Vương Phải Tình Em
Chương 2
Sở hữu và điều hành quán bar là cái gì đó đã ăn vào máu anh. Cụ cố nhà Mick từng tự tay làm và bán rượu gạo rẻ tiền trong giai đoạn có lệnh Cấm Rượu. Và hai tháng sau ông mở quán bar Hennessy’s. Sau khi luật sửa đổi số mười tám bị bãi bỏ và những thùng rượu một lần nữa lại tiếp tục tràn vào nước Mỹ. Quán bar của nhà anh bắt đầu từ khi đó.
Chẳng phải Mick quan tâm gì đến những người đến đây uống rượu, chỉ là anh thích sự thoải mái giờ giấc khi được tự mình làm ông chủ. Anh không cần phải nhận mệnh lệnh, cũng chẳng phải trả lời ai. Và khi bước vào một trong những quán bar của mình, anh có một cảm giác được sở hữu. Một cảm giác chưa từng có đối với bất kỳ vật nào khác trong đời. Các quán bar của anh ồn ào, inh ỏi và hỗn độn. Nhưng đó là một mớ hỗn độn nằm trong tầm kiểm soát của anh.
Và ngoài việc có giờ giấc thoải mái và cảm giác được sở hữu kia, Mick thích kiếm tiền. Trong những tháng hè, anh moi được cả tấn tiền từ du khách và những người sống ở Boise nhưng sở hữu những chiế tàu thủy trên hồ ở Truly này.
Chiếc máy đếm xu ngừng lại và Mick gói từng cục tiền xu vào những ống đựng bằng giấy. Hình ảnh của cô gái với mái tóc đen và đôi môi đỏ hiện lên trong đầu anh. Mick chẳng thấy bất ngờ khi anh để ý Maddie ngay từ giây phút đầu tiên anh bước vào từ cửa sau quán Mort’s. Nếu anh không chú ý cô mới gọi là lạ. Làn da mượt mà và đôi mắt nâu quyến rũ gợi tình, cô chính là mẫu người ưa thích của anh. Nốt ruồi nhỏ gần đôi môi đầy đặn của cô làm anh nhớ ra đã rất lâu rồi anh không được hôn một đôi môi như vậy. Và rồi anh sẽ hôn dần xuống cằm, rồi cổ, và tất cả những chỗ mềm mại, ngọt ngào khác.
Kể từ khi quay lại Truly hai năm về trước, cuộc sống gối chăn của anh trở nên tồi tệ hơn anh tưởng. Mọi thứ đảo lộn. Truly là một thị trấn nhỏ nơi mọi người đi nhà thờ vào Chủ nhật và làm đám cưới từ rất sớm. Họ thường cố duy trì tình trạng “lập gia đình” hoặc có bỏ vợ bỏ chồng thì cũng tìm cách cưới lần hai càng nhanh càng tốt. Mick chưa bao giờ lằng nhằng với một phụ nữ đã có chồng hoặc chỉ cần có ý nghĩ sẽ lấy chồng. Dứt khoát là như vậy.
Nói vậy không phải là Truly không đào đâu ra phụ nữ chưa chồng. Sở hữu tới hai quán bar ở Truly, Mick đã gặp gỡ khá nhiều phụ nữ như thế. Nhưng anh biết phần lớn số họ cần ở anh nhiều hơn mấy thứ đồ uống cocktail vớ vẩn. Vài người trong đó anh đã hiểu quá rõ. Họ cũng biết về câu chuyện của gia đình anh, cũng bàn tán, và cho rằng họ cũng hiểu anh. Thực ra họ chẳng biết gì cả. Nhưng trước sau gì người ta cũng sẽ hiểu anh thích dành thời gian cho những phụ nữ không biết gì về anh cũng như quá khứ của anh hơn. Những người không hay biết chút gì về những chi tiết bẩn thỉu của cuộc đời cha mẹ anh.
Mick tống chỗ tiền và hóa đơn vào cái túi và kéo khóa lại. Chiếc đồng hồ trên bàn chỉ hai giờ năm phút. Bức ảnh chụp ở trường mới đây nhất của Travis được đặt trên chiếc bàn bằng gỗ sồi bóng loáng. Một ít tàn nhang màu nâu nhạt lắc rắc trên mũi và gò má cậu bé. Cháu ruột Mick còn bảy năm nữa được mười bốn tuổi, mang trong mình quá nhiều tính cách của nhà Hennessy. Nụ cười ngây thơ cũng chẳng lừa được Mick tí nào. Travis thừa kế được ở tổ tiên mái tóc đen, đôi mắt xanh dương cùng với tính cách phóng túng. Nếu không được kiểm soát, có lẽ nó sẽ kế thừa luôn tính hiếu chiến, nát rượu và mê đàn bà. Những đặc điểm tiêu biểu đó, nếu được tiết chế điều độ kể ra cũng chẳng xấu. Nhưng lớp lớp các thế hệ nhà Hennessy chưa bao giờ quan tâm đến hai chữ “điều độ”, và sự kết hợp trên thỉnh thoảng đã chứng minh sức mạnh chết người của nó.
Anh rời qua góc bên kia căn phòng và đặt tiền lên ngăn trên cùng của két, bên cạnh bản kiểm kê bán hàng tối hôm đó. Anh đóng sập cánh cửa két nặng chịch, đẩy cái móc bằng thép xuống và khóa lại. Âm thanh tick tick của chiếc khóa số phá vỡ không gian im lặng của căn phòng làm việc nhỏ nằm cuối quán bar. T
ravis đang làm Meg phát điên, chắc chắn là như vậy. Và chị gái của Mick gần như không hiểu tí gì về bọn con trai. Cô chẳng hiểu tại sao mấy thằng bé lại thích ném đá, chế tạo vũ khí từ bất cứ cái gì trong tay, và đánh nhau chẳng vì một lý do gì. Mick chính là người “cố vấn” cho Travis và giúp Meg nuôi dạy cậu, để thằng bé có người mà nói chuyện và dạy nó trở thành một người đàn ông tốt. Không phải vì Mick là một chuyên gia hay là tấm gương sáng chói gì của một mẫu đàn ông hoàn hảo. Mà vì anh có những kiến thức cơ bản và một vài kinh nghiệm làm sao để trở thành một gã đàn ông xấu xa.
Anh vớ lấy đống chìa khóa trên bàn làm việc và lao ra khỏi văn phòng. Tiếng gót giày nện cộp cộp xuống cái sàn gỗ cứng ngắc trong không gian im ắng của quán bar.
Khi còn là một đứa trẻ, Mick chẳng có ai xung quanh để nói chuyện hay để dạy anh phải trở thành một người đàn ông như thế nào. Anh được bà và chị nuôi nấng, và anh phải tự thân học lấy. Thông thường, anh đã phải học chúng một cách khó khăn. Và anh không muốn Travis cũng phải học theo cách đó.
Mick tắt điện và đi ra theo lối cửa sau. Không khí lạnh của buổi sáng tạt vào mặt, vào cổ khi anh tra chìa vào khóa cửa sau. Ngay khi học xong trung học phổ thông, anh đã rời Truly để tới học trường công lập Boise gần thủ phủ bang. Nhưng sau ba năm theo học vu vơ không mục đích, với thái độ chểnh mảng sa đọa, anh gia nhập quân đội. Khi đó, chiêm ngưỡng thế giới qua lớp kính của chiếc xe tăng nghe rõ ràng là một kế hoạch khôn ngoan.
Tất nhiên anh đã được chiêm ngưỡng thế giới. Đôi khi còn nhiều hơn nữa những gì anh nhớ, nhưng không phải từ bên trong của một chiếc xe tăng. Mà là từ trên không trung cao hàng nghìn dặm trong buồng lái của chiếc trực thăng Apache. Anh đã lái máy bay cho quân đội Mỹ trước khi rời quân ngũ và quay lại Truly. Quân đội đã cho anh một nghề nghiệp khá ổn và một cơ hội để sống một cuộc sống tử tế. Nó dạy cho anh làm sao để trở thành một người đàn ông. Điều mà trước đây anh không thể có được khi sống trong một ngôi nhà toàn phụ nữ. Khi nào thì đứng lên và khi nào thì câm miệng. Khi nào chiến đấu và khi nào chuồn thẳng. Cái gì đáng quan tâm và cái gì không cần phải phí thời gian cho nó.
Mick khởi động xe và đợi một lúc cho động cơ nóng lên. Sở hữu những hai quán bar, nên Nick cho rằng tốt hơn hết nên học cách để đối phó với những gã say và kết giao với những kẻ đê tiện mà không cần phải đấm vào mặt hay bẻ cổ người ta. Mặt khác, anh còn phải giải quyết được một số vấn đề khác nữa. Anh từng suốt ngày đánh nhau, ra đường với một bên mắt bị đấm thâm xì và môi toác ra chảy máu như hồi anh còn nhỏ. Trước đó, anh không hề biết cách đối phó với bọn hạ đẳng trong xã hội. Trước đó, anh đã phải sống với những vụ tai tiếng gây ra bởi cha mẹ gì. Anh sống với những tiếng xì xào bàn tán mỗi khi bước vào bất cứ đâu. Những cái liếc nhìn khi trong nhà thờ hay trong cửa hàng rau quả Valley. Sự nhạo báng của những đứa trẻ khác trong trường hay tệ hơn là những bữa tiệc sinh nhật mà anh và Meg chẳng bao giờ nằm trong danh sách được mời. Khi đó, anh giải quyết từ những thứ nhỏ nhất bằng nắm đấm. Meg thì sống thu mình lại.
Mick bật đèn trước của xe và quay đầu xe. Đèn hậu của chiếc Ram làm sáng cả con hẻm khi anh ngoái cổ lái xe lùi dần ra khỏi bãi đỗ. Nếu ở một thành phố lớn, cuộc sống trăng hoa của Loch và Rose Hennessy có lẽ đã bị lãng quên chỉ trong vài tuần. Câu chuyện sẽ lên trang nhất của các tờ báo trong một hai ngày, rồi sau đó sẽ được thay thế bằng những tin giật gân hơn. Một cái gì đó to tát hơn để mỗi buổi sáng người ta vừa nhấm nháp cà phê vừa bàn tán. Nhưng trong một thị trấn nhỏ cỡ như Truly này, nơi người ta xôn xao về những hành động bất chính như mất trộm xe đạp, hay ông Sid Grimes săn bắt trộm, thì sự biết bẩn thỉu của gia đình Loch và Rose Hennessy là chủ đề bàn tán cả mấy năm trời. Suy diễn, xào nấu từng chi tiết bi thương của câu chuyện đã trở thành một trò tiêu khiển được mọi người ưa chuộng. Sánh ngang với các cuộc diễu hành, thi tạc tượng trên băng và những buổi quyên góp tiền cho thị trấn với vô số lý do. Nhưng không giống như việc trang trí xe diễu hành hay lập các chương trình nói-không-với-ma-túy sau giờ học - những thứ mọi người dường như dễ là chẳng mấy quan tâm - đằng sau đống đổ nát mà Loch và Rose Hennessy tạo ra là hai đứa trẻ vô tội đang cố gắng xóa mờ quá khứ.
Anh đưa xe ra khỏi ngõ và vào một con đường sáng lờ mờ. Rất nhiều kỷ niệm thời thơ ấu của anh đã cũ kỹ, mờ nhạt và ơn Chúa đã bị lãng quên. Những cái khác lại quá rõ nét, đến nỗi anh có thể nhớ tới từng chi tiết. Như cái đêm anh và Meg bị ông cảnh sát trưởng đánh thức, bảo họ chuẩn bị một vài thứ và đưa hai chị em tới nhà bà nội Loraine. Mick vẫn nhớ hình ảnh một cậu bé mặc chiếc áo phông bên ngoài bộ đồ lót, đi giày đế mềm, tay cầm chiếc xe tải đồ chơi hiệu Tonka ngồi ở phía sau chiếc xe tuần tra của cảnh sát. Bên cạnh là Meg, đang ngồi khóc như thể thế giới vừa sụp đổ. Và sự thật là như vậy. Anh nhớ từng tiếng kêu quàng quạc, giọng nói của người đưa tin phát ra từ chiếc radio cảnh sát, nói về ai đó đang kiểm tra một bé gái khác.
Bỏ lại chút ánh đèn thành phố phía sau, Mick lái khoảng hai dặm trong màn đêm tối như hắc ín trước khi rẽ vào con đường bẩn thỉu của anh. Anh đi qua căn nhà mà anh và Meg đã được nuôi nấng sau khi cha mẹ anh qua đời. Bà nội Loraine Hennessy đã rất yêu thương hai đứa trẻ, theo cách riêng của bà. Bà đảm bảo cho bọn trẻ có đủ bốt ấm, găng tay để đi trong mùa đông, thoải mái đồ ăn thức uống. Nhưng bà lại hoàn toàn bỏ quên những gì bọn trẻ thực sự cần. Một cuộc sống bình thường nhất có thể.
Bà từ chối bán cái trang trại cũ nơi anh và Meg đã sống cùng cha mẹ. Hàng nhiều năm trời nó bị bỏ không ở vùng ngoại ô thị trấn, trở thành thiên đường cho lũ chuột và liên tục gợi lại hình ảnh một gia đình từng sinh sống ở đó. Một người khi đi vào thành phố không thể không nhìn nó. Không thể không nhìn cỏ dại mọc rậm rạp, bức tường trắng chóc lở và cái dây phơi quần áo đã trũng xuống thấp tè.
Và từ thứ Hai đến thứ Sáu, trong vòng chín tháng mỗi năm, Mick và Meg buộc lòng phải đi qua đó để tới trường. Khi những đứa trẻ khác trên xe buýt nói chuyện rôm rả về những hồi mới nhất của sê ri phim Dân chơi Hazzard hay đang kiểm tra hộp cơm của nhau xem có món gì, thì anh và Meg quay ra cửa sổ. Lòng nặng trĩu và nín thở cầu Chúa không ai chú ý đến ngôi nhà cũ của chúng. Nhưng Chúa thường không đáp lời, và sau đó xe buýt sẽ tràn ngập những tiếng thì thầm mách lẻo về câu chuyện của bố mẹ Mick mà chúng nghe lỏm được.
Chuyến xe buýt tới trường mỗi ngày là địa ngục của cả hai chị em. Một hành trình của sự tra tấn - cho đến một buổi tối tháng Mười lạnh lẽo năm 1986 khi trang trại nổ tung trong một quả cầu lửa vĩ đại, và cháy rụi hoàn toàn. Arson bị coi là thủ phạm của vụ hỏa hoạn, và đã có một cuộc điều tra lớn. Gần như mọi người trong thị trấn đều bị thẩm vấn. Nhưng thủ phạm đã dội xăng thiêu trụi căn nhà thì chẳng bao giờ bị bắt. Mọi người ở thị trấn đều nghĩ rằng họ biết ai là thủ phạm, nhưng lại chẳng ai dám chắc.
Ba năm sau Loraine qua đời, Mick bán hết tài sản cho nhà Allegrezza và nghĩ đến chuyện bán luôn quán bar của gia đình. Nhưng cuối cùng anh quyết định quay về và đưa quán bar hoạt động trở lại. Meg cần có anh, Travis cũng cần anh. Và thật ngạc nhiên khi anh quay lại Truly, chẳng ai nói gì về vụ xì căng đan đó nữa. Những tiếng xì xầm đã không còn đeo đuổi anh. Nếu có, anh cũng không còn phải nghe thấy chúng nữa.
Anh giảm tốc độ và quẹo trái lần nữa, rẽ vào lối đi dài dẫn vào nhà, hướng thẳng lên ngọn đồi nằm ở chân núi Shaw. Anh mua ngôi nhà hai tầng không lâu sau khi quay trở lại Truly. Từ đó có thể nhìn thấy khung cảnh của cả thị trấn, và những ngọn núi trải dài bao lấy hồ nước bên trong. Anh đỗ xe trong ga ra, bên cạnh chiếc thuyền lướt sóng dài hơn sáu mét và đi vào nhà qua phòng giặt là. Đèn trong văn phòng vẫn mở, anh với tay tắt nó khi đi ngang qua. Anh băng qua căn phòng khách tối om và lên gác, leo hai bậc một.
Mick hầu như không thực sự nghĩ đến cái quá khứ đó như một cái gì đó nổi bật trong thời niên thiếu. Truly không còn bàn tán về chuyện đó nữa, và điều đó thật là mỉa mai. Bởi tại thời điểm này, anh chẳng thèm quan tâm mọi người nói gì, nghĩ gì về anh. Anh vào phòng ngủ ở tít cuối gian nhà, trong khi ánh trăng đang rọi qua từng thanh gỗ mỏng trên cánh cửa chớp lật. Từng dải ánh sáng mờ và dịu nhẹ chiếu trên mặt anh, rồi ngực khi anh móc tay vào túi quần sau lôi ra chiếc ví, ném nó lên nóc chiếc tủ ngang, rồi nắm lấy gấu áo phông và cởi qua đầu. Nhưng việc anh chẳng quan tâm quái gì đến quá khứ không có nghĩa là Meg cũng vậy. Có những ngày tốt đẹp và có những ngày tồi tệ đối với cô. Kể từ ngày bà nội qua đời, những ngày tồi tệ lại càng trở nên tồi tệ hơn. Và tất nhiên không đời nào có thể để Travis sống như vậy.
Ánh trăng và bóng tối đổ xuống chiếc chăn màu xanh lá và thành giường bằng gỗ sồi đặc. Mick thả cái áo dưới chân rồi chuyển qua đầu kia của căn phòng. Nhiều khi anh cảm thấy việc quay lại Truly là một sai lầm. Anh cảm giác mình đang đứng ở một chỗ và không thể tiến lên được. Và anh không hiểu tại sao lại có cái cảm giác đó. Anh đã mua một quán bar mới và đang cân nhắc về việc mở dịch vụ máy bay lên thẳng với bạn mình là Steve. Anh có tiền, thành công. Anh thuộc về Truly và gia đình. Gia đình duy nhất mà anh có. Gia đình duy nhất dường như anh từng có, nhưng thỉnh thoảng... thỉnh thoảng anh không thể không có suy nghĩ rằng mình đang chờ đợi một điều gì đó. Chiếc nệm lún xuống khi anh ngồi xuống mép giường, tháo giày và tất. Meg nghĩ rằng tất cả những gì anh cần là gặp một người đàn bà tử tế để làm một người vợ tốt. Nhưng anh không thể nghĩ là mình sẽ lấy vợ. Không phải lúc này. Anh từng có một vài mối quan hệ rất tốt đẹp. Và mọi thứ vẫn tiếp tục tốt đẹp cho đến khi nó không còn như vậy nữa. Chưa có mối tình nào kéo dài được hơn một hoặc hai năm. Một phần vì anh phải đi quá nhiều. Và phần lớn là vì anh không muốn phải mua một cái nhẫn và đi dọc hành lang giữa các dãy ghế trong nhà thờ.
Anh đứng dậy và cởi quần dài. Meg nghĩ rằng anh sợ cuộc sống gia đình vì mối quan hệ không tốt đẹp của cha mẹ họ, nhưng không phải như vậy. Sự thật là anh không nhớ nhiều cho lắm về cha mẹ mình. Chỉ một vài ký ức nhàn nhạt về những cuộc đi dã ngoại gia đình bên hồ và cha mẹ anh âu yếm nhau trên ghế sofa. Hay khi mẹ anh khóc lóc bên bàn bếp và một chiếc điện thoại cũ nặng nề bay thẳng vào màn hình ti vi.
Không, vấn đề không phải là những ký ức về cha mẹ anh làm đảo lộn mối quan hệ. Chỉ là anh chưa bao giờ yêu một người đàn bà đủ nhiều để có ý muốn sống cả cuộc đời với cô ta. Mà anh lại không coi đó là vấn đề chút nào cả.
Anh kéo chăn ra và nằm giữa những tấm ga trải giường mát lạnh. Lần thứ hai trong đêm nay anh nghĩ đến Maddie Dupree, và anh phá lên cười trong bóng tối. Cô biết châm chọc sâu cay ra phết. Nhưng anh chưa bao giờ bớt thích một phụ nữ nào đó vì khuyết điểm này. Thật ra anh còn thích mẫu phụ nữ dám đứng lên phản kháng lại đàn ông. Maddie, một người biết đáp trả cái cách mà người khác đối xử với mình và không cần một người đàn ông bên cạnh để chăm sóc. Một người không quá khát khao, không đẫm nước mắt và không tỏ ra điên rồ. Một người tâm trạng không thay đổi như chong chóng.
Mick nằm nghiêng sang một bên và liếc nhìn đồng hồ trên bàn để đầu giường. Anh đã đặt chuông báo thức lúc mười giờ sáng và đã sẵn sàng cho một giấc ngủ yên lành trong bảy tiếng đồng hồ. Thật không may là anh không thực hiện được điều đó.
Sáng sớm hôm sau tiếng chuông điện thoại kéo anh ra khỏi giấc ngủ say. Anh mở mắt và nheo lại khi ánh nắng buổi sáng rọi vào giường. Anh liếc nhìn tên người gọi đến và với cái ống nghe không dây.
“Cháu thật đáng đánh,” anh nói và kéo cái chăn xuống dưới ngực. “Cậu đã nói không được gọi trước mười giờ trừ trường hợp khẩn cấp cơ mà.”
“Mẹ cháu đang đi làm, mà cháu lại cần có pháo hoa,” cháu anh kể lể.
“Vào lúc tám rưỡi sáng à?” Anh ngồi dậy và vuốt vuốt tay qua tóc. “Cô trông trẻ có ở đó với cháu không?”
“Có ạ. Mai là ngày bốn tháng Bảy và cháu không thể không có pháo hoa được.”
“Cháu vừa mới nhận ra điều đó hả?” Chắc hẳn sự việc không chỉ có thể. Với Travis, câu chuyện vẫn còn dài. Luôn là như vậy. “Sao mẹ cháu không mua pháo hoa cho cháu?” Im lặng một hồi lâu, rồi Mick thêm vào, “Cháu nên nói cho cậu sự thật đi, cậu sẽ hỏi mẹ cháu đấy.”
“Mẹ nói cháu hay chửi thề.”
Mick đứng dậy và chân anh lún xuống trên tấm thảm dày màu be khi anh bước tới chiếc tủ quần áo. Anh dường như rất sợ phải hỏi. “Tại sao?”
“Tại vì... mẹ cháu lại làm món thịt cuốn. Mẹ biết là cháu ghét thịt cuốn.”
Anh không trách đứa trẻ. Mọi phụ nữ nhà Hennessy đều khét tiếng với món thịt cuốn kinh tởm của họ. Anh mở ngăn kéo thứ hai và nói tiếp. “Và rồi?”
“Cháu nói món này ăn như cứt. Và cháu nói cậu cũng nghĩ như vậy.” Mick đứng khựng lại khi đang lôi ra từ trong tủ một cái áo phông trắng và nhìn vào hình mình phản chiếu trên chiếc tủ. “Cháu dùng cái từ c... đó thật hả?”
“Vâ... ng, và mẹ nói cháu sẽ không có pháo hoa. Nhưng cái từ đó cậu chẳng nói suốt ngày còn gì?”
Đúng là như vậy. Anh khoác chiếc áo lên vai và rướn người lên trước để nhìn kỹ đôi mắt đỏ ngầu. “Chúng ta trước đây đã nói về những từ mà cậu có thể nói, còn cháu thì không.”
“Cháu biết, nhưng cháu chỉ lỡ miệng.”
“Cháu phải để ý xem cái gì tuôn ra từ miệng mình chứ?” Travis thở dài.
“Cháu biết. Cháu nói xin lỗi, mặc dù cũng chẳng thật lòng. Như những gì cậu đã dạy cháu cần nói với bọn con gái ấy. Kể cả với những đứa ngu xuẩn. Kể cả khi cháu đúng và bọn nó sai.”
Đó không hẳn là những gì Mick đã nói. “Nhưng cháu không nói với Meg là cậu nói vậy chứ?” Anh lôi một chiếc quần Levi’s ra khỏi ngăn kéo và thêm vào, “Đúng không hả?”
“Đúng vậy.”
Anh không thể phản kháng lại chị mình, nhưng một cậu bé cũng không đáng bị phạt vì nói lên sự thật. “Cậu không thể mua pháo hoa cho cháu nếu mẹ cháu không cho, nhưng để xem chúng ta có nghĩ ra cách gì không nhé!”
Một giờ sau, Mick nhét một bịch pháo hoa vào đằng sau ghế lái trên xe. Anh đã mua một gói nhỏ gồm nhiều loại, một ít pháo sáng từ quầy hàng Safe & Sane gần khu vực đỗ xe của Cửa hàng đồ gia dụng Handy Man. Anh không mua nó cho Travis. Anh mua nó để đem tới buổi liên hoan thịt nướng nhà Louie Allegrezza nhân ngày quốc khánh. Nếu có ai hỏi, anh sẽ nói như vậy. Và anh tự hỏi không biết liệu có ai tin vào điều đó. Giống như mọi cư dân khác của cái thành phố bị ám ảnh vì pháo hoa, anh có một cái hộp lớn chứa đầy những thứ “bất hợp pháp” chỉ chờ cơ hội để được ra hồ bắn. Người lớn chẳng bao giờ mua đồ ở các quầy hàng Safe & Sane, trừ khi họ có con. Pháo hoa hợp pháp trông như là bánh phụ xe đạp vậy.
Con trai Louie, Pete Allegrezza và Travis là bạn thân, và vài ngày trước, Meg đã đồng ý Travis có thể đến buổi tiệc thịt nướng với Mick nếu thằng bé không gây chuyện rắc rối. Buổi tiệc diễn ra vào ngày mai và Mick tính toán rằng Travis sẽ biết cố kiểm soát bản thân thêm một ngày nữa. Mick đóng cửa chiếc xe tải, và anh cùng Travis băng qua khu đỗ xe tới cửa hàng. “Nếu cháu cư xử đúng mực, có thể cháu vẫn sẽ được động đến pháo sáng đấy.”
“Ôi trời,” Travis rên rỉ. “Pháo sáng là cho bọn trẻ con thôi.”
“Với những thành tích của cháu thì không phải đi ngủ trước khi trời tối là may lắm rồi đấy.” Ánh nắng chiếu lên mái tóc đen ngắn và cai áo cậu bé trong chiếc áo phông người nhện. “Dạo này cháu không kiểm soát được bản thân đấy nhé!” Anh mở cửa và vẫy người chủ đang đứng sau quầy. “Mẹ Meg vẫn còn đang điên tiết với cả cậu lẫn cháu lắm. Nhưng cậu có một kế hoạch này.” Trong vài tháng, Meg cứ liên tục cằn nhằn về ống nước bị rò bên dưới bồn rửa bát. Nếu anh và Travis giúp cô sửa cái ống và cô không còn phải suốt ngày lo đổ cả chảo nước nữa, có lẽ Meg đã dễ tính hơn. Nhưng Meg không phải là người dễ tha thứ.
Đế giày của Travis kéo loẹt xoẹt bên cạnh chân Mick khi họ đang đi vào khu vực bán ống nước. Cái khu đó trống trơn chẳng có ai ngoài một cặp vợ chồng đang xem xét cái vòi tưới vườn và bà Vaughn, cô giáo dạy lớp một của anh đang bới cái thùng đựng một đống các loại tay cầm của ngăn kéo. Anh lúc nào cũng ngạc nhiên khi thấy bà Maverne Vaughn vẫn còn sống và còn đi lại được. Bà phải già khú đế rồi.
Khi Mick lôi một cái ống PVC và một cái chậu nhựa ra. Cháu anh nhặt một cái súng hàn và nhắm vào một cái lồng cho chim ăn ở cuối quầy hàng như thể đó là một khẩu súng lục vậy.
“Chúng ta không cần thứ đó!” Mick nói với cậu bé khi tay đang với mấy cuộn dây buộc ống nước.
Travis làm bộ bắn thêm vài phát rồi để khẩu súng trở lại giá. “Cháu sẽ đi xem mấy con hươu,” cậu bé nói rồi biến mất ở cuối dãy hàng. Ở Handy Man có một bộ sưu tập cực lớn gồm những con thú bằng nhựa để mọi người bày trong sân. Tuy nhiên tại sao mọi người lại thích làm như vậy trong khi những con thú thật thỉnh thoảng vẫn chạy qua chạy lại sân nhà họ. Điều này vượt ngoài tầm hiểu biết của Mick.
Anh kẹp cái ống vào một bên nách và trở ra tìm Travis. Thằng bé không cố ý đi gây chuyện, nhưng thể nào cũng sẽ gây rắc rối, giống như hầu hết những cậu bé lên bảy khác. Mick đi dọc cửa hiệu, nhìn vào mấy dãy hàng nhốn nháo, và dừng lại cạnh một quầy bán giẻ lau sàn.
Miệng anh nhếch lên thành một nụ cười đầy chất đàn ông. Maddie Dupree đang đứng ở dãy thứ sáu với một chiếc hộp màu vàng tển tay. Mái tóc nâu của cô được kẹp lên phía sau và trông như thể ai đó vừa đặt cái chổi lông tối màu lên đầu cô. Ánh mắt anh di chuyển dần xuống thân hình mềm mại của cô, qua cổ, rồi vai, và chết đứng lại ở chiếc áo phông đen. Tối qua, anh đã không thể nhìn kỹ cô. Hôm nay ánh đèn huỳnh quang ở cửa hàng Handy Man khiến cô rực rỡ như người mẫu trên tạp chí nhưng sống động đi lại, cười nói hẳn hoi. Giống như người bạn gái cũ trước khi mắc phải chứng bệnh rối loạn ăn uống và nhồi nhét silicone vào cơ thể. Sự khao khát khiến dạ dày anh quặn thắt. Anh thậm chí còn chẳng biết gì nhiều về cô để có cảm giác khao khát này. Anh không biết liệu cô đã lập gia đình hay còn độc thân, hay cô có một người đàn ông và mười đứa con đang đợi ở nhà. Hình như điều đó cũng chẳng quan trọng, bởi vì Maddie hút anh về phía cô như một thanh nam châm.
“Trông cô có vẻ như đang có vấn đề với lũ chuột thì phải?”
“Sao cơ?” Cô ngẩng đầu lên và ném cho anh một tia nhìn, như thể anh vừa phát hiện ra cô đang làm điều gì cấm kỵ vậy. “Chúa toàn năng.” Môi cô hé mở khi hít vào một hơi, làm anh chú ý đến cái nốt ruồi ở mép cô. “Anh làm tôi giật mình đấy.”
“Xin lỗi,” Mick nói. Nhưng thực chất anh chẳng hề làm cô giật mình. Trông cô vẫn rất ổn, với đôi mắt mở to và có thể nghe rõ cả tiếng thở và hơi mất thăng bằng một chút. Anh ngẩng lên và chỉ vào cái hộp màu vàng trong tay cô bằng cái ống PVC. “Vấn đề với bọn chuột hả?”
“Có một con chạy vụt qua chân tôi sáng nay lúc tôi đang pha cà phê.” Cô nói và nhăn mũi. “Nó chui vào dưới cánh cửa chạn bát và biến mất. Chắc giờ nó đang tiệc tùng trong đó với mấy thanh bánh ăn sáng của tôi.”
“Đừng lo.” Mick cười lớn. “Chắc nó không ăn nhiều lắm đâu.”
“Tôi không muốn nó ăn cái gì cả. Trừ thuốc độc.” Cô ấy chuyển sự chú ý qua cái hộp trên tay. Mái tóc xõa xuống hai bên cổ và Mick nghĩ anh ngửi thấy mùi dâu tây.
Ở tít đầu kia của dãy hàng, Travis rẽ vào và đứng khựng lại, há hốc miệng nhìn chằm chằm vào Maddie. Mick biết cảm giác đó.
“Trong này nói là có thể sẽ có hiện tượng bốc mùi nếu lũ chuột chết ở những chỗ khuất. Tôi thực sự không muốn phải đi tìm mấy cái xác chuột hôi thối.” Cô liếc lên nhìn anh. “Không biết còn có cái gì hay hơn không nhỉ?”
“Tôi không gợi ý dùng keo dính đâu nhé.” Rồi anh chỉ vào một hộp keo dính chuột.
“Chuột bị dính vào đó sẽ kêu oe óe lên om sòm cho coi.” Lại nữa rồi. Mùi dâu tây. Mick tự hỏi liệu tiệm Handy bán cả thức ăn có mùi thơm dành riêng cho bọn chim ruồi sao! “Cô có thể dùng bẫy,” anh gợi ý.
“Bẫy á? Dùng bẫy chẳng phải... bạo lực lắm sao?”
“Chúng có thể cắt con chuột ra làm đôi,” Travis nói trong khi nó đang tiến tới bên cạnh Mick. Nó lúc lắc đứng trên gót chân và cười toe toét. “Thỉnh thoảng vì miếng pho mát mà đầu chúng sẽ bị kẹp nát bét.”
“Trời ơi là trời, thằng bé này.” Maddie chau mày nhìn xuống Travis. “Điều đó thật là tàn bạo.”
“Đúng rồi.”
Mick kẹp cái ống vào dưới cánh tay và để tay còn lại lên đầu Travis. “Thằng bé tàn bạo này là cháu tôi, Travis Hennessy. Travis, cháu chào cô Maddie Dupree đi.”
Maddie chìa tay ra và bắt tay Travis. “Rất vui được gặp cháu, Travis.”
“Vâng, cháu cũng vậy.”
“Và cảm ơn đã kể cho cô về những cái bẫy,” cô nói rồi thả tay Travis ra. “Cô sẽ cân nhắc nếu sau này có ý định xử trảm chúng.”
Travis cười toe để lộ mấy cái răng cửa sún. “Năm ngoái cháu đã giết cả đống chuột,” thằng bé khoe khoang, tận dụng sự quyến rũ của một thằng nhóc bảy tuổi, “hãy gọi cho cháu.”
Mick liếc nhìn thằng cháu và tuy không chắc cho lắm. Nhưng anh nghĩ Travis đang ưỡn cái ngực gầy nhom lên tự đắc. Để thằng bé không tự chuốc lấy sự lúng túng thêm nữa, Mick nói chêm vào: “Cách tốt nhất để tiêu diệt lũ chuột là mua một con mèo.”
Maddie lắc đầu và đôi mắt nâu của cô nhìn thẳng vào mắt anh, ấm áp, mềm mại và trong trẻo. “Tôi với mèo không sống hòa thuận được.” Anh nhìn xuống miệng cô, và lần nữa lại tự hỏi không biết bao lâu rồi mình chưa được hôn một đôi môi tuyệt như thế này. “Tôi thà thấy mấy cái đầu chuột cắt rời rơi trong bếp và vài cái thân bốc mùi giấu ở xó xỉnh nào đó còn hơn.”
Maddie đang nói về mấy cái đầu và xác chuột bốc mùi, còn anh lại đang bị kích thích. Ngay giữa cửa hàng Handy Man, như thể anh đang quay lại tuổi mười sáu và không thể tự kiềm chế mình vậy. Anh đã quan hệ với rất nhiều phụ nữ xinh đẹp và tất nhiên không phải là một đứa trẻ nữa. Anh còn cứu Travis khỏi một màn xấu hổ, nhưng giờ thì ai cứu anh đây?
“Chúng tôi còn phải sửa mấy cái vòi nữa.” Mick nhặt tuýp keo trám lên lùi lại một bước. “Chúc cô may mắn với những con chuột nhé.”
“Gặp lại hai người sau.”
“Vâng,” Travis nói và theo chân Mick ra phía quầy tính tiền. “Cô ấy rất xinh,” cậu bé thì thầm. “Cháu thích mái tóc của cô ấy.”
Mick cười thầm và để cái ống PVC bên cạnh cái van. Thằng nhóc mới bảy tuổi thật, nhưng nó mang dòng máu của nhà Hennessy.