Một cậu lính đứng cạnh kể: “Bên trong còn mấy cái xác nữa, tấc cả đều bị buộc xung quanh ra-đa, ối mẹ ơi, đang đào lại thấy bên dưới lớp băng thò lên một cái mặt đen sì làm em hết hồn, suýt thì bổ rìu vào đầu mình.”
Chúng tôi đều bật cười. Đội phó quay lại nhắc nhở: “Nhìn cậu to như gấu thế này mà yếu bóng vía, không mau thu dọn rồi sang kia giúp mọi người đi!”
Cậu lính này có lẽ là thành viên trong nhóm của đội phó, nên có vẻ hơi sợ đội phó, cậu ta lập tức nín thinh, cào gọn đống vụn băng sang một bên, rồi chạy đi. Tôi cũng muốn giúp họ một tay, nhưng đội phó cản lại, bảo không cần, bên trong đó rất lạnh, đến anh còn không chịu nổi, vừa ra đó đã phải vội vàng chui vào đây ngay.
Chẳng bao lâu sau, anh Đường cũng quay lại, anh lắc lắc đầu rũ sương trên tóc, từng mảng lớn rơi lả tả theo động tác của anh. Vừa đến nơi, anh lập tức ngồi ngay xuống cạnh đống lửa để sưởi. Mặt anh lạnh cứng. Sau đó, mấy tảng băng to tiếp tục được khênh vào, rồi mấy người lính lục tục quay trở về, đóng cửa hầm băng lại, sau đó chúng tôi mới cảm giác nhiệt độ ở đó ấm lên được một chút. Anh Đường kể, bên trong còn mấy tử thi nữa, không thể đào hết lên được, nếu đào tiếp thì có khi mình cũng bị chết cóng mất.
Nhiệt độ ở bên ngoài dường như vẫn tiếp tục hạ thấp, chúng tôi không hiểu vì sao lại vậy. Chúng tôi vứt thêm những thứ có thể cháy được vào đống lửa cốt để lửa cháy đượm hơn, mấy cậu lính lúc nãy phải uống mấy cốc trà nóng mới cảm giác người ấm lên được một chút.
Vài cậu lính công trình vừa uống trà vừa vây quanh xác chết. Bùi Thanh xem ra khá hứng thú với mấy cỗ tử thi, cậu ta đi tới đi lui lật ngửa toàn bộ xác chết lên, để xem khuôn mặt của họ. Làm xong mọi việc, cậu ta cũng mệt đến nỗi thở không ra hơi.
Tôi đứng cạnh nhìn, không hiểu cậu ta có ý gì, bỗng nhiên tôi thấy cậu ta đứng ngây người ra sau khi lật ngửa một xác chết lên, rồi cậu ta ngồi sụp xuống.
Tôi vội cầm cả cốc trà chạy lại, hỏi xem cậu ta phát hiện thấy gì. Bùi Thanh trả lời với vẻ ngạc nhiên tột độ: “Xác chết này là một phụ nữ!”
Vừa dứt lời, mấy cậu lính đang vừa lật xác vừa nói chuyện ầm ĩ bỗng im bặt, họ đều quay lại chỗ chúng tôi.
Bầu không khí bỗng chốc chùng xuống, mọi người nhìn nhau, biểu cảm trên gương mặt của những người lính công trình rất kì lạ, sau đó một người đứng dậy, đi tới chỗ cái xác, những người khác cũng tới vây quanh.
Lúc đó, mọi người đều có cảm giác ngượng ngập, nhưng về sau nghĩ lại tôi thấy đó là cảm xúc rất bình thường. Những cậu lính công trình đều đang ở độ tuổi thanh xuân phơi phới, nhưng quanh năm chỉ biết lê bước chân trên những dặm đường rừng sâu núi thẳm dài dằng dặc, hết đồi núi lại khe suối quanh co, công việc của chúng tôi thực sự rất vất vả, gian khổ, và rất hiếm có cơ hội gặp phụ nữ, cho nên mỗi lần được gặp phụ nữ, đều là một sự kiện khiến trái tim họ xôn xao loạn nhịp. Với độ tuổi này, tôi biết tâm trạng họ luôn có một cảm giác mong ngóng được có cơ hội gặp người khác giới, nên dù chỉ là một xác chết, cũng đủ khiến họ lúng túng ngượng ngùng rồi.
Huống hồ ở thời đại chúng tôi, phụ nữ Nhật duy nhất mà chúng tôi biết là công chúa Ngọc Phương Đông[1], mà đó hình như chỉ là một danh xưng mà thôi. Nên lúc này tôi không hề phóng đại, những cậu lính này tự nhiên bị xao động tâm hồn cũng là điều hết sức bình thường. Chẳng phải có một câu tục ngữ “Tòng quân ba năm, lợn sề không chê” hay sao.
[1] Công chúa “Ngọc Phương Đông” Kawashima Yoshiko (Xuyên Đảo Phương Tử), (1907-1948): là một nữ điệp viên Nhật, phản Trung Hoa.
Tôi cũng đến bên cái xác, nhiệt độ ở đây vẫn rất thấp, về cơ bản, không thể làm tan băng, chúng tôi có thể nhìn rõ cơ thể người phụ nữ bên trong lớp băng nhưng cơ thể người phụ nữ đó rất nhỏ, điều giúp chúng tôi nhận biết được đó là nữ giới có lẽ là do mái tóc.
Nữ quân nhân Trung Quốc đa số đều để kiểu đầu học sinh, hoặc có người xuống tóc cắt luôn kiểu con trai cho gọn, rất hiếm khi gặp người để tóc dài, dường như chỉ có nữ quân nhân Nhật Bản mới để kiểu tóc dài.
Tất cả những gì lộ ra bên ngoài cũng chỉ có thế, mấy cậu lính xem mãi, bất giác nhận ra người phụ nữ này và hình ảnh Công chúa Ngọc Phương Đông trong đầu của họ là hai hình ảnh hoàn toàn khác nhau, nên họ chẳng nói chẳng rằng, lần lượt bỏ đi. Chỉ còn Bùi Thanh vẫn ngồi trân trân nhìn cái xác. Tôi gọi cậu ta, cậu ta mới ngẩng đầu lên, sắc mặt cậu ta có vẻ hơi khác thường, nhưng sự thay đổi đó rất nhỏ và chỉ diễn ra trong khoảnh khắc. Tôi tò mò hỏi, cậu ta thở dài: “Xác chết này vẫn còn là một cô bé, bọn Nhật thật tàn ác!”
Vương Tứ Xuyên ngồi cạnh trả lời: “Chiến tranh có chừa ai, kể cả phụ nữ, cậu có biết cô ta đã giết bao nhiêu người Trung Quốc mình không? Thương xót nỗi gì?”
Bùi Thanh nhếch mép cười, rồi đột nhiên bảo với tôi: “Anh Ngô, giúp tôi lấy một ít nước nóng, chúng ta rã đông cái xác này ra, để tôi kiểm tra xem cô ta có mang theo gì trên người không!”
Tôi vội hỏi lại: “Cái gì? Cậu định làm gì nữa?”
Cậu ta liền giải thích, ở nơi này bỗng nhiên xuất hiện một người phụ nữ là điều rất khác thường, bởi nữ quân nhân trong hàng ngũ quân đội Nhật Bản thường làm những nhiệm vụ rất đặc biệt, có thể họ là thư kí của các sĩ quan cao cấp, đôi khi tuổi đời của họ còn trẻ, nhưng lại đảm nhiệm những chức vụ rất cao. Bùi Thanh muốn tìm hiểu xem cô gái này đến từ đâu, trên người có mang theo thứ gì không, biết đâu lại có những tài liệu có giá trị.
Nhưng anh Đường vội can đừng dùng nước nóng, nhiệt độ của khối băng này rất thấp, đổ nước sôi vào là nứt ngay, đến lúc đó cái xác bên trong sẽ bị phá hủy, đợi đến lúc tan băng thì thứ nước rã ra cũng toàn là máu. Hồi kháng Mỹ viện Triều anh từng gặp những trường hợp thế này nhiều rồi, thi thể của các chiến sĩ tình nguyện bị đông cứng trong tuyết, sau được đào lên, không có cách nào để cạy thân thể họ ra, cuối cùng phải dùng khăn lông hơ nóng, rồi lau từng tí một để rã chỗ băng bao phủ bên ngoài.
Hồi tôi làm ở Đại Hưng An Lĩnh cũng biết kiểu làm tan băng như vậy, thời tiết vùng đó cũng lạnh giống như ở trên băng vậy, nhưng làm như vậy thì lớp băng bên ngoài tự khắc tan ra.
Bùi Thanh không còn cách nào khác đành phải nghe theo. Ở nhiệt độ thế này, nếu đợi lớp băng bên ngoài tự tan ra thì không biết phải đợi đến bao lâu. Bùi Thanh đành cầu viện tôi, chúng tôi lăn cái xác đến cạnh đống lửa.
Thực sự tôi chẳng có hứng thú gì với việc này, nhưng xem ra lý do của cậu ta khá xác đáng, tôi không thể phản đối, đành giúp cậu ta một tay.
Lớp băng bên ngoài vỡ ra từng miếng một không theo quy luật nào, tôi lăn cái xác một vòng, toàn bộ cái xác liền lộ ra. Bùi Thanh kêu lên: “Cẩn thận, cẩn thận!”, rồi vội vàng lật lại.
Tôi chau mày, cảm giác lúc đó thật khó tả. Cảm giác lúc đó, đến tận bây giờ tôi vẫn còn nhớ rõ, tôi thấy cái xác thật kì cục nhưng tiếc là tôi không có thời gian để phân tích kỹ xem rốt cuộc nó kì cục ở điểm nào, bởi khi ấy toàn bộ sự tập trung của tôi đều dồn vào vật nằm giữa đống băng.
Tôi thấy sau lưng xác nữ quân nhân là một hộp sắt rất to với hình dạng kì lạ, cái hộp này hình tròn, nó cao gần bằng nửa người cô gái. Cảm giác đầu tiên nảy ra trong đầu tôi là trông nó thật giống một con ốc sên làm bằng sắt.
Tôi vừa nhìn đã sững người, trực giác mách bảo chiếc hộp này rất không bình thường.
Tôi có cảm giác đó là một loại máy móc chuyên ngành địa chất hoặc là một loại địa lôi. Tôi gọi anh Đường đến xem, nhưng anh Đường bảo nó không phải là địa lôi, địa lôi thì phải có ngòi nổ. Có điều, anh cũng không biết đây là loại máy móc gì, xem hình thù thì chỉ thấy giống một cái hộp bằng sắt.
Tôi cảm giác cái hộp này rất khác thường, nhưng cũng không thể lý giải nổi nó khác thường ở điểm nào, dường như tôi đã thấy nó ở đâu đó rồi. Có điều, tôi chỉ láng máng cảm giác vậy, còn cụ thể đã thấy ở nơi nào thì lúc đó tôi không tài nào nhớ được.
Mấy cậu lính nổi máu tò mò, liền vây lại xem là thứ gì. Tôi cho các cậu ấy xem, rồi bảo động não nghĩ thử xem, rốt cuộc cái hộp tròn tròn đó là gì, bên trong nó chứa gì? Một cậu lính đoán phải chăng nó chứa lương khô, liền bị đội phó mắng cho một trận. Anh Đường can: “Cậu Ngô thì bảo mọi người động não nghĩ xem nó là gì, còn cậu thì mắng người ta như thế thì ai dám nói nữa?”
Nghe cấp trên khiển trách, đội phó không dám càu nhàu nhưng vẫn thấy bực bội. Tôi cảm giác con người đội phó khá thực tế, nhưng lại quá cứng nhắc nên mới không thể thăng cấp nổi. Tôi vỗ vai bảo đội phó bình tĩnh lại, đừng coi tôi là sếp.
Mã Tại Hải nói: “Vật này rất giống hộp tròn đựng cuộn dây cáp điện thoại. Anh xem, ở giữa cái hộp có một chỗ lõm xuống, đó chính là dấu vết của lõi quấn, sợi dây cáp quấn xung quanh, vừa đi vừa thả nó ra. Tôi đoán trong hộp chắc chắn là một cuộn dây cáp, bên trong nó chắc là cuộn thứ gì đó.”
Một cậu lính khác phản đối: “Không phải, dây đạn trong súng tự động cũng có thể cuộn lại như thế này, nếu bảo cái hộp này là hộp đựng dây cáp thì to quá, như vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động của con người.”
Tôi nghe những lời phán đoán của Mã Tại Hãi, cảm thấy khá hợp lý, vật này chắc chắn có cái gì đó cuộn ở bên trong, nhưng chắc chắn không thể là dây cáp điện thoại hoặc là dây đạn của loại súng máy tự động. Những thứ đó quá nặng, những người khác không đeo thứ này mà lại để cho phụ nữ quân nhân đeo thì độ nặng của nó phải hợp lý, vây thứ bên trong của cải hộp này chắc phải không nặng lắm.
Nhưng nếu vậy thì nó là cái gì?
Đang lúc cả đội đau đầu suy nghĩ, Vương Tứ Xuyên bỗng đánh tiếng: “Gớm, chỉ thấy các bố đi đi lại lại bàn bạc chuyện cao cấp xa xôi, cần cái quái gì phải khách khí với một cái xác con đàn bà Nhật, cầm cái rìu bổ ra vài nhát là thấy được bên trong có cái gì thôi mà”, nói rồi anh liền chui ra khỏi túi ngủ bước tới.
Bùi Thanh vội vã bật dậy, đứng chặn ngay trước mặt cậu ta, lạnh lùng gằn giọng: “Vương Tứ Xuyên, anh còn có kỉ luật không hả?”
Trong đội, Bùi Thanh vốn là một người rất điềm tĩnh, hiếm khi thấy cậu ta cáu gắt, đặc biệt là giận dữ, bình thường khi nghe chúng tôi bàn chuyện cậu ta có gì nói nấy, cho nên thấy cậu ta phản ứng như vậy, Vương Tứ Xuyên cũng thấy chờn.
Vương Tứ Xuyên không giữ được bình tĩnh, cậu ta ghét nhất cái giọng ra vẻ bề trên của Bùi Thanh, liền trợn trừng mắt như hai mắt trâu quát lại: “Cậu định làm gì? Ai giẫm lên đuôi mà nhảy cẫng lên như thế? Cậu bảo tôi không có kỉ luật? Kỉ luật mẹ gì ở đây?”
Bùi Thanh quát lại: “Thứ nhất, anh làm thế này là xúc phạm đến tử thi. Thứ hai, tình trạng tử thi trong lớp băng chưa rõ thế nào, nếu có nguy hiểm gì, anh định chịu trách nhiệm như thế nào?”
Vương Tứ Xuyên ngớ người ra một lúc, rồi cười: “Xúc phạm cái xác? Xúc phạm cái cứt í! Ả này là mẹ cậu hay vợ cậu? Hay giống nòi nhà cậu là từ giống giặc lùn này mà ra?”
Tôi nghe thế cũng bực, Vương Tứ Xuyên đúng là đồ độc miệng, câu nói đùa này thực sự hơi quá đáng.
Bình thường dân công trình chúng tôi cũng hay đùa quá trớn, trong lũ chúng tôi thì Vương Tứ Xuyên mồm miệng tía lia nhất, nhưng dù gì cậu ấy cũng là người có học, chưa từng nói những lời quá đáng bao giờ, song câu vừa rồi quả thực đã vượt quá giới hạn đùa cợt của chúng tôi, tôi không hiểu tại sao cậu ấy lại làm vậy.
Quả nhiên nghe xong điều đó, mặt Bùi Thanh tái đi, cậu ta nhảy chồm lên: “Tổ sư nhà mày!”, rồi thì xông đến đá Vương Tứ Xuyên một cú, thế nhưng cậu ta đâu phải là đối thủ của Vương Tứ Xuyên, Vương Tứ Xuyên giơ chân đạp một phát, cậu ta đã ngã lăn quay ra đất, cậu ta nhanh chóng đứng bật dậy, cầm gậy phá băng dựng bên cạnh hùng hổ xông tới. Tôi thấy sắp đánh nhau to liền vội vàng kéo Bùi Thanh lại, anh Đường cũng lao vào giữa hai người và quát dằn mặt cả hai.
Tôi kéo Bùi Thanh sang một bên, lúc đó cậu ấy mới dần bình tĩnh trở lại, vứt thanh sắt xuống đất, xô tôi ra rồi đi vào trong phía nhà kho. Mặt Vương Tứ Xuyên càng sạm đi, hai mắt rực lên như hai hòn lửa, cậu ta vẫn còn muốn chửi, nhưng bị anh Đường ngăn lại.
Tôi ngoảnh lại nhìn anh Đường, bụng thầm than khổ, anh Đường đưa mắt ra hiệu bảo tôi đi xem Bùi Thanh thế nào, không cậu ấy lại bỏ đi đâu mất.
Tôi đành phải bỏ đó mà đi, chạy theo Bùi Thanh đã đi sâu vào bên trong, tôi nhìn thấy cậu ấy thấp thoáng giữa những đống đồ đạc, rồi ngồi xuống đó. Tôi muốn để cậu ấy bình tĩnh lại, nên không đến gần mà chỉ ngồi xa quan sát cậu ấy. Tôi thấy Bùi Thanh gục đầu lên hai đầu gối, dường như đang khóc nức nở.
Nhìn thấy Bùi Thanh như vậy, tôi không khỏi động lòng, Bùi Thanh phản ứng quá kích động như vậy có thể vì tuổi thơ của cậu ấy có kỉ niệm đặc biệt nào đó với người Nhật, cũng có thể vì môi trường ở nơi này quá ngột ngạt, bức bối, những nỗi gian khổ trên cả chặng đường dài khảo sát của chúng tôi cứ từng bước tích tụ lại, rồi biến thành sự ức chế và khi đến giới hạn nhất định, nó bùng nổ ra. Tôi không tiện đến gần hỏi han hay khuyên nhủ mà chỉ đứng nhìn.
Rồi lâu sau, cậu ta dần dần bình tĩnh trở lại, sau đó làm bộ như không có gì, rồi đi ra ngoài.
Tôi cũng ra theo, đến nơi đúng lúc mọi người đang nghỉ tay, bầu không khí thật gượng gạo, không ai nói với ai câu gì. Bùi Thanh nhặt lấy đồ đạc của mình mang sang chỗ khác. Vốn đĩ cậu ấy nằm cạnh Vương Tứ Xuyên, Vương Tứ Xuyên thấy thế định ngoạc mồm ra chửi tiếp, tôi liền đá cho cậu ta một phát, khẽ quát: “Đủ rồi đó, đồng nghiệp với nhau cả, cậu bớt mồm bớt miệng một tí đi!”
Vương Tứ Xuyên đành nuốt cục tức, quay lưng về hướng khác rồi lăn ra ngủ, chẳng mấy chốc đã cất tiếng ngáy như kéo gỗ. Mãi tận lúc ấy, bầu không khí mới trở nên ôn hòa được một chút.
Tôi xem đồng hồ, thời gian chẳng còn sớm nữa, lúc đó mới nghĩ tới anh Miêu, không hiểu sao anh ấy vẫn chưa quay trở lại. Bấy giờ tôi nhớ ra hai cậu lính mới quay trở lại lúc nãy, tôi ngoảnh đầu tìm quanh, tìm một vòng như không thấy hai người đó đâu.
Tôi rất rầu rĩ, tôi không hề nhìn thấy họ đã đi lúc nào. Chẳng lẽ họ quay trở lại tìm anh Miêu?
Vậy là, tôi liền lay từng người dậy, hỏi xem ở đây có ai cùng đội với anh Miêu không, nhưng tất cả đều lắc đầu, trả lời không biết gì về anh ấy, ở đây toàn quân của anh Đường cả.
Thế này thì có vấn đề rồi, tôi lay Vương Tứ Xuyên dậy, kể lại chuyện cho cậu ấy nghe. Vương Tứ Xuyên đưa mắt tìm kiếm số lính nằm đó, nhưng cũng không nhận ra hai người lính đó.
Tôi nghĩ bụng, lẽ nào lúc nãy chúng tôi nhận nhầm người? Những người lính này đều mặc quân phục Nhật Bản, lẽ nào hai người lúc trước chào hỏi chúng tôi lại không phải là lính anh Miêu đưa tới? Tôi liền hỏi, trong các anh ở đây có ai lúc nãy chạy về thông báo việc con đập đã xả hết nước không? Nhưng mọi người đều lắc đầu.
Anh Đường nhìn thái độ của chúng tôi, liền nhóm dậy hỏi xem có chuyện gì. Tôi kể lại sự tình cho anh ấy nghe. Mọi người đều thấy ngạc nhiên, tuy sự tình cũng không có gì gọi là quái lạ, nhưng tự nhiên có hai người lính xuất hiện, rồi tự nhiên biến mất, thì cũng không thể coi là bình thường được.
Đội phó gợi ý đi tìm thử, biết đâu trong lúc chúng tôi đang bận túi bụi thì hai người đó đã trở về chỗ anh Miêu, người đông thường dễ lộn xộn, có khi cả hội không để ý cũng nên.
Tôi gật đầu đồng ý: “Nhắc đến mới nhớ, sao mãi chẳng thấy tin tức gì của anh Miêu nhỉ? Lẽ ra giờ này nhóm anh Miêu phải quay lại rồi mới đúng. Hay chúng ta qua chỗ anh ấy xem sao?”
Càng nói, chúng tôi càng thấy sự việc bất thường. Anh Đường giao cho đội phó đi cùng mấy cậu lính vào kho tiến hành tìm kiếm. Đội phó lập tức xuất phát.
Độ sâu và rộng của cái kho này khá lớn, lại chất đầy các đống vật dụng, chúng tôi vẫn chưa đi xem xét hết phía sâu bên trong. Tôi nhìn vào thấy một màn đêm tăm tối, tự nhiên rợn hết cả người.
Chẳng bao lâu sau, chúng tôi nghe thấy đội phó cất tiếng gọi, nhưng không nghe thấy tiếng anh Miêu trả lời, tiếng gọi như thể bị bóng tối nuốt chửng, rõ ràng không có hi vọng gì.
Nói thực, lúc đó chúng tôi ai cũng cảm thấy hơi căng thẳng, anh Đường đưa điếu thuốc “Thiết Ưng” cho tôi, rồi an ủi chắc không có chuyện gì đâu, ở nơi này những chuyện có thể xảy ra thì đã xảy ra rồi, chắc họ đi quá xa thôi.
“Thiết Ưng” là loại thuốc lá rất lâu đời của nhà máy sản xuất thuốc lá Bộ Quốc phòng thời kì sau giải phóng, tôi hút mãi rồi. Tôi nghĩ bụng, thời đại nào rồi mà vẫn còn người hút loại thuốc này. Tôi rít một hơi, thấy mùi vị khá nặng, nhưng được tỉnh táo trở lại. Tôi lại quay lại nhìn vào trong kho, lúc này không còn nghe thấy tiếng gọi của đội phó nữa.
Chúng tôi cũng không rõ cái nhà kho này rộng bao nhiêu, bây giờ nhớ lại, thấy kết cấu của nó thực sự rất phức tạp, cũng khó mà mô tả lại được rõ ràng hình thù chi tiết. Cũng không thể lấy thứ khác để so sánh hay tả lại nó rộng bao nhiêu mét, bởi đó là một cấu tạo không gian không theo quy tắc nào cả, trần nhà kho khá cao, trên sát trần còn có rất nhiều đồ vật chất đống trên các tầng lưới sắt, có cả các đường dây sắt kéo dài, bên dưới có nhiều đồ đạc chất lại thành từng đống cao ngất ngưởng. Rõ ràng quân Nhật đã nghiên cứu kĩ hình khối của con đập sao cho có thể tận dụng tối đa không gian ở đây.
Chúng tôi chờ đợi chừng chục phút, không nghe thấy âm thanh nào khác của đội phó, cũng không thấy anh quay trở lại. Anh Đường vẫn yêu cầu chúng tôi kiên trì chờ đợi, anh bảo đội phó mang theo súng, nếu chẳng may xảy ra chuyện gì thì đã nổ súng rồi.
Lòng tôi lo lắng không yên, nhưng tôi không muốn để người khác biết, tôi đành đến chỗ đặt mấy cỗ tử thi để quan sát. Bùi Thanh đang ngồi bên cạnh xác nữ, đăm đăm nhìn lớp băng đang dần tan ra.
Tôi chìa thuốc lá ra trước mặt cậu ta, nhưng cậu ta không động đậy, tôi càng rầu hết cả người, nhìn quanh thấy mấy cậu lính không để ý tới chúng tôi, tôi liền hỏi Bùi Thanh đang có chuyện gì?
Bùi Thanh không để ý đến lời nói của tôi, cậu ta liếc tôi một cái rồi lại tiếp tục nhìn lớp băng, dường như không muốn nói chuyện với ai vậy. Tôi đẩy người cậu ấy mấy cái, cậu ấy phủi tay tôi ra.
Không còn cách nào khác, tôi đành đi tìm Vương Tứ Xuyên. Nhưng không rõ cậu ta đang ngủ thật hay ngủ giả vờ mà tôi lay mãi cũng không chịu tỉnh.
Tôi thực sự hết cách, nghĩ bụng: vua không lo thì thôi sao thái giám phải cuống?, rồi sau đó lại tự an ủi: Anh Đường dạn dày kinh nghiệm, hơn nữa lại rất hiểu nhóm đội phó, anh ấy bảo không sao là không sao, hơn nữa cũng không nghe thấy có tiếng súng nào vọng lại, có khi bọn họ đã gặp chuyện gì đó tạm thời chưa quay lại được cũng nên. Tôi thấy những chuyện xung quanh khiến đầu mình căng lên như dây đàn.
Tôi đành quay lại chỗ đống lửa, nằm xuống nghỉ ngơi, tôi nhìn lên mớ dây cáp điện giăng chằng chịt như mạng nhiện và rủ xuống như thòng lọng trên trần nhà kho và nghĩ đến những chuyện vừa qua. Ánh lửa chập chờn phản chiếu lên đó, bóng của mớ dây cáp không ngừng chuyển động, một lúc sau tôi liền ngủ thiếp đi, tôi đánh một giấc chừng sáu tiếng đồng hồ. Lúc tỉnh dậy, đội phó vẫn chưa về, anh Đường cũng không thấy đâu, xung quanh chỉ còn Mã Tại Hải và mấy người lính tôi không quen biết.
Trực giác mách bảo tôi chắc đã xảy ra chuyện chẳng lành.
Tôi hỏi Mã Tại Hải là mọi người đi đâu hết? Cậu ta đáp: anh Đường không thấy đội phó quay lại nên đã đích thân dẫn người đi tìm, đến bây giờ vẫn không thấy động tĩnh gì. Cậu ta không biết nên làm thế nào, đang định vào đó tìm xem sao.
Tôi nghĩ bụng: cái nhà kho này nuốt người được người hay sao, nghĩ đến đó tự nhiên tim đập thình thịch, sau đó, tôi liền đánh thức Vương Tứ Xuyên dậy, bảo cậu ta sửa soạn, chúng tôi nhất định phải làm gì đó.
Lúc tỉnh dậy, Vương Tứ Xuyên hãy còn chưa biết chuyện gì xảy ra, cũng may cậu ta nhanh chóng hiểu ra vấn đề. Vương Tứ Xuyên hút một điếu thuốc rồi đánh giá sự việc chắc đang tiến triển theo chiều hướng xấu. Anh Miêu vốn là người làm việc rất khôn ngoan, đi lâu như thế này, nếu có xảy ra chuyện gì chắc chắn đã cử người về báo rồi. Còn sự tình đã đến mức này thì ắt có vấn đề lớn rồi.
Tôi bảo cứ ngồi đó đoán mò thì được ích gì, vấn đề là bây giờ phải làm gì?
Vương Tứ Xuyên vò đầu bứt tai, rồi bảo hay chúng ta đi tìm thử xem? Vấn đề là lương thực và phương tiện vận chuyển các thiết bị của cả đội đều tập trung ở đây, nếu họ không gặp chuyện gì thì chắc chắn sẽ quay lại đây thôi. Nếu không thì cứ ngồi đây đợi, có điều là chẳng biết phải đợi đến bao giờ.
Điều này có gì đáng phải do dự? Tôi nhìn quanh một lượt, phía xa Bùi Thanh đang say ngủ, ngoài ra còn ba cậu lính công binh khác nữa. Tôi bảo Mã Tại Hải đi cùng chúng tôi, Mã Tại Hải là một tay làm việc khá linh hoạt, còn Bùi Thanh cứ để cậu ta ngủ cho lại sức, ba chúng tôi bật đèn pin đi sâu vào trong nhà kho.
Tôi vốn không nghĩ rằng nhà kho này lại rộng lớn đến nhường ấy, tôi cứ nghĩ phía trong hốc tối kia là bức tường, thế nhưng đi tiếp vào trong mới thấy không gian bên trong thực sự rất rộng lớn, có thể chứa được lượng lớn các nguyên vật liệu khác nhau.
Vương Tứ Xuyên cầm theo gậy phá băng, vừa đi vừa gõ vào đống đồ đạc, âm thanh phát ra khá thu hút sự chú ý của người khác. Bởi đồ vật chứa trong kho sắp xếp không theo quy tắc nào, nên chưa đi được bao lâu, chúng tôi đã không còn nhìn thấy ánh lửa phát ra từ điểm nghỉ chân khi nãy, nhiệt độ bắt đầu xuống thấp, mặt đất toàn vụn băng và rất trơn, khiến chúng tôi di chuyển vô cùng khó khan.
Chúng tôi cẩn thận dò dẫm từng bước tiến về phía trước, trên mặt đất đã thấy dấu vết của nhóm người đi trước. Sau khi ngoặt qua vài ngã rẽ, ba chúng tôi chợt sững người khi thấy phía trước xuất hiện một bức tường bê tông cao lừng lững, bên trên còn treo một tấm biểu ngữ.