Cô Phương Bất Tự Thưởng

Chương 4


Chương trước Chương tiếp

“Haizzz, hết kịch hay để xem rồi”, Sở Bắc Tiệp vừa rời khỏi, Hoa tiểu thư cũng ngáp một cái thoải mái, rồi nhảy lên vén tấm rèm ra, nói vẻ ngán ngẩm, “Đúng là một kẻ cuồng binh pháp, chỉ được mỗi cái bộ dạng dễ coi, cũng chẳng biết nói chuyện gì hay ho. Mà ngươi cũng giỏi thật đấy, nói chuyện được với hắn những nửa ngày trời. Này, tiểu Hồng, sao ngươi không nói gì thế?”.

Lúc này, Sính Đình đang vô cùng lo lắng. Nàng cau mày trầm tư nên chỉ ậm ừ cho qua, bởi vẫn mải nghĩ đến bộ dạng lúc vị công tử kia rời khỏi đây.

Có tin tức của thiếu gia sao? Người của vương phủ Kính An có bình an không? Đông Định Nam đang định làm gì?

Dáng đi ấy, cả phong độ khí phách khi luận binh trong lúc chuyện trò, sự cẩn trọng khi hạ giọng với cấp dưới trước mặt người ngoài, đều vô cùng thân thuộc với Sính Đình. Đó là khí phách của một đại tướng quân.

Đại tướng quân? Nàng bắt đầu lục lọi trong trí nhớ những vị tướng quân lẫy lừng của Đông Lâm, trẻ tuổi tài cao, người của vương tộc Đông Lâm… Và cái tên đầu tiên hiện ra trong đầu nàng chính là Trấn Bắc vương. Nàng khẽ chớp mắt, thật đáng tiếc vì trước đây không sai người vẽ một bức họa Sở Bắc Tiệp mang về.

Thần xui quỷ khiến thế nào mà Trấn Bắc vương lại tặng đàn cầu kiến nàng, thị nữ của vương phủ Kính An? Điều này thực quá hoang đường?

Thấy nàng ngẩn ngơ, Hoa tiểu thư che miệng, cười nói: “Người đã đi rồi, ngươi còn ngơ ngẩn làm gì? Chẳng lẽ thực sự là tình chàng ý thiếp, đã bắt đầu tương tư rồi?”, vừa nói Hoa tiểu thư vừa lấy cái khăn tay huơ huơ trước mặt nàng.

Chiếc khăn tay khẽ chạm vào lông mi khiến nàng sực tỉnh, nàng nói với Hoa tiểu thư: “Nô tỳ buồn ngủ quá, xin lui về phòng ngủ trước”.

“Còn chưa ăn cơm mà?”

“Sáng mai nô tỳ ăn bù.”

Nói rồi, Sính Đình trở về phòng, nằm lên chiếc giường sạch sẽ chắc chắn, lại bắt đầu suy nghĩ.

“Thiếu gia…” Nàng cắn chặt răng, trong lòng càng thêm buồn bực, như có ngọn lửa đang chầm chậm thiêu đốt lồng ngực. Thấy mình lại bắt đầu lo lắng, nàng tự trấn tĩnh: “Sính Đình, đừng sốt ruột, sốt ruột sẽ hỏng việc”.

Mớ suy nghĩ hỗn loạn dần được xếp lại, Sính Đình bình tĩnh hít thở thật sâu. Nàng khẽ nhắm mắt, trong đầu bỗng hiện lên hình ảnh lá cờ Kính An vương quen thuộc. Nàng nghĩ đến thiếu gia, nghĩ đến vương phủ Kính An, nghĩ đến lúc họ ca khúc khải hoàn trở về thành đô…

Kính An vương vừa thắng trận, đoàn quân hùng dũng tiến về, ngọn cờ Kính An vương tươi thắm phần phật bay trong gió, bốn bên cờ quạt rợp trời tô thêm uy phong lẫm liệt cho đoàn quân.

Dẫn đầu là vị tướng quân cưỡi trên lưng con ngựa lớn, trong mặc áo dài vân rồng cuộn màu tím, ngoài khoác áo giáp đã sáng bóng vì chinh chiến trận mạc, lưng giắt bảo kiếm chuôi vàng nạm ngọc, quý giá vô cùng. Đó chính là Tiểu vương gia Hà Hiệp, người mà mọi người vẫn hết lời khen ngợi.

Hôm đó, dù chiến thắng trở về nhưng sắc mặt Hà Hiệp vẫn không hề vui mừng, đôi mày đậm cứ chau lại.

“Thiếu gia”, giọng thiếu nữ lanh lảnh vang lên, xen lẫn tiếng vó ngựa lộp cộp đuổi theo.

Không cần quay lại, Hà Hiệp cũng biết ai đang đến: “Sính Đình, mấy hôm nay muội không khỏe, ta đã cố ý để muội ngồi kiệu, sao lại cưỡi ngựa ra đây rồi?”.

Sính Đình đuổi theo Hà Hiệp, thúc ngựa bước sóng đôi bên cạnh: “Sao phải chiều muội như thế? Muội chỉ ho có vài tiếng mà Đông Chước đã cuống cả lên, rồi bẩm báo với thiếu gia nữa. Muội sợ thiếu gia nghĩ muội yếu ớt lắm bệnh, lần sau lại không cho muội theo quân xuất chinh”.

“Không cho xuất chinh, liệu muội có chịu không? Chỉ là, thật khổ cho muội, thân gái giữa chốn đao thương, bệnh cũng chẳng có người chăm sóc.”

Sính Đình cười khúc khích, vén sợi tóc đang bị gió thổi tung: “Muội không thấy khổ. Có nha đầu nào tốt số như muội đâu, lại được theo thiếu gia đi đánh trận”.

Nàng cười, rồi bỗng khựng lại, khẽ ho vài tiếng.

Hà Hiệp quay sang: “Sao thế? Chưa khỏi thì cố làm gì. Mặt trời nắng như thiêu đốt thế này mà cứ cố cưỡi ngựa theo ta. Còn không nghe lời, sau này ta sẽ không cho muội cùng đi đánh trận nữa”.

Sính Đình cố bụm miệng giấu đi tiếng ho. Một lúc sau, nàng ngẩng lên, thấy khuôn mặt lo lắng của Hà Hiệp, liền mỉm cười: “Thiếu gia không phải lo lắng, trước nay muội vẫn khỏe hơn ngựa mà”. Đôi mắt lanh lợi của nàng khẽ liếc Hà Hiệp, rồi nhanh chóng cụp xuống, khẽ bảo: “Muội chỉ lo… Haizzz, lo lúc thiếu gia đang phiền lòng mà lại chẳng có ai bên cạnh”.

Lời cảm thán khẽ khàng của nàng như đánh trúng suy nghĩ của Hà Hiệp.

Hà Hiệp sững người, cười ảo não, lắc đầu: “Nha đầu cổ quái, không có gì giấu được muội”. Thấy sắc mặt Sính Đình không được tươi như ngày thường, Hà Hiệp dừng ngựa, quay sang cười nói: “Sang đây, ngồi chung với ta, muội sẽ đỡ mệt. Chúng ta cũng dễ nói chuyện hơn”.

“Vâng!”, Sính Đình gật đầu, xuống ngựa.

Hà Hiệp giơ tay, đỡ Sính Đình lên ngồi phía trước mình. Một tay giữ eo nàng, tay kia cầm cương ngựa, Hà Hiệp cân nhắc những suy nghĩ vừa rồi, khẽ nói: “Lần này phụng mệnh quét sạch quân Đông Lâm ở biên cương, giao đấu với Sở Bắc Tiệp hai tháng, tuy chúng ta thắng, nhưng thực tế đã thua rõ ràng”.

Sính Đình gật đầu: “Thiếu gia nói rất đúng. Tuy Đông Lâm đã lui quân, nhưng sinh lực của Quy Lạc bị tổn thương nghiêm trọng. Nếu Đông Lâm tiếp tục xâm phạm biên cương, e rằng Quy Lạc chẳng còn quân ra trận nữa. Haizzz, nếu không vì Đại vương nghi kỵ vương phủ Kính An, hai năm nay không chịu hạ vương lệnh để thiếu gia xuất chinh, thì thế cục cũng không đến mức tệ hại thế này”.

“Sính Đình, không được tùy tiện nói chuyện Đại vương”, Hà Hiệp trầm giọng, “Muội nhớ kỹ, tân vương giờ không còn là Túc vương tử khi chưa lên ngôi nữa”.

Đang định phản bác, nhưng nghĩ lại, đúng là từ khi lên ngôi, Túc vương tử đã thay đổi rất nhiều, trong lòng Sính Đình cũng chùng xuống, những lời muốn nói đều tắc nghẹn nơi cổ họng. Nàng đành an ủi: “Muội hiểu những uất ức trong lòng thiếu gia, đại quân tan tác không phải do lỗi của thiếu gia. Cục diện bất lợi kéo dài hai năm, có thể duy trì được như hiện nay đã là rất khó khăn rồi. Đến khi thế cục tan tác, Đại vương mới giao chiến sự biên cương cho thiếu gia, rõ ràng muốn làm khó thiếu gia còn gì”.

“Chính bởi vậy nên ta mới lo. Nếu không thắng trận này, trở về thành đô, ta sẽ lập tức bị đem ra luận tội, ngay cả phụ thân cũng liên lụy. Đúng là thế lực của vương phủ Kính An quá lớn, nếu ta là Đại vương, ta cũng phải nghĩ kế tiễu trừ.”

Nghĩ về thái độ lạnh nhạt, luôn gây khó dễ với vương phủ Kính An của tân vương từ khi lên ngôi, cả hai đều cảm thấy chạnh lòng.

Thấy thị nữ của mình mặt mày ủ dột, lo lắng cho vương phủ, Hà Hiệp nhếch miệng, đưa ngón tay khẽ di trên hai hàng lông mày thanh tú của nàng: “Đừng nghĩ ngợi nữa, nói chuyện gì vui hơn đi. Lần này may mà muội nghĩ ra diệu kế dụ địch vào núi, mở cửa sông, chặn đường nên mới khiến Sở Bắc Tiệp kinh hoàng rút chạy. Giờ toàn quân đều biết chúng ta có một nữ quân sư. Về đến thành đô, ta sẽ xin phụ thân trọng thưởng muội. Nói xem, muội muốn gì nào?”.

“Còn thưởng nữa sao? Những thứ Vương gia thưởng cho muội, có dùng mười đời cũng không hết.” Sính Đình ngẩng mặt lên, mặt trời đã chếch sang bên, lá cờ Kính An vương vừa hay giúp nàng che bớt phần nào cái nắng chói chang. Nàng quay sang nhìn kỹ Hà Hiệp đánh giá, rồi lại nhìn thẳng về phía trước, nói: “Thiếu gia, có việc này muội chẳng biết nên nói ra hay không”.

“Muội với ta thì còn có điều gì mà phải lưỡng lự?”

Suy nghĩ giây lát, Sính Đình cười bảo: “Hay là muội không nói nữa, nói ra, thiếu gia lại phiền lòng”.

Dường như đoán được Sính Đình đang muốn nói đến chuyện gì, nụ cười trên môi Hà Hiệp ngưng lại.

Hai người không ai mở lời, yên lặng rong ruổi trên lưng ngựa.

Tiếng vó ngựa nện lộp cộp trên đường đất nóng hầm hập, bụi cuốn tung mù mịt.

Sính Đình cứ lặng lẽ hướng mắt về phía trước, không biết đang nghĩ gì. Biết người thị nữ giỏi giang nức tiếng của mình đang suy nghĩ, Hà Hiệp chỉ im lặng ôm nàng, ghìm cương ngựa, đi chậm lại.

Một lúc sau, Sính Đình nói: “Muội vẫn nên nói thì hơn…”.

“Ta rửa tai lắng nghe”, nhìn vẻ mặt nghiêm túc của Sính Đình, Hà Hiệp không kìm được trêu nàng.

“Thiếu gia, nếu muội đoán không lầm, thì sự việc vô cùng tồi tệ, muội không đùa đâu.” Sính Đình quay lại nhìn Hà Hiệp vẻ quở trách, rồi chân thành: “Với bản lĩnh của Sở Bắc Tiệp, chắc chắn hắn biết quân ta không còn sức chinh chiến tiếp. Chỉ cần hắn cố thêm hai tháng nữa, đại quân biên cương của Quy Lạc chắc chắn sẽ tan hết. Hắn cố ý rút lui trong lúc quân ta sắp không chịu đựng được nữa, là để… là để thiếu gia khải hoàn”.

“Đúng thế. Việc này chúng ta đều biết, nhưng sao hắn lại làm như vậy?”

Đôi con ngươi đen láy của Sính Đình linh hoạt xoay mấy vòng, cơ hồ đã có câu trả lời, nàng trầm ngâm: “Giả dụ thiếu gia bại trận, Đại vương sẽ trách phạt, sẽ nhân cơ hội này cắt đi một nửa binh quyền của vương phủ Kính An. Thiếu gia, chắc Đại vương sẽ không giết thiếu gia vì một lần bại trận chứ?”.

Hà Hiệp lắc đầu: “Đương nhiên là không rồi. Vương phủ Kính An chúng ta đời đời là trọng thần của Quy Lạc, nếu giết ta, Đại vương sẽ gây nên phong ba dữ dội”.

“Thế giả dụ thiếu gia chiến thắng trở về, liệu Đại vương có ban thưởng thiếu gia không?”

“Đánh trận chiến thắng, đương nhiên phải ban thưởng. Làm vua một nước phải thưởng phạt phân minh mới có được lòng dân”, Hà Hiệp thờ ơ, “Nhưng ta cũng không để ý đến việc này”.

“Chiến thắng về triều, thiếu gia sẽ càng được lòng dân chúng. Tuy ngoài mặt, Đại vương không thể không ban thưởng thiếu gia, song trong lòng càng kiêng dè vương phủ Kính An. Như thế, vương phủ Kính An sẽ càng nguy hiểm.”

“Nếu vậy, Đại vương tất phải ra tay trừ bỏ vương phủ Kính An. Trừ bỏ được vương phủ Kính An, Quy Lạc quốc sẽ rối ren, Đông Lâm sẽ thừa cơ xâm phạm. Sở Bắc Tiệp thật có dã tâm. Hắn không chỉ nhòm ngó mấy thành trì biên cương, mà còn muốn toàn bộ Quy Lạc quốc.”

“Thế thì đúng rồi!”, Sính Đình vỗ hai tay vào nhau, ánh mắt lộ vẻ đắc ý thật khiến người ta yêu mến. Từ một quân sư vạch đường chỉ lối, nàng lại trở thành một thị nữ hoạt bát đáng yêu, khuôn mặt tròn xinh xắn hằn rõ hai lúm đồng tiền sâu hoắm. Nàng quay lại cười với Hà Hiệp: “Thiếu gia thực lợi hại, tâm ý của Trấn Bắc vương đã bị thiếu gia nhìn thấu rồi”.

Hà Hiệp bật cười, nói: “Người lợi hại nhất phải là Bạch đại quân sư của chúng ta. Nếu muội là nam nhi, ta đâu được ngồi ở vị trí chủ soái này?”.

Hai người nói cười suốt chặng đường, vui vẻ là thế, nhưng thực ra trong lòng đều trĩu nặng những suy tư.

Bụi đường mờ mịt, tiền đồ gian nan.

Tuy đã có dự tính xấu, song họ không thể ngờ rằng, sự việc họ lo ngại lại xảy ra ngay trong chớp mắt.

Năm ngày rong ruổi, cuối cùng họ đã trở về thành đô. Đại vương Quy Lạc Hà Túc đích thân ra tận cổng thành nghênh đón đoàn quân. Biết tin tiểu Kính An vương danh tiếng lẫy lừng thắng trận trở về, dân chúng trong thành vội vã đổ xô ra cổng thành nghe ngóng. Sau hai hàng binh lính uy nghiêm, giương đao oai vệ là đám đông dân chúng, ai nấy đều cố rướn cổ thật dài.

“Ai là tiểu Kính An vương?”

“Còn không biết tiểu Kính An vương là ai nữa?”, có người tốt bụng chỉ, “Chính là vị tướng quân oai phong lẫm liệt dẫn đầu đoàn quân kia kìa. Người ở thành đô có ai mà không biết tiểu Kính An vương!”.

“Ha ha, đây là lần đầu tiên ta đến thành đô thăm người bà con. Không ngờ lại có cái phúc được tận mắt nhìn thấy tiểu Kính An vương danh tiếng lẫy lừng. Lần này trở về, ta có chuyện hay để kể rồi!”

Khi chúng dân đang xầm xì bàn tán, đoàn quân đã dừng ở cổng thành.

Vừa xuống ngựa, Hà Hiệp lập tức quỳ xuống, cất giọng sang sảng: “Đại vương vạn phúc! Mạt tướng may mắn chiến thắng, đã đánh bại được giặc Đông Lâm!”.

Hà Túc khoác hoàng bào tôn quý của thiên tử, đầu đội vương miện mành ngọc, ánh mắt sắc như chim ưng ẩn sau tấm rèm ngọc, thoáng tia lạnh lẽo, nhưng khóe môi lại khẽ nhếch lên. Tân vương đích thân vội vã đến đỡ Hà Hiệp: “Ái khanh đứng dậy đi. Lại làm khó ái khanh giúp quả nhân giải quyết vấn đề nan giải này. Có được vương phủ Kính An, Quy Lạc quốc ta sẽ chẳng sợ bất cứ kẻ thù nào”.

Tân vương thân thiết nắm tay Hà Hiệp, rồi quay lại.

“Nhìn xem, đây chính là tiểu Kính An vương!”

“Tiểu Kính An vương!”

Đám đông dân chúng lập tức rộ lên những tiếng reo hò vang dội.

Hà Túc cười nói với Hà Hiệp: “Ái khanh rất được lòng dân, khiến quả nhân mừng vô tận”. Sau đó, Đại vương bước lên bục cao đã được chuẩn bị sẵn, nâng chén rượu thị vệ dâng đến, cất giọng sang sảng: “Mọi người nghe đây, giặc Đông Lâm xâm phạm biên cương chúng ta đã hai năm, hôm nay tiểu Kính An vương thắng trận trở về, lập công lớn cho Quy Lạc quốc, quả nhân phải trọng thưởng”.

Người người ngẩng cao đầu, đoán xem Đại vương sẽ ban thưởng cho Hà Hiệp thế nào.

Hà Hiệp quỳ xuống, chắp tay bảo: “Tất cả đều nhờ sự chỉ huy đúng đắn của Đại vương, mạt tướng chẳng qua cũng chỉ chấp hành quân lệnh mà thôi. Mạt tướng đâu dám mong Đại vương ban thưởng”.

“Không, không, ái khanh là đệ nhất mãnh tướng của Quy Lạc quốc, chiến công hiển hách ai ai cũng tỏ, quả nhân sao có thể không ban thưởng cho khanh?”, Hà Túc nói: “Quả nhân ban cho khanh ba thứ. Thứ nhất, quả nhân ban cho khanh chén rượu này”.

Ngay lập tức, thị vệ trong cung đứng sau Hà Hiệp dâng rượu lên. Hà Hiệp nhận lấy, ngẩng đầu nhìn Đại vương. Hà Túc ngửa cổ uống trước rồi giơ tay ra hiệu: “Uống đi”.

Thấy Hà Hiệp đã uống cạn chén rượu của mình, Hà Túc vui vẻ nói tiếp: “Thứ hai, quả nhân tặng khanh thanh tuyệt thế bảo kiếm. Người đâu, mang lên đây”.

Lát sau, chiếc hộp phủ lụa đỏ xuất hiện ngay trước mắt Hà Hiệp.

Vốn đau đầu vì thế cục kỳ lạ này, giờ Hà Hiệp càng không thể hiểu Đại vương đang giở trò gì, chỉ còn cách chắp tay thưa: “Đa tạ Đại vương!”, rồi nhẹ nhàng kéo tấm lụa đỏ, hai mắt bất chợt mở to, “A” lên một tiếng.

Dưới tấm lụa đỏ, thanh bảo kiếm đẹp mắt. Bảo kiếm không có vỏ, thân đen bóng, chính là thanh Hắc Mạc bảo kiếm đã thất truyền từ lâu. Tương truyền kiếm vô cùng sắc, và đặc biệt nếu bị thanh kiếm này chạm vào, thì dù chỉ là một vết thương nhẹ, nhưng vết thương ấy sẽ mãi mãi đen sì, cả đời khó coi vô cùng.

Xuất thân quyền quý, vốn chẳng hề coi trọng vàng bạc châu báu, sở thích duy nhất của Hà Hiệp chính là binh khí. Thế nên, khi bất ngờ được nhìn thấy Hắc Mạc bảo kiếm, vị đại tướng quân này không kìm nổi mà thốt lên lời cảm thán.

Hà Túc đứng trên bục cao, cười hiền từ khẽ hỏi: “Thế nào, khanh có thích không?”.

“Kiếm này quý báu vô cùng, mạt tướng sao dám…”

“Chính vì quý báu nên mới ban thưởng cho ái khanh, quả nhân biết khanh thích nhất binh khí, nhận lấy đi.”

Hà Hiệp vừa ngạc nhiên vừa vui mừng, đôi mắt sáng lên: “Tạ ơn Đại vương!”, rồi đích thân nhận lấy, quay lại nhìn về phía sau.

Sính Đình lập tức bước tới, hai tay đỡ hộp vuông, đang định lui ra, bỗng nghe thấy giọng ngạc nhiên của Hà Túc: “Chẳng phải Sính Đình đây sao?”. Nói rồi, Đại vương từ đài cao đi xuống, khuôn mặt rạng rỡ: “Lại theo Hà Hiệp xuất chinh hả?”.

Hai tay bê hộp vuông, Sính Đình cúi đầu hành lễ: “Tham kiến Đại vương”.

“Không cần đa lễ. Năm xưa, ngươi theo Hà Hiệp học hành, thuộc sách còn nhanh hơn chúng ta. Chúng ta luôn coi ngươi là tài nữ. Quả nhân lên ngôi một năm, suốt ngày trong vương cung. Trong cung không thiếu mỹ nhân, nhưng chẳng có ai thông tuệ như ngươi. Hà Hiệp, khanh có phúc hơn quả nhân đó”, Hà Túc vừa nói vừa quay sang cười với Hà Hiệp, “Đồ thứ ba trẫm thưởng cho khanh rất bình thường, vẫn là vàng bạc châu báu, toàn những đồ quý giá. Trẫm biết khanh không thích nhìn những thứ ấy, nên đã sai thị vệ trong cung mang đến vương phủ Kính An rồi”.

Tạ ơn Đại vương!”

“Chúng ta cùng lớn lên với nhau, tình cảm như huynh đệ, huynh hà tất phải đa lễ?”, Hà Túc thân thiết nói với Hà Hiệp, thấy Sính Đình đang định lui ra, liền gọi nàng lại: “Sính Đình”.

Cả chặng đường về gập ghềnh, toàn thân Sính Đình đau ê ẩm. Đang định về xe nằm nghỉ, không ngờ lại bị ánh mắt sắc sảo của Hà Túc phát hiện ra, Sính Đình dừng lại, nhỏ nhẹ hỏi: “Đại vương có gì dặn dò?”.

Tuy không xinh đẹp, nhưng Sính Đình lại sở hữu một giọng nói thánh thót lay động lòng người. Mỗi lời thốt ra tựa tiếng ngọc rơi trên đĩa bạc.

Khoảnh khắc nàng cúi đầu xuống, Hà Túc im lặng gần như thất thần.

“Đại vương?”

“Hả?”, Hà Túc sực tỉnh, khóe môi nhướng lên, xua tay, “Đi đi”.

Sính Đình nhân cơ hội ấy lui ngay ra, rồi đưa hộp vuông đang bê đến tê tay cho người khác, dặn dò: “Trông coi cẩn thận, Tiểu vương gia rất coi trọng thanh kiếm đen sì này”. Học thức hơn người, nàng biết rõ đây là thanh Hắc Mạc bảo kiếm, nhưng vì bản tính không thích binh khí, nàng luôn gọi những thứ bảo bối mà Hà Hiệp coi như tâm can là thứ nọ, thứ kia.

Đêm đó, vương phủ Kính An giăng đèn kết hoa khắp nơi, sáng rực rỡ.

Đám tôi tớ trong nhà mặt mũi hớn hở. Tiểu vương gia thắng trận trở về, Đại vương lại ban thưởng bao nhiêu thứ, chắc chắn họ cũng có phần.

Quan lại đến chúc mừng ngồi chật mười hai bàn tiệc. Kính An vương Hà Mạc ngồi ở vị trí chủ tiệc, rạng rỡ nghe mọi người chúc mừng.

Hà Hiệp đi kính rượu khắp lượt, chắc đã uống hết ba bình. Sính Đình cũng coi như là đại tổng quản của vương phủ Kính An, nhưng lại không tham gia bữa tiệc đêm đó.

Nàng ở trong tiểu viện của mình, tiếng huyên náo đã lùi tít đằng xa. Trăng sáng vằng vặc treo trên bầu trời cao, tỏa những ánh bạc bao trùm tiểu viện. Sính Đình thắp đèn trong phòng, bóng dáng thanh nhã của nàng in hình trên ô cửa giấy.

“Sính Đình…”, Hà Hiệp bỗng từ đâu xuất hiện.

Nàng vội đặt kim chỉ xuống, ngẩng lên cười nói: “Bên ngoài bao nhiêu khách, sao thiếu gia lại vào đây?”.

“Vào xem muội thế nào”, cầm bức uyên ương nàng đã thêu được một nửa lên, Hà Hiệp tán dương, “Người ta nói, nhân vô thập toàn, theo ta thì không đúng rồi. Muội giỏi về mọi mặt, thơ ca, văn chương mưu trí chẳng thua kém nam nhân, đường kim mũi chỉ quả là ‘sức người vượt quá thiên nhiên’ rồi”.

Sính Đình cười khúc khích, đáp: “Cả câu ‘Sức người vượt quá thiên nhiên’ mà thiếu gia cũng nói ra được. Sao thiếu gia khoa trương đến thế? Dùng từ ngữ lung tung”. Nàng lấy lại khung thêu trong tay Hà Hiệp, tiếp tục thêu, được mấy mũi, lại dừng tay, khẽ thở dài.

“Sính Đình, phụ thân nói với muội rồi à?”

“Vâng.”

“Ta cũng vừa nghe Đông Chước nói việc này”, nhìn khuôn mặt vẫn chẳng chút thay đổi của Sính Đình, Hà Hiệp lấy chiếc ghế ngồi xuống trước nàng, “Phụ thân thật là, cũng không hỏi ta một tiếng”.

“Vương gia muốn tốt cho muội. Vương gia nói, tuy muội không thể làm vương phi của thiếu gia, nhưng thứ bậc không khác gì vương phi. Sau này, ngoài chính thất vương phi của thiếu gia, tất cả những người khác đều phải gọi muội là tỷ tỷ.”

Nghe Sính Đình chậm rãi nói ra những lời ấy, trong lòng Hà Hiệp càng buồn bực, bèn cắt ngang: “Sính Đình, muội thật sự muốn gả cho ta chứ?”.

“Muội không xứng à?”, Sính Đình quay lại, đôi mắt đẹp trong veo chăm chú nhìn Hà Hiệp.

“Nói bậy nào!”, Hà Hiệp lắc đầu, đứng dậy, đi lại bên bàn. “Trong lòng ta hiểu rõ, bao nhiêu năm nay, chúng ta cùng nhau học hành vui chơi, thậm chí cùng nhau cưỡi ngựa xuất chinh, cùng nhau vào sinh ra tử. Nhưng muội chỉ coi ta như ca ca, ta chỉ coi muội là muội muội. Muội gả cho ta, mà không thấy ấm ức sao?” Thấy Sính Đình vẫn hoàn toàn bình thản, Hà Hiệp quay lại đập tay xuống bàn, nói giọng lo lắng: “Muội không giống những nữ tử khác. Muội có chủ ý, có chí hướng của mình. Ta thực không muốn muội phải chịu ấm ức”.

Một lúc sau, Sính Đình khẽ đáp: “Đây là chủ ý của Vương gia, muội có thể làm gì? Thiếu gia cũng biết, Vương gia nhặt Sính Đình về, bao năm nay Vương gia đối xử với Sính Đình như con gái trong nhà. Vương gia đối với Sính Đình ân trọng như núi, Vương gia bảo Sính Đình làm thiếp của thiếu gia, chứ Vương gia muốn lấy mạng của Sính Đình, Sính Đình cũng cam lòng”.

“Thế năm xưa ai từng nói, phải tìm được một lang quân hợp ý, nếu không thà ở vậy suốt đời?” Nha đầu này thường ngày thông minh lanh lợi, sao hôm nay lại cố chấp thế này? Hà Hiệp nghe Sính Đình nói vậy thì bực mình thở dài, rồi đập bàn rầm rầm.

Hai người đang giằng co, Đông Chước thình lình chạy vào phòng, báo: “Thiếu gia mau đến tiền viện nhận vương lệnh. Sứ giả của Đại vương nói, cả Sính Đình cũng đi cùng”.

Hà Hiệp hết sức ngạc nhiên: “Vương lệnh thì có liên quan gì đến Sính Đình?”.

“Đừng hỏi nữa, đi rồi khắc biết.”

Ba người vội vã ra tiền viện.

Tiền viện giờ không còn náo nhiệt như ban nãy. Đêm đã khuya, khách khứa đến chúc mừng cũng về gần hết, chỉ còn lại những người đang say mềm, có vài người ngủ gục ngay trên bàn.

Một người ăn vận kiểu thị vệ của vương cung đang cầm vương lệnh đứng trong tiền viện. Thấy mấy người Hà Hiệp đi ra, tên thị vệ bèn cất giọng sang sảng: “Phụng vương lệnh Đại vương, triệu tiểu Kính An vương và Bạch Sính Đình cô nương vào cung”. Vừa đọc xong, sứ giả kia cười nói tiếp, “Mời tiểu Kính An vương mang theo thanh bảo kiếm Hắc Mạc mà hôm nay Đại vương ban thưởng. Điều này do Đại vương dặn dò trước khi nô tài đến đây”.

Hà Hiệp ngạc nhiên: “Muộn thế này rồi, Đại vương còn triệu chúng ta vào cung làm gì?”.

“Nô tài cũng mới biết việc này”, sứ giả cười ha ha nói, “Đêm nay sau khi Đại vương và Vương hậu dùng bữa, có nói vương phủ Kính An giờ này chắc rất náo nhiệt. Rồi, không biết Vương hậu bảo gì mà Đại vương lại nhắc đến kiếm thuật của tiểu Kính An vương, nói chuyện năm xưa cùng học hành, Đại vương hay được xem Tiểu vương gia luyện kiếm, uy vũ vô cùng. Còn cả chuyện cô nương Sính Đình bên cạnh Tiểu vương gia cũng là một diệu nhân khó thấy, thông tuệ chẳng ai bì kịp”.

“Đại vương đã quá khen ngợi chúng ta rồi.”

“Đúng thế, Đại vương khen ngợi cũng khiến Vương hậu cảm thấy tò mò, muốn tận mắt xem tiểu Kính An vương múa kiếm, còn muốn nghe Sính Đình cô nương gảy đàn. Tiểu vương gia cũng biết Đại vương yêu chiều Vương hậu thế nào rồi đấy, nên người đã hạ vương lệnh, triệu hai vị vào cung.” Sứ giả thêm một câu, “Đại vương còn bảo, tuy đêm đã khuya, nhưng lại đúng ngày trăng tròn, cũng là cơ hội để cùng thưởng nguyệt và ngắm mặt trời mọc”.

Hà Hiệp khẽ gật đầu: “Hóa ra là vậy”, rồi quay sang dặn dò Sính Đình: “Vương hậu muốn nghe muội đàn, muội nhớ mang theo cây đàn nhà ta nhé!”.

Sính Đình đi vào, không lâu sau ôm ra một cây đàn, và đeo thêm một tấm mạng che mặt.

Hà Hiệp đưa theo năm thị vệ, cùng Sính Đình và Đông Chước ra khỏi phủ. Họ không ngồi kiệu mà mỗi người một ngựa.

Những cửa hiệu hai bên đường đều đã đóng cửa, tối om, rõ ràng là mọi người đang chìm trong giấc ngủ say. Đêm khuya thanh vắng, tiếng chân ngựa khua trên đường đá vang lên bản hòa ca lộp cộp, lộp cộp đều đặn.

Nhìn đoàn sứ giả chầm chậm đi cách mình một đoạn không xa, Sính Đình thúc ngựa lại gần Hà Hiệp, hạ giọng bảo: “Thiếu gia, Đại vương ra tay rồi”.

“Ta cũng cảm thấy không ổn”, Hà Hiệp quan sát đoàn người đằng trước, nói: “Muội nhìn xem, mấy thị vệ mà sứ giả đem theo đều là những cao thủ”.

“Đại vương muốn thiếu gia đem thanh bảo kiếm Hắc Mạc vào cung, nhưng trong vương lệnh lại không hề nhắc đến mà chỉ dặn sứ giả chuyển lời, rõ ràng có điều gì mờ ám.” Đám ngựa đang thong dong dạo bước dường như cũng cảm nhận được mối nguy đang rình rập trước mắt, tiếng bước chân bỗng trở nên bất an hơn. Sính Đình vội giữ chặt dây cương ghìm ngựa lại, nói: “Muội chỉ sợ Đại vương vin vào bảo kiếm Hắc Mạc để giá họa cho thiếu gia tự động mang kiếm vào cung với ý đồ mưu sát. Đến lúc đó, phục binh ào lên, chúng ta hết đường chối cãi”.

Hà Hiệp nhìn quanh bốn phía, nghiêng đầu bảo: “Con đường này cũng có phục binh, chỉ cần chúng ta có động tĩnh gì, bọn chúng sẽ xông ra ngay lập tức”.

Đang lo lắng giữ chặt dây cương, lại nghe hai người nói chuyện, Đông Chước xen vào: “Đúng thế, có sát khí”. Chẳng gì cũng bao lần theo Hà Hiệp chinh chiến, nên Đông Chước cũng có chút hiểu biết.

Mọi người của vương phủ đều nhất loạt tập trung tinh thần, cảnh giác nhìn quanh.

Chỗ này cách vương cung nửa chặng đường, nếu Đại vương thực sự muốn tiêu diệt, vào đến vương cung thì chỉ có con đường chết.

“Bây giờ nên làm thế nào?”, Hà Hiệp hỏi.

Sính Đình khẽ đáp: “Lúc nãy vào trong lấy đàn, muội đã nói với Vương gia về những lo lắng của chúng ta. Vương phủ người đông, xảy ra biến cố vẫn có thể ứng phó, nhân lúc trời còn tối mà chạy ra khỏi thành đô. Còn chúng ta…”. Bàn tay trắng mịn của nàng dần mở ra, để lộ bốn, năm viên bi sắt đen sì.

Đương nhiên Hà Hiệp biết đó là cái gì.

“Hay lắm!”, Hà Hiệp hạ giọng khen ngợi Sính Đình. Hai người nhìn nhau cười.

Sính Đình cao giọng gọi: “Vị công công phía trước xin dừng bước!”.

Sứ giả dẫn đường phía trước và đám thị vệ theo sau quả nhiên quay lại. Chọn được thời cơ thích hợp, Sính Đình vung tay một cái, chỉ nghe mấy tiếng đì đùng, cả con phố khói lửa ngút trời, cắt đôi hai đoàn người ngựa.

Xoẹt! Bảo kiếm Hắc Mạc được rút ra khỏi bao.


Bình luận
Sắp xếp
    Loading...