khi qua mỗi biên giới, con người dịch lại và thay đổi chúng. Cô có biết có bao nhiêu sự vay mượn như vậy trong phần kết của kinh Cựu ước và Tân ước? những phần của câu chuyện bị đánh cắp từ các nền văn minh khác nhau khác rất nhiều so với người Do Thái hay Kito giáo, những người đã cung cấp nó. Tổng giám mục Anh, James Ussher, giám mục Ireland, đã công bố vào giữa những năm 1625 và 1656 rằng ngày ra đời của vũ trụ là ngày 23 tháng 10 năm 4004 trước Công Nguyên, thật là một thứ rác rưởi xinh đẹp! Chúa đã tạo ra thời gian, không gian, các thiên hà, những vì sao, mặt trời, trái đất, động vật, đàn ông và đàn bà, thiên đường và địa ngục. người đàn bà thì được sinh ra từ một chiếc xương sườn của đàn ông!

Thornsten cười, đứng dậy để lấy một chai rượu, khui nó, rót ra bal y và đặt chúng lên bàn. Ông uống phần của mình trong một ngụm và đổ mình ngay lặp tức.

-Nếu cô biết được số lượng những kẻ ngốc vẫn tin rằng người đàn ông có ít xương sườn hơn phụ nữ, cô sẽ cười cả đêm… nhưng, câu chuyện này được lấy cảm hứng từ một bài thơ của người Sumer, cô ấy được sinh ra chỉ là một cách chơi chữ. Kinh Thánh có đầy rẫy những thứ này, từ cơn đại hồng thủy nổi tiếng đến chiếc thuyền của Noah, tất cả đều được viết bởi người Sumer. Vì vậy, hãy quên những người Hy Lạp cổ của cô đi, cô sai rồi. Họ chỉ là nhữn người nói tiếp, nói lại; chỉ có người Sumer mới phát minh ra chuyến đi bằng thuyền mà cô nói, họ đã phát minh ra mọi thứ! Người Ai Cập đã sao chép mọi thứ của họ, ghi chép rằng họ lấy cảm hứng từ chữ tượng hình của họ, nghệ thuật xây dựng thành phố bằng gạch. Nếu chuyến đi của cô có diễn ra, thì đây là nơi họ bắt đầu! Thornsten nói, chì vào sông Euphrate.

Ông ta đứng dậy và đi vào phòng khách.

-Ở yên đó, tôi đang tìm một thứ và sẽ quay lại.

Trong khoảng thởi gian ngắn ngủi chúng tôi ở bếp, Keira nghiên cứu bản đồ di chuyển ngón tay dọc theo con sông, cô ấy nói với tôi rất khẽ:

-Bão Shamal, nó được sinh ra chính xác ở vị trí mà Thornsten đã nói đến. Thật buồn cười khi tưởng tượng ra rằng em đã định hướng từ thung lũng Omo. Cuối cùng lại quay về đó.

-Sự lay động của những cánh bướm… tôi trả lời, nhúng vai, nếu bão Shalman không thổi, chúng tôi đã không ở đây.

Thornsten xuất hiện lại ở nhà bếp với một tấm bản đồ khác, chi tiết về vùng bắc bán cầu.

-Vị trí thực tế của băng tại thời điểm đó là gì? Những con đường nào đóng? Và những cái nào mở ra? Mọi thứ đều là giả thuyết. nhưng thứ duy nhất để xác định giả thuyết của cô là tìm thấy bằng chứng xác nhận cho giai đoạn này, nếu không phải ờ điểm đến, thì ít nhất những người sứ giả của cô cũng bị dừng lại. chẳng có thứ gì chứng minh họ đã đạt được mục tiêu của mình.

-Ông sẽ chọn con đường nào trong hai con đường này để theo dấu họ?

-Tôi sợ rằng có rất ít dấu vết còn sót lại, trừ khi…

-Trừ khi cái gì? Tôi hỏi.

Đó là lần đầu tiên tôi cho phép bản thân mình tham gia vào cuộc trò chuyện này, Thornsten quay sang nhìn tôi như thế mới phát hiện ra sự hiện diện của tôi.

-Cô đã nói về chuyến đi đầu tiên đã hoàn thảnh ở Trung Quốc, những người đó có thể tiếp tục cuộc hành trình đến Mông Cổ, và trong trường hợp này, đó là cách hợp lý nhất để đến được hồ Baikal. Từ đây, họ có thể đi cùng với sông Angara, cho đến khi nó chảy vào sông Yenisei, cửa sông của nó nằm ở vùng biển Kara.

-Vậy là nó đã được hoàn thành, Keira hưng phấn.

-Tôi khuyên hai ngưởi nên đi đến Moscow. Cố giới thiệu mình với liên đoàn khảo cổ để lấy được địa chỉ của Vladenco Egorov. Đó là một lão già như tôi sống ẩn dật trong một căn lều, ở một nơi nào đó, mà tôi nghĩ rằng là gần hồ Baikal. Hãy giới thiệu tôi với ông ấy và trả cho ông ta một trăm đô la tôi đã nợ từ ba mươi năm trước… hai người nên làm thế.

Thornsten mò mẫm trong túi mình và tìm ra tờ 10 Euro cuộn tròn như một quả bóng.

-Hai người sẽ phải cho tôi vay một trăm đô… Egorov là một trong vài nhà khảo cổ người Nga vẫn còn sống, ít nhất tôi hy vọng rằng vẫn còn có thể tiến hành nghiên cứu dưới vỏ bọc của chính phủ của ông ta trong thời gian mà mọi thứ đều bị cấm. Ông ta đã lãnh đạo một hội khảo cổ trong vài năm và biết nhiều hơn những thứ mà ông ta không bao giờ muốn thừa nhận. Dưới thời Khrushchev, thật không khôn ngoan để tỏa sáng và thậm chí là ít có những lý thuyết của riêng mình về nguồn gốc của sự định cư của quê hương. Nếu cuộc khia quật cho thấy dấu vết của những người di cư qua biển Kara, nó đã được thông báo. Tôi chỉ giới thiệu ông ta để cho hai người biết rằng mình có đang đi đúng hướng hay không. Được rồi, màn đêm đã buông xuống rồi, Thornsten nói và đấm tay lên bàn. Bầu trời hôm nay rất trong, kể từ khi tôi nhìn vào những ngôi sao chết tiệt này, có một số ngôi mà cuối cùng tôi muốn đặt tên.

Ông ta lấy hai cái áo khoác trên giá và ném cho chúng tôi.

-Hãy trả lại nó khi chúng ta kết thúc, tôi sẽ mở hộp cá trích và cậu sẽ cho tôi biết thông tin!

Chúng tôi đã không thất hứa, hãy đi một mình đến điểm tận cùng của thế giới, và âm thanh của sự sống duy nhất ở mười dặm đang đi xung quanh bạn, với một khẩu súng đã lên nòng.

-Đừng có nhìn tôi như thể tôi có ý định đi săn sau đó. Khung vực đồng bằng này rất hoang dã, cậu sẽ không biết con thú nào đi qua mình trong đêm đâu. Bên cạnh đó, đừng có rời khỏi tôi. Đi đi, nhìn những điểm sáng đó và cho tôi biết nó được gọi là gì!

Chúng tôi dành thời gian để đi dạo vòng vòng trong đêm. Thỉnh thoảng, Thornsten phát hiện ra và chỉ vào một ngôi sao, một chòm sao, một thiên hà. Tôi gọi tên chúng cho ông ấy, bao gồm cả những thứ vô hình trong mắt chúng tôi. Ông ấy dường như thật sự hạnh phúc, đó không phải là người đàn ông mà chúng tôi gặp vào cuối buổi trưa.

Cá trích không quá tệ, khoai tây được nấu với tro muối. trong suốt bữa tối, mắt Thornsten không rời Keira, có phải vì rất lâu mới có một người phụ nữ xinh đẹp đến nhà ông ta, nếu thật sự ông ấy đã tổ chức một đêm như thế này ở nơi cách xa mọi thứ. Một lúc sau đó chúng tôi uống rượu trắng bên đám lửa mà chúng tôi đã nhóm và ăn rất nhiều thức ăn. Thornster trãi tấm bảng đồ mà ông đã lấy trên bàn và ra hiệu cho Keira đến ngồi cạnh ông.

-Nói cho tôi biết cái cô thật sự muốn!

Keira không trả lời ông ta, Thornsten nắm tay lại và nhìn vào lòng bàn tay.

-Trái đất không làm ra chúng như những món quà.

Ông ta quay lại vả đưa cái của mình cho Keira xem.

-Chúng đã được đào lên từ lâu.

-Ông đã tìm thấy nó ở đâu trên thế giới? Keira hỏi.

-Bất kể ở đâu, cũng rất lâu rồi.

Tối muộn hôm đó, ông đưa chúng tôi về nhà kho, nơi ông đưa chúng tôi về trên chiếc xe của mình. Chúng tôi được thả xuống cách nơi mình trọ 200 mét, chúng tôi ròn rén đi về trên những đầu ngón chân và trong ánh sáng của các bật lửa mà chúng tôi được bán với giá 100 đô la… một chiếc Zippon cũ có giá ít nhất là gấp đôi số đó, ông ta đã thề như thế và chúc chúng tôi lên đường bình an.

Tôi đã tắt nến và cố gắng tìm chút ấm áp trong tấm chăn ẩm ướt và lạnh buốt thì Keira quay sang hỏi tôi một câu rất buồn cười.

-Anh nhớ rằng đã có nghe em nói về người Hy Lạp cổ không?

-Anh không biết, có lẽ… nhưng sao?

-Bởi vì trước khi yêu cầu chúng ta thanh toán khoảng nợ của mình với người bạn cũ ở Nga, ông ấy đã nói “quên mấy người Hy Lạp cổ của cô đi, cô sai rồi”, em đã nhớ lại toàn bộ cuộc nói chuyện và chắc chắn rằng mình không hề đề cặp đến chuyện đó.

-Có thể em đã nói mà không nhận ra, hai người nói rất nhiều.

-Anh chán lắm à?

-Không, không phải, ông ấy là một người hải hước, khá thú vị. Nhưng anh thắc mắc vì sao một người Hà Lan lại đến sống ở một hòn đảo phía bắc Scotland.

-Em cũng thế, chúng ta nên hỏi ông ấy.

-Anh không chắc rằng ông ta có phản ứng lại không.

Keira đột nhiên rung mình và nép chặt vào tôi. Tôi nghĩ về câu hòi của cô ấy. dù tôi nhớ lại cuộc trò chuyện giữa cô ấy với Thornsten, tôi vẫn không nhận ra cô ấy nói về tộc người Hy Lạp cổ lúc nào. Nhưng dường như câu hỏi này có vấn đề, hơi thở của cô ấy đều đều, cô ấy đã thiếp đi.

Paris

Inovy đang đi bộ dọc theo vỉa hè. Ông phát hiện ra một băng ghế gần một cây liễu lớn và ngồi lên nó. Một làn gió lạnh buốc thổi dọc theo sông Seine. Vị giáo sư già kéo cao cổ áo khoác của mình và chà xát hai tay vào nhau. Điện thoại rung lên trong túi, ông đã chờ cuộc gọi này vào mỗi buổi chiều.

-Xong!

-Họ đã tìm ra nó mà không gặp chút khó khăn nào chứ?

-Bạn của ông dường như là một nhà khảo cổ học tuyệt vời như ông đã đánh giá, nhưng trước khi hai người họ đến nhà tôi, chúng ta có thể thấy kết thúc của mùa đông tới, tôi chắc chắn sẽ vượt qua được con đường của mình…

-Mọi thứ được sắp xếp như thế nào?

-Cũng giống như anh đã hỏi tôi.

-Và anh nghĩ…

-Tôi đã thuyết phục gì? ừ, tôi nghĩ thế.

-Cảm ơn, Thornsten.

-Không đủ đâu, tôi nghĩ ngay cả là chúng ta lúc này.

-Tôi chưa bao giờ nói là anh tôi nợ bất kỳ điều gì.

-Anh đã cứu cuộc đời tôi, Inovy. Tôi đã mơ ước trong một thời gian dài rằng có thể trả món nợ này cho anh. Cuộc sống của tôi không vui vẻ trong tất cả những ngày bị lưu vong, như còn bớt nhàm chán hơn là ở nghĩa trang.

-Thôi nào, Thornsten, thật vô ích khi nói tất cả những chuyện này.

-Ồ phải, nhưng tôi vẫn còn chưa nói xong, anh sẽ phải nghe tôi. Anh đã cứu tôi khỏi nanh vuốt của những kẻ muốn lột da tôi khi tôi bị đá đè ở Amazon. Anh đã cứu tôi khoi cuộc tấn công ở Geneva. Và nếu anh không cảnh báo, nếu anh không có ý định biến mất…

-Đó là câu chuyện cũ rồi, Inovy gián đoạn bằng giọng thật buồn.

-Không cũ đâu, nếu không anh đã không gửi hai con cừu đi lạc này đến đây và tôi đã hướng chúng về đúng hướng, nhưng anh có đắng đo về những rủi ro mà anh bắt chúng chạy hay không? Anh đưa chúng đến lò mổ và anh biết rất rõ điều đó. Những người đã đưa ra nhiều rắc rối đã giết tôi sẽ cố gắng giết họ nếu họ đến quá gần. anh đã biến tôi thành đồng lõa của anh kể từ khi tôi rời đi, tim tôi đang chống lại điều đó.

-Điều đó sẽ không xảy ra với họ đâu, tôi cam đoan với anh, thời thế thay đổi rồi.

-Vậy thì tại sao tôi vẫn ở đây? Và khi anh có được điều ông muốn, anh sẽ thay đổi danh tính của họ? họ sẽ đi và được chôn trong một cái lỗ nào đó sẽ chẳng bao giờ được tìm thấy? đó là kế hoạch của anh, bất kể anh đã làm gì cho tôi trong quá khứ, đều đã xong hết rồi. Đó là tất cả những gì tôi muốn nói, tôi chẳng còn nợ anh gì hết.

Inovy nhấn nút, Thornster đã kết thúc cuộc trò chuyện, ông thở dài và ném chiếc điện thoại xuống sông Seine.


Bình luận
Sắp xếp
    Loading...