Lằn Ranh Sinh Tử
Chương 2
Cha tôi vốn sợ biển cả, còn mẹ tôi thì có vẻ dửng dưng với biển, và về điểm này, họ là điển hình cho dân trong vùng. Khi còn là đứa con trai mới lớn, tôi thấy đây là tình trạng chung của hầu hết dân cư ở đây, họ đều lo âu hoặc có thái độ nước đôi đối với cây rừng xung quanh. Ớ Sawyer, người ta sống gắn liền với nhà máy xay, thành phố và con sông. Vào ngày chủ nhật, những người làm trong nhà máy cưa thích chèo thuyền xuôi dòng ra nơi nước nông và rộng của cái vịnh nhỏ để câu cá bạc, cá đầu bằng. Cha tôi thường đi theo họ. Thậm chí tôi không còn nhớ được ai là chủ nhân của những chiếc thuyền dài neo buộc gần bờ sông - những chiếc thuyền này thường là của thị xã - hễ ai leo lên trước thì được phép chèo và làm thuyền trưởng. Cuộc hành trình xuôi dòng có thể mất một giờ hoặc hơn, nhất là khi người ta thích dừng lại ở các mũi ghềnh hay bãi lầy để đánh cá mè. Đặc biệt nhiều buổi sáng, khi bãi cát ngầm trống trải và biển lặng sóng, một vài chiếc thuyền đã mạo hiểm ra xa để đánh cá chỉ vàng, nhưng giống cá này chẳng bao giờ rời xa chỗ ẩn nơi cửa sông, và chẳng một ai, dù già hay trẻ, có thể khiến nó đi xa hơn.
Cha tôi bắt đầu cho tôi theo ông khi tôi được bảy tuổi. Tôi thích nghe tiếng kĩu kịt của những cây sào dài trên chiếc cọc chèo, thích nhìn bóng hình chập chờn của những con chim bồ nông chạy qua trên bãi lầy. Những chiếc thuyền gỗ lớn, mỗi chiếc chở ba hay bốn người, lướt đi thật tĩnh lặng trên mặt nước. Những người đàn ông kia luôn luôn bị đuối mệt và choáng váng, nhưng cha tôi thì lúc nào cũng tỏ ra bình thản. Khi nói chuyện với nhau, những người đàn ông thường có cái giọng quát lớn của những người điếc công nghiệp. Họ còn mắc chứng ho vì thuốc lá và mạt cưa. Những chiếc nón đi rừng của họ nồng sặc mùi cá tôm. Họ là những người độc thân, những quân nhân giải ngũ và những nông dân nghèo xơ xác. Họ rất nể trọng cha tôi dù họ vẫn chế giễu việc không uống rượu của ông. Ông vốn là một chủ tiệm rau quả xuất thân từ một ngôi làng quận Kent, ông chẳng bao giờ kể cho tôi nghe những câu chuyện về cuộc sống trước đây của ông, nhưng đối với đồng nghiệp của mình thì ông chẳng có gì giấu giếm. Nói tóm lại, ông là một chỗ dựa vững chắc và theo như tôi thấy thì họ chỉ cần bấy nhiêu ở ông thôi.
Chúng tôi đánh cá bằng cần câu có gắn cục chì, và trong khi chúng tôi cho cá vào các túi vải thô, lau chùi những nhớt và vảy trên các thanh gỗ trầy trụa để làm chỗ ngồi thì sóng biển đã vọt tới lằn vạch trắng trên cao. Những mảng bọt nước chồm qua cửa sông rồi rũ xuống trong làn gió nhẹ. Khi cá đã ít ăn và tôi đâm ra chán nản, lăng xăng thì cha tôi chèo thuyền đưa tôi tấp vào một nơi mà tôi có thể bước ra rồi leo lên bờ cát ngồi nhìn sóng biển cuồn cuộn.
Tôi là con một trong nhà và mang bản chất cô độc. Đôi khi tôi nhận thấy cha mẹ mình là những con người cổ lỗ với những mối quan tâm kỳ quặc. Họ chỉ quanh quẩn với vườn rau và bầy gà của họ mà thôi. Họ tự hun khói mớ cá của mình và làm các công việc thêu đan. Buổi tối thì họ nghe rađiô, hay vô tuyến, như cách họ gọi. Mặc dù chưa đến tuổi ông nội bà nội, nhưng rõ ràng họ thuộc một cấp bậc khác với bố mẹ của những đứa trẻ khác, và tôi cảm thấy điều này ít nhiều đã ghi một dấu ấn đặc biệt nơi mình. Tôi thấy mình là người bảo vệ cho họ, dù thực ra cũng có đôi chút bối rối. Cũng giống như họ, tôi không quan tâm lắm đến bóng đá hay bóng cricket. Tôi tránh xa bất cứ hội đoàn nào và không hề thích một môn thể thao có tổ chức nào. Tôi cũng thích đi bộ đường dài và leo núi, nhưng tôi chỉ thật sự xuất sắc trong môn bơi lội, và đây hoàn toàn là một điều bất ngờ đối với cha mẹ tôi vốn là người từ nơi khác, họ chẳng ai biết bơi cả.
Khi vừa có những dấu hiệu đầu tiên của mùa xuân nhường chỗ cho mùa hè thì trẻ con thành phố sau giờ học đã tụ tập lại bên cạnh chiếc cầu ở bờ sông để từ trên những tấm ván nhún thô sơ nhảy xuốngế Dòng sông màu nâu vì thuốc nhuộm và lạnh cóng người, nhưng nước chảy chậm nên an toàn để bơi lội. Tôi cùng Loonie đã kết bạn tại đây.
Loonie, tức Ivan Loon, đã mười hai tuổi và lớn hơn tôi một tuổi. Nó là con của người chủ quán, mặc dù chúng tôi cùng đi học chung với nhau cả một nửa cuộc đời, nhưng chẳng hề có một chút xíu gì giống nhau. Đó là trước khi chúng tôi cùng nhận thấy rằng mỗi đứa đều đã tự mình hoàn thiện cái nghệ thuật gây kinh hoàng cho những người trên bờ sông.
Một buổi chiều tháng mười một, tôi đạp xe đi xuống bờ sông để nhảy ván nhún, nhưng khi đến nơi thì thấy có bốn cô gái và bà mẹ của một người nào đó trong họ đang chạy tất tả trên bờ sông, kéo giật lỗ tai và kêu gào lên rằng có một đứa con trai bị chết đuối ngay bên dưới họ. Tất nhiên họ không biết đó là đứa con trai nào, vì họ không ở thành phố này, nhưng họ biết rằng nó là một một đứa con trai vì nó đã có mặt ở đây trước đó một phút và rồi chẳng thấy trồi lên sau một cuốc lặn, mà đây là nơi có nhiều cá mập. Tôi đã liên tiếp đưa ra thật nhiều câu hỏi và toan tính làm một điều gì đó.
Mặt trời chiếu thành những vệt sáng xuyên qua chòm cây bạc hà cao to. Bầu trời phía trên chúng tôi có đám chuồn chuồn đang bay. Tôi thấy một chiếc khăn tắm bên cạnh cây cầu nhảy và bên cạnh đó là một cặp dây da bẩn thỉu, thế nên không có lí do gì để nghi ngờ có một rắc rối ở đây. Chỉ có mặt nước lờ đờ là tỏ ra vô hại, và những người phụ nữ này, những người đã gây ra sự náo động khủng khiếp, lại làm quá đáng một cách kỳ lạ. Lẽ ra tôi phải hiểu, nhưng tôi đã hành động theo ý của họ. Khi nhảy lên đầu nhún của tấm ván, tôi thấy mặt gỗ nóng ấm và quen thuộc dưới bàn chân mình. Tôi nhìn xuống mặt nước sông lăn tăn trong gió và suy nghĩ. Tôi quyết định tốt nhất là nên lội từ trong bờ ra, tìm kiếm bằng cách sờ soạng, lặn xuống và mò mẫm với hy vọng chạm vào một con người. Đây không phải là lúc để nhờ ai giúp đỡ. Sự giúp đỡ ấy là tôi. Tôi cảm thấy mình quan trọng trong lúc này - bị sai khiến nhưng bỗng nhiên được đề cao - và trước khi tôi bắt tay vào sứ mệnh của mình, thậm chí chưa kịp cởi chiếc áo ra, thì Ivan Loon đã từ dưới nước trồi lên. Nó xuất hiện thật gần bờ với một tiếng hét lớn khiến cho người phụ nữ bật ngửa ra sau trên bãi lầy.
Tôi còn đứng nhún nhẩy trên tấm ván trong lúc bà ta nằm trên vũng sình. Rồi bà ta chống tay chồm dậy. Loonie phá lên cười, điều này càng khiến bà ta bực tức hơn. Trong đời tôi chưa từng thấy một người đàn bà nào giận dữ đến thế. Bà ta nhào xuống nước, đập đánh một cách vô ích, trong khi Loonie chỉ cúi đầu tránh né và cười khúc khích. Nó là đứa con trai mặt đầy tàn nhang nhưng vì thích thú và ráng sức cho nên tàn nhang của nó biến đi đâu hết. Người đàn bà tội nghiệp kia chẳng bao giờ tới gần nó được. Chiếc áo vạt dài của bà phình ra quanh mình. Bà ta làm ầm ĩ lên như một đứa con nít. Loonie hì hụp bơi qua bơi lại một cách khiêu khích, rồi lặn biến qua bờ phía xa. Một lần nữa khi chỉ còn một mình với người đàn bà này, tôi thấy kìm hãm trò đùa này lại thì hay hơn là đứng yên để cho kẻ khác làm. Tôi cảm thấy tội lỗi hơn là vui. Hai chiếc dép kiểu Dr Scholl trôi ngược dòng sông theo chiều gió, tôi nhìn theo cho đến khi không chịu được nữa thì nhào xuống để bơi theo chúng. Trong khi bắt được hai chiếc dép và bơi nghiêng trở về bờ sông, tôi nghe chúng va vào nhau lốc cốc như những khúc củi. Tôi bối rối nhìn thấy người đàn bà kia đứng đó với bộ quần áo bó sát vào người, hai đầu gối mũm mĩm và bắp chân tròn lẳn lấm đầy bùn đất.
- Đằng kia có mấy rễ cây - Tôi bảo bà ta - Bà hãy bơi xuống đấy mà bám vào. Dễ mà.
Vẫn không nói một tiếng nào, bà ta chộp lấy đôi dép, leo trở lên chỗ mấy đứa con gái trên bờ, và trong khi tôi đang nằm trong nước đắn đo không biết nên nghĩ thế nào về bà ta thì bà ta đã tự cho mình cái quyền dắt những người kia băng qua chòm cây và đi khuất khỏi tầm nhìn. Tôi vừa cảm thấy thông cảm vừa khinh thường. Cửa xe đóng lại một tiếng ầm, rồi tôi nghe tiếng máy khởi động.
- Dễ quá phải không? - Tôi nghe một giọng nói sôi nổi sát bên tai mình.
Tôi giật mình, tránh sang một bên và kêu lên một tiếng. Loonie phá lên cười.
- Brucie Pike - Nó nói - Mày chỉ giỏi nói thôi.
- Không phải thế đâu.
- Mày là thế đấy.
- Tao không phải thế.
- Được, vậy hãy chứng minh đi, Pikelet.
Thế là tôi chứng tỏ cho nó thấy khả năng của mình. Cả ngày hôm ấy, tôi và nó lặn hụp nhiều lần xuống tận đáy sâu của con sông Sawyer để nín thở cho thật lâu, đến mức trong đầu nảy toàn đom đóm, rồi khi chúng tôi leo lên, mệt đừ và khó chịu, thì bờ sông dường như hụt hẫng, chao đảo dưới chân tôi trong ánh sáng lờ mờ của buổi tối. Đây là sự bắt đầu của nhiều ngày như thế, và chúng tôi trở thành đôi bạn kể từ hôm ấy. Đây là sự khởi đầu của một điều gì đó. Chúng tôi làm cho mọi người kinh sợ, càng ngày càng khích nhau thi thố xa hơn và khó hơn, đến mức nhiều khi chúng tôi cũng gây kinh sợ cho nhau.
Bố mẹ tôi không bằng lòng lắm với Loonie. Nó là một đứa khoác lác và cứ mặc tình lang thang trong thành phố. Nó sống trong quán rượu, còn hai cụ nhà tôi thì không phải là dân đi quán rượu. Sự việc bà Loon không phải là mẹ thật của Loonie có vẻ như khiến cho mẹ tôi hơi khó chịu, nhưng bà cố gắng không nói ra. Bố mẹ tôi là những người kín tiếng và tử tế. Loonie có vẻ như gây cho họ sự lo âu hơn là ác cảm. Họ sống trầm lặng và hiền lành đến nỗi chỉ vài năm, sau khi họ cùng qua đời và được chôn cất thì chẳng còn người dân nào ở Sawyer có thể nhớ gì nhiều về họ, trong khi Loonie lại là một nhân vật thuộc dạng hoàn toàn khác hẳn. Thỉnh thoảng ở Perth hay Kuta, ta vẫn có thể gặp một người nào đó biết một câu chuyện về tổ tiên của Loonie, mặc dù các câu chuyện ấy luôn mang tính bịa đặt nhưng vẫn chứa đựng những yếu tố chủ yếu về sự hoang dại của nó. Một con người cô độc và hoang dã như nó theo lẽ thường phải là một người khá giản dị và ngây ngô, nhưng Loonie không có hai điểm này. Mới mười hai tuổi mà nó đã lõi đời hơn cả bố mẹ tôi, và kỳ lạ thay, họ lại bị nó doạ. Nó đã trở thành người bảo trợ cho họ. Nó thấy buồn cười vì sự ngây thơ của họ, vì những bộ trang phục kiểu Anh và những đôi giày làm vườn to tướng của họ. Nó bắt chước dáng đi thơ thẩn của ông cụ và chà chà hai bàn tay theo kiểu của mẹ tôi. Trước khi tôi nghĩ đến việc đưa nó về nhà thì tự nó đã tạo được mối quan hệ. Nó hiện ra nơi hàng rào trước nhà tôi như một người đi lạc, cứ mãi lẩn quẩn ở cuối con đường xe dài và lầy lún, một kiểu người băn khoăn có vẻ như đang chờ đợi hoặc thậm chí ngấm ngầm mong được mời bước qua bãi đất nhốt bò. Khi Loonie đã được vào trong sân, và sau này được ngồi vào bàn ăn, thì hai ông bà già đều đâm ra sợ hãi và e dè. Nó chớp chớp cặp mắt xanh to và chọc ghẹo họ một cách nhẹ nhàng với cái kiểu nói gài bẫy, giễu cợt của nó, rồi cười cho đến khi vành môi dưới nứt nẻ của nó chạm vào hàm răng đến chảy máu
Qua một hay hai tuần, sau khi cố giấu sự miễn cưỡng của mình, bố tôi đã đồng ý cho tôi dẫn Loonie theo đoàn của chúng tôi. Loonie rất thích thú trong chuyến đi đầu tiên này, nó rất hớn hở và huyên thuyên với những lời ca ngợi khiến cho chúng tôi đến phải nhức đầu, thậm chí tôi xem như một cử chỉ nhân từ của cha tôi khi ông nhận nó trở lại. Tôi nghĩ là ông đã nhận thấy Loonie rất thích chuyện này, nó luôn sốt sắng phụ giúp, và nhiệt tình làm vui lòng mọi người. Mặc cho sự kiểu cách của họ, nhưng bố mẹ tôi đã nhận ra một sự cô độc lớn hơn ở người bạn mới của tôi, và họ cảm thấy rằng mặc dù đôi lúc nó tỏ ra ngang bướng nhưng lại rất kính trọng, thậm chí thương yêu họ theo cách của nó. Nó thường quanh quẩn bên cha tôi nơi lò hun khói trong khi xếp cá lên giàn và luôn luôn cầm một chiếc khăn lau dĩa mỗi khi bước vào trong bếp của mẹ tôi. Vào đầu mùa hè năm ấy, khi chúng tôi vui vẻ tụ họp với nhau, nó ở tại nhà tôi gần cả ngày cho đến tối. Nó luôn ở lại muộn, nhưng cũng biết ra về trước khi có một người nào tỏ dấu hiệu gì.
Những ngày chủ nhật, chúng tôi đánh cá nơi con lạch nhỏ với những người đàn ông của nhà máy cưa, và đến cuối tháng mười hai, khi đến những ngày lễ lớn thì chúng tôi vui chơi cuối tuần trên sông khiến cho những người đi pic-nic phải bực bội. Chúng tôi mót lấy những đồ tầm tầm nơi bãi rác để làm thành những cái phuộc và tay lái dài ngoằng kỳ dị cho mấy chiếc xe đạp của mình. Chúng tôi uốn nghiêng vòng cung phía sau yên xe để cho gần như có thể leo lên bất cứ dốc cao nào. Chạy ra xa lộ, Loonie chơi trò luồn lách nguy hiểm với những chiếc xe chở gỗ lớn, còn tôi thì nấp trong bụi dương xỉ bên bìa rừng, mong nó ngưng ngay cái trò chơi ấy. Chúng tôi tránh đi những con đường ngoằn ngoèo và hư nát dẫn về thành phố, cho nên lúc chiếc xe tải cọc cạch lui tới một cách cần mẫn thì chúng tôi đã đi xa rồi. Đó là một thời trai trẻ dường như đã quá xa xôi cho nên ngày nay, tôi có thể hiểu được vì sao đang có nhiều người không tin là đã từng có những ngày như thế. Nếu bạn cố nói về những chuyện này thì bạn sẽ bị la ó như một thứ người hoài cổ dị kỳ, bị cho là tên khoác lác ngay trước khi bạn mở lời. Thế nên tôi không bàn luận nhiều về chuyện này. Trong cách hành xử này, tôi thấy tôi đúng là con của cha tôi, một con người không chịu cởi mở, một cuốn sách gấp lại. Tôi khiến những người trong quán phát chán và cũng lặng thinh bỏ qua các dịp đám cưới. Tôi chẳng muốn gia nhập vào câu lạc bộ khốn khổ của bất cứ ai, chẳng muốn được xem là nạn nhân của một hội chứng nào đó đang diễn ra trong tuần. Khi không người nghe thì tôi mới nói. Tôi thích say sưa thổi ống didjeridu, và chẳng làm gì hơn là tự giải thích mình với mình trong khi hãy còn minh mẫn để mà làm thế. Tôi không phải là con người hoài cổ. Tôi có thể suốt nhiều tuần liền không hề nghĩ đến thời thơ ấu của mình, đến làng Sawyer, đến Loonie, nhưng nhìn vào công việc của tôi, bạn sẽ thấy những thứ như là những ca chết ngạt ban đêm, và bạn sẽ có cái cảm giác lạnh lùng mà bạn không muốn giải thích cho một anh chàng trong bộ sắc phục hùng dũng mới đến nào đó, một con người từ đầu đã cho rằng bạn là thứ người kỳ quặc