1Q84 (Tập 3)

Chương 22: Ushikawa


Chương trước Chương tiếp

Không bằng nói đôi mắt ấy tràn đầy lòng thương hại

Sáu giờ mười lăm phút chiều Chủ nhật, Tengo xuất hiện ở cửa chính khu nhà. Anh ta bước mấy bước rồi dừng chân, đảo mắt nhìn quanh quất như tìm kiếm thứ gì, ánh mắt dịch từ phải sáng trái, rồi lại chuyển từ trái sang phải, ngửa mặt lên trời, cúi xuống nhìn dưới chân. Nhưng hình như không thấy có gì khác với mọi ngày, nên anh ta lại đi tiếp ra đường.

Lần này Ushikawa không bám theo Tengo. Tengo không mang theo hành lý. Hai bàn tay to bè của anh ta đút trong túi quần kaki đã không còn đường li. Áo len cao cổ, cùng áo khoác màu xanh ô liu đã cũ, đầu tóc bù xù. Trong túi áo khoác màu xanh ô liu đã cũ, đầu tóc bù xù. Trong túi áo khoác có nhét một quyển bìa mềm. Chắc anh ta định đến quán ăn gần đây ăn tối. Ushikawa quyết định mặc cho Tengo muốn đi đâu thì đi.

Ngày thứ Hai Tengo có mấy tiết dạy. Trước đó, Ushikawa đã gọi điện đến trường dự bị xác nhận chắc chắn. Cô nhân viên nữ nói với y: đúng, lớp của thầy Kawana bắt đầu học bình thường theo kế hoạch giảng dạy từ thứ Hai tuần sau. Tốt rồi, ngày mai, rốt cuộc Tengo cũng trở lại với nhịp sống bình thường của anh ta. Với tính cách của anh ta, tối nay chắc anh ta sẽ không đi đâu xa. (Nếu theo dõi Tengo, Ushikawa sẽ biết anh đến quán rượu ở Yotsuya nói chuyện với Komatsu).

Gần tám giờ, Ushikawa mặc áo khoác ngắn, quấn khăn lên cổ, kéo sụp mũ len xuống, dòm chừng xung quanh rồi rảo chân ra khỏi tòa nhà. Lúc này Tengo vẫn chưa về. Nếu chỉ ăn tối ở quanh khu này thì xem ra anh ta đã đi hơi lâu một chút. Lúc ra khỏi cửa, y có thể không may chạm trán với Tengo vừa mới về. Nhưng dù phải mạo hiểm như vậy, tối nay Ushikawa cũng buộc phải ra khỏi nhà vào lúc này, y có chuyện không thể không làm.

Y dựa vào trí nhớ vòng qua mấy chỗ rẽ, đi qua mấy tòa nhà đã đánh dấu, thỉnh thoảng lại chần chừ một lúc, nhưng rốt cuộc cũng đến được cái sân chơi dành cho trẻ con ấy. Gió Bắc lạnh buốt hôm qua đã hoàn toàn ngừng thổi, giữa tháng Mười hai này, đây có thể coi là một buổi tối ấm áp. Sân chơi buổi tối vẫn tịnh không bóng người. Ushikawa lại đưa mắt nhìn quanh. Sau khi chắc chắn không có ai chú ý đến mình, y leo lên bậc thang của cầu trượt. Y ngồi trên đỉnh cầu trượt, dựa lưng vào lan can ngước nhìn trời. Ở vị trí gần giống như đêm qua, có một mặt trăng lơ lửng. Trăng tròn chừng hai phần ba, sáng vằng vặc. Xung quanh không có một cụm mây. Bên cạnh trăng này, còn lơ lửng một trăng nhỏ màu xanh lục, hình dáng méo mó.

Không phải mình nhìn lầm, Ushikawa nghĩ. Y thở dài một tiếng, lắc đầu. Không phải y đang nằm mơ, cũng không phải cặp mắt sinh ảo giác. Rành rành hai mặt trăng một lớn một nhỏ đang lơ lửng giữa bầu trời bên trên cây sồi trụi lá. Hai mặt trắng ấy tựa như đã đứng yên ở đó từ đêm qua, chờ Ushikawa trở lại trên đỉnh cầu trượt. Bọn chúng biết Ushikawa trở lại đây. Xung quanh chúng, như đã sắp đặt từ trước, là một sự im lặng đầy ám dụ. Và hai mặt trăng đang yêu cầu Ushikawa chia sẻ sự im lặng này với chúng. Chuyện này không được nói với bất kỳ ai. Đặt ngón tay trỏ phủ một lớp bụi mỏng lên môi, chúng bảo Ushikawa như thế.

Ushikawa ngồi đó, thử nhéo cơ mặt ra các hướng khác nhau. Đồng thời, để cho chắc ăn, y lần lượt nghiệm xem những cảm giác đó có gì không tự nhiên, không giống thường ngày hay không. Nhưng y không phát hiện ra điểm nào không tự nhiên. Tốt xấu thế nào, đây vẫn là gương mặt thường ngày của y.

Ushikawa luôn tự coi mình là người theo chủ nghĩa hiện thực, và đúng là như vậy. Tư duy siêu hình không phải là thứ y theo đuổi. Nếu có thứ nào đó quả thật tồn tại thì ta buộc phải chấp nhận nó là hiện thực, dù nó có hợp tình hợp lý và hợp logic hay không. Đây là lối suy nghĩ cơ bản của y. Không phải nguyên tắc và logic có trước rồi từ đó sinh ra hiện thực; mà là hiện thực có trước, sau đó mới sinh ra nguyên tắc là logic. Vì vậy, Ushikawa quyết định rằng trước mắt y phải chấp nhận chuyện trên trời có hai mặt trăng là sự thật, không còn lựa chọn nào khác.

Những chuyện còn lại để sau hẵng tính. Ushikawa cố gắng không nghĩ gì khác, chuyên tâm quan sát hai mặt trăng kia. Y tự buộc mình quen với cảnh tượng đó. Phải chấp nhận điều này một cách nguyên vẹn, y tự cảnh cáo bản thân. Không thể giải thích được làm sao lại có chuyện như vậy, nhưng trước mắt đây không phải là vấn đề cần đào sâu nghiên cứu. Xét cho cùng, nên ứng phó với trạng thái này như thế nào, đó mới là vấn đề mấu chốt. Vì vậy, y cần chấp nhận trọn vẹn những gì mình thấy, chứ không thắc mắc chuyện phải trái đúng sai.

Ushikawa ngồi đó khoảng mười lăm phút. Y dựa vào tay vịn cầu trượt, gần như không nhúc nhích, để bản thân thích ứng với cảnh tượng trên trời. Giống như thợ lặn dành thời gian để cơ thể mình dần dần thích ứng với sự thay đổi của áp suất nước, Ushikawa tắm mình trong ánh sáng của hai mặt trăng, để chúng thấm vào da thịt. Bản năng của Ushikawa nói với y, làm như vậy rất quan trọng.

Sau đó, người đàn ông thấp bé có cái đầu kỳ dị ấy đứng lên, bước xuống cầu trượt, trong lòng chất chứa đầy những suy tư không thể gọi tên, đi về khu chung cư. Y cảm thấy cảnh trí hai bên đường có vẻ như đã thay đổi, không còn giống lúc nãy nữa. Y thầm nghĩ, là do ánh trăng, ánh trăng đã làm cho hình dáng bên ngoài của sự vật sai chệch đi một chút. Kết quả là y mấy lần suýt rẽ nhầm đường. Trước khi vào cửa tòa nhà, y ngẩng đầu nhìn lên tầng ba, xác nhận lại rằng cửa sổ nhà Tengo vẫn không có ánh đèn. Anh ta vẫn chưa về nhà. Xem chừng anh ta không phải chỉ đến quán gần đây ăn tối. Anh ta có hẹn gặp ai đó chăng? Người kia không chừng chính là Aomame, hay có thể Fukaeri. Không chừng y đã để lỡ một cơ hội quan trọng. Nhưng lỡ mất rồi, có nghĩ nhiều cũng vô ích. Lần nào Tengo ra ngoài cũng bám đuôi theo thì không khỏi quá nguy hiểm. Chỉ cần y bị Tengo phát hiện một lần thì coi như mất cả vốn lẫn lời.

Ushikawa về phòng, cởi áo khoác, khăn quàng và mũ. Y vào bếp mở thịt bò kho đóng hộp, kẹp thịt bò vào trong bánh mì, đứng đó ăn luôn. Y uống thêm một lon cà phê không lạnh cũng không nóng. Cả hai đều nhạt như nước ốc. Có cảm giác ăn vào bụng, nhưng không có mùi vị gì. Ushikawa không đoán được nguyên nhân là do thức ăn hay do vị giác của mình. Cũng có thể là do hai mặt trăng đã hằn sâu vào đáy mắt y. Chuông cửa nhà ai reo khẽ, dừng một chút rồi reo lần nữa, nhưng y không để tâm. Không phải chuông nhà y mà xa hơn, chắc là cửa nhà nào ở một tầng khác.

Ăn hết bánh mì, uống hết cà phê, để kéo tâm trí mình trở về không gian hiện thực, Ushikawa chầm chậm hút một điếu thuốc, xác định lại một lần nữa trong đầu rằng hiện mình cần phải làm gì. Sau đó, y bước tới cạnh cửa sổ, ngồi xuống trước máy ảnh. Ushikawa bật nguồn điện lò sưởi lên, hai bàn tay xòe ra chỗ ánh sáng màu vàng cam ấy để sưởi ấm. Gần chín giờ tối Chủ nhật, gần như không có ai ra vào tòa nhà. Nhưng Ushikawa rất muốn biết Tengo trở về vào lúc nào.

Không bao lâu sau, một phụ nữ mặc áo lông vũ màu đen đi ra khỏi cửa chính. Y chưa từng thấy người phụ nữ này. Cô ta quấn khăn quàng cổ màu xám che đi nửa dưới khuôn mặt, đeo kính gọng đen, đầu đội mũ bóng chày. Ăn mặc kiểu ấy rõ ràng là để giấu mình khỏi những ánh mắt dòm ngó. Cô ta đi hai tay không, vội vã, sải những bước dài. Ushikawa ấn nút như một phản xạ có điều kiện, thiết bị điều khiển đóng mở cửa trập ba lần. Phải xem cô ta đi đâu, Ushikawa thầm nhủ. Nhưng y chưa kịp đứng lên thì đối phương đã ra đến ngoài phố, biến mất trong đêm. Ushikawa chau mày, đành chịu thua. Cô ta đi nhanh thế kia, dù bây giờ y có xỏ giày chạy ra thì cũng không thể đuổi kịp.

Ushikawa tái hiện lại trong đầu hình ảnh người phụ nữ vừa trông thấy. Cô ta cao khoảng một mét bảy, quần bò bó sát, giày đế mềm màu trắng, mỗi món quần áo trên người đều mới đến bất thường. Cô ta khoảng từ hai lăm hai sáu đến ba mươi. Tóc nhét trong cổ áo, không rõ dài ngắn thế nào. Chiếc áo lông vũ phồng phềnh khiến y không thể xác định được vóc dáng cô ta gầy béo ra sao, nhưng qua hình dáng đôi chân thì có thể thấy cô ta mảnh dẻ. Dáng vẻ cân đối cùng bước đi nhanh nhẹn chứng tỏ cô ta là người khỏe mạnh, đầy sức sống, hẳn là ngày ngày tập thể dục thể thao. Mỗi nét đặc trưng này đều khớp với Aomame theo y tìm hiểu được. Tất nhiên, không thể khẳng định ngay đây chính là Aomame. Cô ta dường như rất cảnh giác đề phòng bị người khác thấy, nhìn qua là biết cơ thể cô ta căng thẳng thế nào, giống như một nữ minh tinh sợ bị đám săn ảnh bám đuôi vậy.

Tạm thời giả định cô ta chính là Aomame.

Cô ta đến đây là để gặp Tengo. Nhưng Tengo đã ra ngoài. Trong nhà tắt đèn tối om. Aomame đến gặp anh ta, nhưng gọi cửa mãi không ai thưa, đành phải ra về. Không khéo cô ta chính là người đã ấn chuông hai lần lúc nãy. Nhưng theo Ushikawa, suy luận này có chút không hợp lý. Aomame đang bị người ta đuổi giết. Để tránh nguy hiểm, lý ra cô ta phải cố gắng tránh tai mắt của người khác. Nếu muốn gặp Tengo thì lẽ ra cô ta cần gọi điện thoại trước xem anh ta có nhà không. Như vậy thì có thể tránh được những nguy hiểm không cần thiết.

Ushikawa ngồi trước máy ảnh trầm ngâm suy nghĩ, nhưng không nảy ra được suy luận nào có vẻ hợp lý hợp tình. Hành vi của người phụ nữ đó… kiểu hóa trang đầy rẫy sơ hở, rời nơi ẩn náu mà mạo hiểm xông vào tòa nhà này… rất không phù hợp với tính cách của Aomame mà Ushikawa biết. Cô ta là người thận trọng và cảnh giác hơn nhiều. Điều này khiến Ushikawa bối rối. Nhưng y hoàn toàn không nghĩ tới cái khả năng chính y đã dẫn đối phương đến nơi này.

Dù sao đi nữa, y quyết định ngày mai đến tiệm in ảnh ở trước cửa ga, rửa hết đống phim đã chụp, trong ấy thế nào cũng có bóng dáng người phụ nữ bí ẩn này.

Y ngồi canh trước máy ảnh đến tận mười giờ hơn, nhưng từ sau khi người phụ nữ kia đi khỏi, không ai ra vào tòa nhà nữa. Giống như sân khấu bị bỏ lại sau buổi biểu diễn lác đác khán giả, chỗ cửa ra vào tòa nhà không một bóng người, tĩnh lặng như tờ. Tengo sao vậy nhỉ? Ushikawa lấy làm khó hiểu. Theo y biết, Tengo rất hiếm khi ra ngoài đến khuya muộn thế này. Huống hồ, ngày mai anh ta phải trở lại đứng lớp ở trường. Liệu có phải đúng lúc Ushikawa ra ngoài thì anh ta đã trở về nhà đi ngủ từ lâu rồi không?

Hơn mười giờ tối, Ushikawa nhận ra mình đã mệt mỏi cực độ, buồn ngủ đến gần như không mở nổi mắt nữa. Đối với loại cú đêm như y, đây là chuyện vô cùng hiếm gặp. Bình thường, nếu cần thiết y có thể thức trắng cả đêm. Nhưng duy có đêm nay, cơn buồn ngủ lại như cái nắp bằng đá của cổ quan tài cổ đại đè nặng trĩu trên đỉnh đầu y.

Nói không chừng tại mình nhìn hai mặt trăng kia lâu quá, Ushikawa nghĩ. Có lẽ vì ánh sáng kia đã thấm vào da thịt quá nhiều. Hai mặt trăng một lớn một nhỏ ấy hóa thành những cái bóng mông lung lưu trên võng mạc của y. Đường viền mờ tối của chúng làm tê liệt phần mềm não bộ y, giống như loài ong nào đó làm con sâu bướm to bị tê liệt, sau đó đẻ trứng lên bề mặt cơ thể nó vậy. Trứng nở thành ấu trùng sẽ dùng con sâu tội nghiệp không thể nhúc nhích đó làm nguồn dinh dưỡng ở ngay kề, ăn sống nuốt tươi nó. Ushikawa nhíu mày, xua đuổi ý nghĩa chẳng lành ấy ra khỏi tâm trí.

Hừm, mặc kệ, Ushikawa tự nhủ. Không nhất thiết phải đợi Tengo về. Dù anh ta về mấy giờ thì chắc hắn vào nhà là cũng vùi đầu đi ngủ luôn. Vả lại, ngoài căn hộ này ra anh ta không còn nơi nào khác để đi nữa. Có lẽ vậy.

Ushikawa mệt mỏi cởi quần và áo len, chỉ mặc áo lót dài tay và quần vải bông, chui vào trong túi ngủ, sau đó cuộn tròn người, lập tức ngủ thiếp đi luôn. Giấc ngủ này rất sâu, hầu như đến độ hôn mê. Lúc sắp thiếp đi, Ushikawa dường như nghe thấy tiếng gõ cửa. Nhưng ý thức của y lúc đó đã dịch chuyển sang một thế giới khác, y không thể phân biệt sự vật hiện tượng một cách chuẩn xác nữa. Nếu y gắng gượng làm việc đó, toàn thân liền kêu lên răng rắc. Vậy nên y không mở mắt, không buồn truy xem âm thanh ấy có ý nghĩa gì, lại chìm vào đầm lầy của giấc ngủ.

Chừng nửa tiếng sau khi Ushikawa ngủ say, Tengo từ biệt Komatsu về đến nhà. Anh đánh răng, treo chiếc áo ám mùi khói thuốc lên mắc, thay đồ ngủ rồi lên giường. Anh ngủ một mạch đến hai giờ sáng thì chuông điện thoại reo, báo rằng cha anh đã qua đời.

Lúc Ushikawa tỉnh giấc thì đã hơn tám giờ sáng thứ Hai, lúc này Tengo đang ngồi trên chuyến tàu nhanh đi Tateyama, thiu thiu ngủ để bù đắp lại giấc ngủ hồi đêm bị mất. Ushikawa ngồi trước máy ảnh, đợi Tengo ra khỏi tòa nhà đến trường dự bị. Nhưng đương nhiên Tengo không xuất hiện. Lúc đồng hồ chỉ một giờ chiều, Ushikawa bỏ cuộc, dùng điện thoại công cộng ở gần đó gọi đến trường dự bị, hỏi xem lớp của thầy Kawana có phải vẫn diễn ra bình thường không.

“Lớp của thầy Kawana hôm nay tạm nghỉ. Nghe nói là đêm qua thân nhân anh ấy đột nhiên qua đời,” cô gái nghe điện thoại trả lời. Ushikawa cảm ơn rồi gác máy.

Thân nhân qua đời? Thân nhân của Tengo thì chỉ có người cha từng làm nhân viên thu phí cho đài NHK thôi. Ông ta đang ở trong một viện điều dưỡng nào đó khá xa Tokyo. Tengo từng xin nghỉ một thời gian để đến đó chăm sóc ông ta, vừa mới quay về hai hôm trước. Ông ta đã chết. Vậy là Tengo sẽ phải rời khỏi Tokyo lần nữa. E rằng anh ta đã đi giữa lúc y đang ngủ. Thật đúng là! Sao mình lại ngủ say như chết thế chứ?

Dù thế nào thì giờ đây Tengo cũng thực sự thành kẻ cô độc trên cõi đời này rồi, Ushikawa thầm nhủ. Vốn anh ta đã cô độc, nay lại càng cô độc. Đơn côi lẻ bóng. Mẹ anh ta bị người ta siết cổ chết trong một nhà nghỉ suối nước nóng ở Nagano. Hung thủ đến nay vẫn ngoài vòng pháp luật. Bà ta bỏ chồng, dẫn theo Tengo khi ấy vẫn còn là một đứa trẻ ẵm ngửa theo người đàn ông trẻ ấy đào tẩu. Từ “đào tẩu” này cổ quá rồi, giờ không ai dùng những từ như vậy nữa. Nhưng nó là từ thích hợp nhất để đặc tả một hành vi nhất định. Không rõ tại sao lại có người giết bà ta. Thậm chí có phải chính người đàn ông đó là hung thủ hay không cũng chẳng ai biết. Trong một quán trọ, người đàn bà ấy bị người ta dùng thắt lưng áo choàng ngủ siết cổ đến chết trong đêm, còn người đàn ông đồng hành thì biến mất. Khó mà không tình nghi anh ta. Nhưng chỉ thế thôi. Sau khi được thông báo, người cha liền từ Ichikawa chạy đến đón đứa con nhỏ về.

Có lẽ nên nói chuyện này cho Kawana Tengo, Ushikawa nghĩ. Anh ta có quyền biết sự thật. Nhưng anh ta đã nói rồi, anh ta không muốn nghe những chuyện về mẹ từ một kẻ như mình. Vì vậy mình không nói với anh ta nữa. Chẳng còn cách nào khác. Đây không phải là vấn đề của mình, mà là của anh ta.

Dù sao đi nữa, Tengo có nhà hay không cũng vậy, việc giám thị tòa nhà này phải tiếp tục duy trì, Ushikawa tự nhắc mình. Tối qua mình đã thấy một phụ nữ bí ẩn nghi là Aomame. Cái đầu kỳ dị này đang nói với mình đó chính là Aomame, tuy không có bằng chứng nhưng khả năng là rất lớn. Giả sử người phụ nữ ấy chính là Aomame, không lâu nữa chắc chắn cô ta sẽ trở lại tìm Tengo. Cô ta vẫn chưa biết cha Tengo vừa chết. Đây là suy đoán của Ushikawa. Tengo chắc đã nhận được tin lúc nửa đêm, sáng sớm liền đi luôn. Vả lại, xem ra hai người này vì một nguyên nhân nào đó mà không thể dùng điện thoại để liên lạc. Nếu vậy, chắc chắn cô ta còn trở lại đây. Hẳn cô ta có chuyện gì đó rất quan trọng, dù mạo hiểm cũng phải đích thân đến tận nơi. Lần sau, dù thế nào, Ushikawa cũng phải xem cô ta đi đâu. Y cần phải chuẩn bị chu đáo cho chuyện này.

Làm vậy có lẽ cũng giải đáp được phần nào cái bí mật tại sao thế giới này có hai mặt trăng, Ushikawa rất muốn biết đáp án đó. Không, xét cho cùng, đây chỉ là vấn đề thứ yếu. Việc trước mắt của mình là tìm ra nơi ẩn trốn của Aomame, sau đó dán cô ta lên một tấm thiệp đẹp đẽ, giao nộp cho hai thằng cha đáng sợ kia. Trước lúc ấy thì, mặc xác mặt trăng có một hay hai, mình phải tập trung làm việc. Vì đây chính là việc mình làm giỏi nhất.

Ushikawa đi tới tiệm in ảnh ở trước cửa nhà ga, đưa cho nhân viên ở đó năm cuộn phim ba mươi sáu kiểu. Sau đó, y mang ảnh đã rửa vào quán ăn gia đình gần đó, vừa ăn cơm cà ri vừa xem xét lần lượt theo thứ tự ngày tháng. Gần như tất cả đều là gương mặt những người mà y đã quen thuộc. Chỉ có ảnh của ba người là y xem ít nhiều hứng thú. Fukaeri và Tengo, cũng với người phụ nữ bí ẩn đi ra khỏi tòa nhà lúc tối hôm qua.

Cặp mắt Fukaeri khiến Ushikawa căng thẳng. Trong ảnh, cô gái này đang nhìn thẳng vào mặt y. Không thể lầm được, Ushikawa nghĩ. Cô biết Ushikawa đang trốn ở chỗ đó, giám sát cô. E rằng cô còn biết y đang dùng ống kính được ngụy trang để chụp ảnh. Đôi mắt trong veo ấy của cô chỉ ra điều này. Đôi mắt thông tuệ nhìn thấu mọi sự, tuyệt đối không dung thứ cho hành vi của Ushikawa. Ánh mắt chính trực ấy không hề nương tình đâm thẳng vào trái tim Ushikawa, xuyên sang tận phía bên kia. Mọi hành vi của y đều không có chỗ để biện giải. Nhưng đồng thời, cô cũng không định tội cho Ushikawa, cũng không khinh bỉ y. Theo một nghĩa nào đó, đôi mắt đẹp ấy của cô đã khoan thứ cho Ushikawa. Không, không hẳn là khoan thứ, Ushikawa nghĩ lại. Không, đôi mắt ấy tràn đầy lòng cảm thương. Cô biết hành vi của Ushikawa là không sạch sẽ, nhưng cô trao cho y lòng cảm thương.

Nhìn vào đôi mắt cô, y cảm thấy chỗ xương sườn đau nhói lên, như thể bị que đan dày chọc vào. Y cảm thấy mình là một kẻ xấu xa biến thái ghê tởm. Nhưng đâu thể khác được, Ushikawa nghĩ. Trên thực tế mình chính là một kẻ xấu xa biến thái ghê tởm. Sắc thái cảm thương tự nhiên, trong veo nơi đôi mắt Fukaeri thấm sâu vào tim Ushikawa. Chẳng thà bị vạch trần, bị khinh miệt, bị mắng chửi, bị định tội, y còn thấy dễ chịu hơn. Hay chẳng thà cô dùng gậy bóng chày đập y một trận. Nhưng thế này thì y không thể chịu nổi.

So ra, Tengo dễ đối phó hơn nhiều. Trong ảnh, anh ta đứng trước cửa, cũng hướng ánh mắt về phía này, chăm chú quan sát xung quanh, giống như Fukaeri. Nhưng đôi mắt ấy không nhìn thấy gì. Đôi mắt trong sáng, vô tri của anh ta không tìm thấy chiếc máy ảnh được giấu sau rèm cửa, cũng không phát hiện ra bóng dáng Ushikawa ngồi phía sau.

Sau đó, Ushikawa nhìn sang “người phụ nữ bí ẩn.” Tổng cộng có ba bức ảnh. Đầu đội mũ bóng chày, gọng kính viền đen, khăn quàng cổ màu xám quấn chặt che kín tận dưới mũi. Không nhìn rõ mặt. Các tấm ảnh đều chụp trong ánh sáng yếu, cộng với bóng của vành mũ lưỡi trai phủ xuống. Nhưng người phụ nữ này và hình tượng Aomame do Ushikawa phác ra trong đầu trùng nhau một cách hoàn mỹ. Ushikawa cầm ba tấm ảnh ấy lên, tựa như đang xác nhận lại những lá bài pocker trong tay, lật qua lật lại. Càng nhìn y càng cảm thấy người này chỉ có thể Aomame chứ không ai khác.

Y gọi nhân viên phục vụ đến, hỏi xem hôm nay có điểm tâm ngọt gì. Cô phục vụ trả lời có bánh đào. Ushikawa liền gọi một phần, và một cốc cà phê.

Trong lúc chờ bánh đào được mang lên, Ushikawa tự nhủ, nếu đây không phải Aomame thì có lẽ mình sẽ không bao giờ có cơ hội gặp người tên là Aomame đó nữa rồi.

Bánh đào ngon hơn nhiều hơn so với tưởng tượng của Ushikawa. Vỏ bánh giòn rụm bọc bên ngoài lớp thịt đào mọng mước. Tất nhiên, có lẽ chỉ là đào đóng hộp, nhưng điểm tâm của quán ăn gia đình như thế là khá lắm rồi. Ushikawa ăn sạch miếng bánh đào, uống hết cà phê, hài lòng bước ra khỏi quán ăn. Trên đường, y rẽ vào siêu thị mua thực phẩm cho ba ngày, rồi về căn hộ thuê, tiếp tục ngồi lỳ trước máy ảnh.

Y vừa giám sát cửa ra vào của tòa nhà qua khe rèm cửa, vừa dựa lưng vào tường, chợp mắt một chút trong chỗ nắng. Ushikawa không lo chuyện này lắm. Thiu thiu một giấc ngắn thì chắc cũng không đến nỗi bỏ qua chuyện gì quan trọng. Tengo rời khỏi Tokyo vì bận tang lễ cha, Fukaeri chắc cũng không quay lại đây nữa. Cô biết Ushikawa vẫn tiếp tục giám sát tòa nhà này. Còn khả năng “người phụ nữ bí ẩn” kia đến đây giữa ban ngày ban mặt là rất thấp. Cô ta cẩn trọng và cảnh giác, chắc là phải đợi trời tối mới bắt đầu hành động.

Sắc trời đã tối, nhưng người phụ nữ bí ẩn ấy không xuất hiện. Chỉ có những gương mặt quen thuộc như mọi ngày đi ra ngoài giống như mọi ngày, kẻ đi chợ chiều, người ra ngoài tản bộ buổi hoàng hôn, những người đi làm vác bộ mặt bơ phờ mệt mỏi hơn lúc sáng thất thểu về nhà. Ushikawa chỉ đưa mắt nhìn theo những bóng người ra vào, thậm chí chẳng buồn chụp ảnh. Không cần thiết nữa, hứng thú của y giờ chỉ tập trung vào ba người. Ngoài ba người ấy ra, tất cả chỉ là những kẻ qua đường vô danh mà thôi. Để cho bớt nhàm chán, Ushikawa dùng những cái tên mình đặt bừa ra gọi bọn họ.

“Ông Mao ơi (người này có kiểu tóc rất giống Mao Trạch Đông), ông rất vất vả cả ngày rồi.”

“Ông Tai Dài, hôm nay ấm áp, đi bộ là hợp nhất ấy nhỉ?”

“Chị Không Cằm, chị lại đi chợ đấy à? Tối nay nhà ăn gì thế?”

Ushikawa ngồi canh đến mười một giờ, sau đó ngáp dài một cái, quyết định kết thúc công việc của ngày hôm nay. Y uống trà xanh đóng chai, ăn vài miếng bánh quy mặn, hút một điếu thuốc. Lúc đánh răng trong buồng vệ sinh, y tiện thể thè lưỡi thật dài, soi trong gương. Lâu rồi Ushikawa không quan sát lưỡi của mình, chỉ thấy bên trên đã mọc ra một lớp bựa lưỡi dày. Trông giống hệt như rêu, có màu xanh lục nhàn nhạt. Y cẩn thận kiểm tra bựa lưỡi dưới ánh đèn. Thật tởm lợm. Vả lại, nó còn bám chặt khắp trên mặt lưỡi, dường như không sao cạo đi được. Cứ thế này mãi rồi mình cũng biến thành một người rêu, Ushikawa thầm nghĩ. Bắt đầu từ lưỡi, rêu sẽ mọc khắp toàn thân. Có lẽ giống như mai con rùa sống trong đầm lầy. Chuyện này chỉ mới nghĩ thôi là đã khiến y nản cả người.

Ushikawa lặng lẽ thở dài, không nghĩ chuyện cái lưỡi của y nữa, tắt đèn buồng vệ sinh, uốn éo cơ thể trong bóng tối để cởi bỏ quần áo rồi chui vào túi ngủ. Y kéo phéc mơ tuya lên hết cỡ, cuộn mình lại như con sâu.

Lúc Ushikawa tỉnh lại, xung quanh tối om như mực. Y muốn xem giờ, bèn ngoảnh đầu lại, nhưng đồng hồ báo thức lại không ở chỗ thường lệ. Trong khoảnh khắc, Ushikawa đâm hoang mang. Trước khi đi ngủ, bao giờ y cũng kiểm tra vị trí của đồng hồ báo thức. Đây là thói quen từ nhiều năm nay. Sao không có đồng hồ? Khe hở trên rèm cửa sổ để lọt vào một vệt sáng mờ nhạt, chiếu lên độc một góc phòng. Xung quanh bao trùm trong màn đêm tối đen như mực.

Ushikawa nghe tim mình đập dữ dội để đưa adrenalin đi khắp toàn thân. Lỗ mũi y nở to, hơi thở gấp gáp. Giống như đang mơ một giấc mơ sống động như thật khiến người ta hưng phấn, nhưng giữa chừng thì giật mình sực tỉnh vậy.

Nhưng không phải mơ. Thật sự đã xảy ra chuyện gì đó. Bên cạnh y có người. Ushikawa cảm nhận được sự tồn tại của đối phương. Một cái bóng đen hơn cả bóng tối lù lù đứng đó, đang cúi nhìn mặt y. Sống lưng Ushikawa cứng đờ. Trong một phần giây, ý thức của y được xốc lại cho ngay, y toan kéo phéc mơ tuya túi ngủ ra theo phản xạ.

Trong chớp mắt, người kia vươn tay chẹn lên cổ Ushikawa, không để y kịp kêu lên một tiếng. Cổ họng Ushikawa cảm nhận được cơ bắp cuồn cuộn của người đàn ông ấy. Cánh tay siết chặt cổ y như hai gọng kìm cộng lực, không hề nương tình. Người đàn ông không nói không rằng, Ushikawa thậm chí không nghe thấy tiếng hắn thở. Y vặn vẹo vùng vẫy bên trong túi ngủ. Hai tay y níu chặt vào túi, hai chân đạp loạn. Y cố kêu lên thành tiếng, nhưng chỉ phí sức uổng công. Đối phương một khi đã vào tư thế trên tấm chiếu tatami là không nhúc nhích một phân, chỉ chầm chậm dồn thêm sức lên cánh tay. Hắn hành động hiệu quả, không một động tác thừa. Cùng với động tác của đối phương, khí quản Ushikawa càng lúc càng bị đè chặt, hơi thở mỗi lúc thêm mỏng manh.

Trong trạng thái tuyệt vọng ấy, nghi vấn lóe lên trong đầu Ushikawa… Người này làm sao mà vào được? Cửa căn hộ được chốt then và khóa cẩn thận, lại còn móc thêm dây xích bên trong. Cửa sổ cũng đóng kín mít. Làm sao hắn vào được gian phòng này? Nếu phá khóa, nhất định sẽ phát ra tiếng động, Ushikawa nghe thấy chắc chắn sẽ tỉnh dậy.

Tên này là một chuyên gia, Ushikawa nghĩ. Khi cần, hắn sẽ không do dự lấy mạng người khác. Hắn được huấn luyện để làm điều đó. Có phải người của Sakigake phái đến không? Đám người ấy cuối cùng cũng quyết định xử lý mình rồi sao? Đã nhận định mình là phế thải vừa vô dụng lại vừa có hại cho họ rồi sao? Nếu vậy, bọn họ đã quá sai lầm. Chỉ một bước nữa thôi là mình dồn được Aomame vào đường cùng rồi. Ushikawa cố hét lên thành tiếng với người đàn ông kia: Anh nghe tôi giải thích đã. Nhưng y không phát ra được tiếng nào. Không còn đủ không khí để chấn động dây thanh đới, đầu lưỡi y kẹt cứng trong cổ họng như khối đá.

Khí quản y lúc này đã chẹn cứng, không khí không thể lọt vào được. Hai lá phổi giãy giụa đòi thêm dưỡng khí mới, nhưng không biết tìm ở đâu. Y cảm thấy cơ thể và ý thức của mình dần dần tách lìa nhau. Cơ thể vẫn đang tiếp tục vùng vẫy bên trong túi ngủ, nhưng ý thức thì đã bị kéo vào một tầng không khí nặng nề dính nhơm nhớp. Hai tay hai chân y nhanh chóng mất cảm giác. Tại sao? Y đặt câu hỏi trong khi ý thức dần mờ đi. Tại sao mình phải chết trong bộ dạng mất mặt như vậy, ở một nơi mất mặt như vậy? Không có câu trả lời. Rất nhanh, bóng tối vô tận từ trần nhà rơi ập xuống, bao trùm hết thảy.

Khi tỉnh lại, Ushikawa không còn nằm trong túi ngủ nữa. Y không cảm thấy được tay chân mình. Y chỉ biết mình đang bị bịt mắt và má y đang áp xuống chiếu tatami. Cổ họng y không bị siết chặt nữa. Hai lá phổi y co vào nở ra hào hển nghe như ống bễ, hít đầy không khí tươi mới vào trong. Không khí mùa đông lành lạnh. Nhận được dưỡng khí, dòng máu mới được sản sinh, tim đập hết tốc lực, đưa thứ dịch thể màu đỏ ấm áp ấy đến từng đầu dây thần kinh. Y ho sặc sụa, tập trung tinh thần vào việc hít thở. Sau đó, y dần dần tri giác lại được hai tay chân mình. Trong hai tai y nghe rõ tiếng tim đập thình thịch. Mình vẫn còn sống, Ushikawa tự nói với mình trong bóng tối.

Ushikawa đang nằm sắp mặt xuống chiếu titami. Hai tay bị quặt ra phía sau, bị trói chặt bằng thứ gì đó mềm mềm như vải bông. Hai chân y cũng bị trói. Tuy không chặt lắm, nhưng đây là cách trói rất hiệu quả. Y hầu như không thể nhúc nhích, trừ lăn từ bên này đến bên kia. Mình vẫn còn sống, vẫn còn thở, Ushikawa cảm thấy không thể tin nổi. Đó không phải cái chết. Đã đến ranh giới của tử vong, nhưng vẫn chưa phải là chết. Hai bên cổ họng vẫn còn cảm giác đau nhói như thể mọc mụn nhọt. Nước tiểu rịn ra trong quần lót bắt đầu lạnh dần. Nhưng đó không phải là cảm giác khó chịu, ngược lại còn đáng mừng với Ushikawa. Vì cảm giác đau đớn và lạnh chính là dấu hiệu rằng y vẫn còn sống.

“Không chết đơn giản như vậy được đâu,” giọng người đàn ông vang lên. Cơ hồ như đọc được ý nghĩ của Ushikawa.



Bình luận
Sắp xếp
    Loading...